Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

THỰC TRẠNG lạm PHÁT ở VIỆT NAM HIỆN NAY và NHỮNG yếu kém TRONG CÔNG tác điều HÀNH QUẢN lý của CHÍNH PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.82 KB, 35 trang )

I.LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.khái niệm lạm phát
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theothời gian của mức giá chung của
nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay
giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát
là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông
thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong
phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là
lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh
hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh
tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0
hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả.
2.Đo lường lạm phát và các tiêu chí để đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên
dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động
và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và
dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức
giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá
trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương
ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm
mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm
gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một
quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ
số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các
phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
• Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả
sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là


có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính.
Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được
điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả
của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất
lớn từ giá cả thế giới nói chung).
• Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người
tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công
nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con
số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử
dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có
khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI.
Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó
ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông
thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm
phát đã xảy ra).
• Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không
tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ
cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các
nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây
cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát
sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự
đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm
phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một
trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
• Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với
PPI.
• Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có
lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là
vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và

bạc.
• Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó
là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP
của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay
GDP thực). . Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép
khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá
nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu
dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm
chế lạm phát của mình.
• Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền
tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo Humphrey-Hawkins")
ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng
ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ
số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân"
3.phân loại lạm phát theo mức độ
A.Thiểu phát
Tỷ lệ lạm phát ở mức âm dễ bị nhầm với giảm phát
B.Lạm phát thấp
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 7.0 phần trăm một năm.
C.Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá hai chữ số một năm, nhưng vẫn
thấp hơn siêu lạm phát.
D,Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh
chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát
được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng
tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo Tiêu
chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là: (1)
người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng hóa
trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3)

các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn;
và (4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng
dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.lhg
4.tác hại tiêu cực của lạm phát
A.Lạm phát dự kiến: trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì
các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy
nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:
• Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và
lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát
làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải
thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ
"chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời
gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
• Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
• Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do
lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn)
còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực
đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với
doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá
tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi
mô.
• Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm
phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi
nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập
trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
• Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước
đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và
vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.

B.Lạm phát không dự kiến: đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó
phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam
kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự
kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát
thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm
phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó
rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực
của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là
không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức
vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc
phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do
vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
5.nguyên nhân gây lạm phát
Thứ nhất:Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng
lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS.
Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá
và sản lượng cùng tăng. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng
cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền
phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
Thứ hai:Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt
hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có
tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng
mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu
tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
Thứ ba:Lạm phát do chi phí đẩy
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng.
Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản

phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
Thứ tư:Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động.
Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho
người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành
kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều
đó.
Thứ năm:Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được
huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước
giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và
tổng cầu mất cân bằng.
Thứ sáu :Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập
khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết
định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm
đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập
khẩu đội lên.
Thứ bảy:Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ
cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân
hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền
trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Thứ tám:Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả
hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao
hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
6. kiềm chế lạm phát
Kiềm chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát. Có một loạt các phương thức để
kiềm chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương như Cục dự trữ liên bang Mỹ có

thể tác động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết lập các lãi
suất và thông qua các hoạt động khác (ví dụ: sử dụng các chính sách tiền tệ).
Các lãi suất cao (và sự tăng chậm của cung ứng tiền tệ) là cách thức truyền
thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế lạm phát, sử dụng thất nghiệp và
suy giảm sản xuất để hạn chế tăng giá.
Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét các phương thức kiểm soát lạm
phát rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm phát một cách
cân xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó ở mức
cao.
Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh việc tăng lãi suất bằng cách
giảm cung tiền thông qua các chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Những
người theo học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm cầu nói chung, thông
thường là thông qua các chính sách tài chính để giảm nhu cầu. Họ cũng lưu ý
đến vai trò của chính sách tiền tệ, cụ thể là đối với lạm phát của các hàng hóa cơ
bản từ các công trình nghiên cứu của Robert Solow. Các nhà kinh tế học trọng
cung chủ trương kiềm chế lạm phát bằng cách ấn định tỷ giá hối đoái giữa tiền
tệ và một số đơn vị tiền tệ tham chiếu ổn định như vàng, hay bằng cách giảm
thuế suất giới hạn trong chế độ tỷ giá thả nổi để khuyến khích tích lũy vốn. Tất
cả các chính sách này đã được thực hiện trong thực tế thông qua các tiến trình
nghiệp vụ thị trường mở.
Một phương pháp khác đã thử là chỉ đơn giản thiết lập lương và kiểm soát giá cả
(xem thêm "Các chính sách thu nhập"). Ví dụ, nó đã được thử tại Mỹ trong
những năm đầu thập niên 1970 (dưới thời tổng thống Nixon). Một trong những
vấn đề chính với việc kiểm soát này là nó được sử dụng vào thời gian mà các
biện pháp kích "cầu" được áp dụng, vì thế các giới hạn phía cung (sự kiểm soát,
sản xuất tiềm năng) đã mâu thuẫn với sự tăng trưởng của "cầu". Nói chung, phần
lớn các nhà kinh tế coi việc kiểm soát giá là phản tác dụng khi nó có xu hướng
làm lệch lạc các hoạt động của nền kinh tế vì nó làm gia tăng thiếu thốn, giảm
chất lượng sản phẩm v.v. Tuy nhiên, cái giá phải trả này có thể là "đáng giá" nếu
nó ngăn chặn được sự đình đốn sản xuất nghiêm trọng, là điều có thể có đắt giá

hơn, hay trong trường hợp để kiểm soát lạm phát trong thời gian chiến tranh.
Trên thực tế, việc kiểm soát có thể bổ sung cho đình đốn sản xuất như là một
cách để kiềm chế lạm phát: Việc kiểm soát làm cho đình đốn sản xuất có hiệu
quả hơn như là một cách chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải tăng thất
nghiệp), trong khi sự đình đốn sản xuất ngăn cản các loại hình lệch lạc mà việc
kiểm soát gây ra khi "cầu" là cao.
II.THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NHỮNG YẾU
KÉM TRONG CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH QUẢN LÝ CỦA CHÍNH PHỦ
1.thực trạng lạm phát ở Việt Nam
. Vấn đề lạm phát của nền kinh tế nước ta đã được nhắc đến nhiều từ giữa năm
2007. Có thể thấy, liên tục từ 1998 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau
đều cao hơn năm trước và năm 2007 đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm. Tuy
nhiên, cũng đã có sự cảnh báo về sự tăng trưởng nóng, về sự bền vững của tăng
trưởng.
Trước tình hình và diễn biến của nền kinh tế - xã hội, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết về 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục
tiêu ưu tiên số hàng đầu.
Giá cả leo thang làm cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp điêu đứng.
Không chỉ giá lương thực thực phẩm leo lên vùn vụt, mà giá than, giá vật liệu
xây dựng và giá một số dịch vụ cũng tăng lên. Hiện tượng mức giá chung tăng
đều đặn được gọi là lạm phát. Người ta dùng nhiều chỉ số để đo lạm phát và chỉ
số quen thuộc nhất là chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
Chỉ số này được tính trên cơ sở theo dõi biến động giá theo thời gian của các
mặt hàng nhất định (từ 2005 rổ hàng hoá này gồm gần 500 hàng hoá và dịch vụ).
Chỉ số CPI đã liên tục tăng suốt 4 năm qua: Bắt đầu là 9,5% năm 2004,8,4 %
năm 2005, 6,6% năm 2006,12,6% năm 2007 và trong 4 tháng đầu năm 2008 đã
tăng 11%.đây là chỉ số CPI từ 2000 đến quí 1 2008 theo tổng cục thống kê
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Quý1 2008
CPI -0.6 .8 4 3 9.5 8.4 6.6 12.6 11

Qua lạm phát lần này em có một số nhận xét về thực trạng nền kinh tế như sau :
Điều thứ nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn quá yếu. Bằng
chứng, cùng chịu chung áp lực biến động giá trên thị trường thế giới, nhưng 2
tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng ở các nước trong khu vực tăng không đáng
kể: Thái Lan – 1,7%, Malaysia – 2,2%, Indonesia – 1,8%, Trung Quốc – 2,9%,
trong khi con số này ở ta là – 6,19%.1 Có nghĩa khả năng cạnh tranh của ta kém
xa các nước láng giềng. Cụ thể là ở đâu? Dễ nhận thấy nhất là ở hiệu quả sản
xuất. Trong khi những yếu tố lợi thế như lao động rẻ hay giá năng lượng thấp
vẫn chưa được khai thác triệt để thì các chi phí khác lại quá cao. Nhiều chi phí
cao đến mức phi lý như: chi phí thuê đất, chi phí vận tải, đặc biệt là các chi phí
“bôi trơn”; công nghệ sản xuất thì lạc hậu (đi sau so các nước trong khu vực
khoảng chừng 20-30 năm); cơ sở hạ tầng còn yếu, nền công nghiệp lệ thuộc gần
như hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu cộng thêm với năng lực quản lý còn
yếu, quan liêu, tham nhũng (đặc biệt ở các DNNN). Tất cả đã đẩy giá thành các
sản phẩm trong nước lên tới mức trần, có nghĩa là không còn khoảng trống an
toàn để dự phòng về giá. Chính vì vậy, khi một yếu tố sản xuất nào đó thay đổi,
ngay lập tức tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Sản xuất với tình trạng
lúc nào cũng căng dây cót về giá như thế thử hỏi làm gì còn sức để tăng cường
năng lực cạnh tranh.
Điều thứ hai, nền kinh tế Việt Nam không năng động như ta nghĩ. Chỉ nhìn vào
phản ứng của các chủ thể kinh tế cơ bản sẽ thấy ngay. Ngân hàng Nhà nước, cơ
quan chịu trách nhiệm chính trong kiểm soát lạm phát, trước lượng tiền đầu tư
nước ngoài tăng hơn dự kiến (7 tỷ USD trong 6 tháng) đã tỏ ra bối rối. Khi một
quốc gia được các nhà đầu tư “ưu ái” bơm tiền - đó là cơ hội lớn. Nhiệm vụ của
chúng ta là làm thế nào để hấp thụ lượng tiền này, biến nó thành sản phẩm,
thành giá trị gia tăng thúc đẩy kinh tế phát triển, chứ ra sức mua vào để cất thì
còn nói làm gì (?). Các doanh nghiệp cũng vậy, trước áp lực lạm phát, vẫn giữ
một chiêu duy nhất – tăng giá bán, khá hơn một chút là thực hành tiết kiệm. Ít ai
nghĩ đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất thông qua tái cấu trúc tổ chức, đầu tư
đổi mới công nghệ hoặc ít ra cải tổ qui trình quản lý. Đã vào chợ WTO rồi mà

vẫn nặng nề tư tưởng – tát nước theo mưa – giá đầu vào tăng 1, lập tức đội giá
đầu ra lên 1,5. Tội vạ đâu đã có khách hàng chịu. Làm ăn như thế thử hỏi làm
sao có thể trụ vững ngay trên sân nhà chứ đừng nói gì là sân khách.
Điều thứ ba, hình như anh chàng lạm phát lần này muốn nhắc khéo chúng ta:
hãy coi chừng, mô hình phát triển kinh tế của bạn đang có vấn đề. Vấn đề gì?
Kinh tế của ta tăng trưởng liên tục cả chục năm nay, tự hào và mạnh mẽ, thế và
lực của đất nước trên trường quốc tế ngày một lên, làm sao có vấn đề được?
Xin hãy bình tĩnh một chút, hình như tăng trưởng của chúng ta lâu nay chủ yếu
dựa vào xuất khẩu, với giá trị hiện nay đã xấp xỉ 60% GDP. Tất cả ưu tiên cho
xuất khẩu từ xây dựng cơ sở hạ tầng đến chính sách tỷ giá. Bối cảnh này làm ta
nhớ lại cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á cách đây đúng 10 năm. Khi
đó, mô hình kinh tế của các nước Đông Á về cơ bản là giống ta bây giờ, cũng
được xây dựng theo lý thuyết của chủ nghĩa trọng tiền hiện đại (monetarism) với
hai điểm đặc biệt: sản xuất tập trung chủ yếu vào xuất khẩu và đồng tiền quốc
gia được gắn chặt vào đồng USD. Lợi và hại của mô hình này ra sao thi ai cũng
biết rồi , ở đây chỉ xin nhắc lại – lịch sử đã chứng minh mô hình phát triển kiểu
này không bền vững tý nào. Dĩ nhiên còn quá sớm khi lo ngại về một cuộc
khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam, nhưng cảnh báo thì không bao giờ thừa.
Đã vậy, ở ta hiện nay đang tồn tại một nghịch lý. Theo tỷ giá, Việt Nam đồng
đang mất giá so với USD. Và trên thế giới đồng USD lại đang mất giá so với
những đồng ngoại tệ mạnh khác. Giữ được tỷ giá VND thấp, xuất khẩu sẽ có lợi,
nhưng đổi lại khu vực nhập khẩu phải chịu áp lực nặng nề. Trong khi chúng ta
đang nhập siêu, mà lại nhập siêu nguyên, nhiên liệu để phục vụ sản xuất. Nên
trừ những ngành xuất khẩu, các ngành khác còn lại đều phải chịu chung áp lực
lạm phát. Mà người chịu trận cuối cùng là ai? Không ai khác ngoài người tiêu
dùng. Và nếu để tình trạng như thế kéo dài, chắc chắn đời sống người dân, đặc
biệt là bà con nông dân sẽ ngày một khó khăn hơn. Vậy chẳng hóa ra, chúng ta
càng tăng trưởng, đời sống của người dân sẽ càng vất vả? Cho nên giữ được
chính sách tỷ giá như hiện nay là rất tốt, nhưng nó chỉ phát huy tác dụng nếu ta
phá vỡ được sự lệ thuộc quá thái vào nguyên nhiên liệu nhập khẩu, nâng cao

được hiệu quả sản xuất và phát triển mạnh mẽ sản xuất phục vụ nhu cầu của thị
trường nội địa. Cần phải nhận thức rõ rằng, trong hoàn cảnh thực tế hiện nay, tỷ
giá hối đoái không ảnh hưởng nhiều đến sức mua của tiền đồng. Cho dù chúng
ta có trả lại cho tiền đồng giá trị thực (đắt hơn giá trị hối đoái hiện nay) thì sức
mua của tiền đồng cũng không hề tăng lên, mà lúc đó, chúng ta sẽ vướng vào ma
trận tỷ giá - lạm phát, như một số nước đang mắc phải. Nga là một ví dụ. Mấy
năm gần đây, đồng Rúp liên tục tăng giá so với USD, nhưng sức mua thực của
đồng tiền này trên thị trường trong nước không hề tăng mà lại liên tục giảm.
Chắc các bạn cũng biết, chính phủ Nga đã vất vả như thế nào để giữ được mức
lạm phát không vượt quá hai con số.
Vậy phải làm gì đây? Thực ra, cách giải bài toán phát triển mà ta đang mắc phải
hiện nay, đã được nhà kinh tế Mỹ Paul Krugman (MIT) đưa ra 13 năm trước.
Năm 1994, rất lâu trước thềm khủng hoảng tài chính 1997, Krugman đã đưa ra
lời cảnh báo về sự thật của các “thần kỳ kinh tế Đông Á”. Ông ta cho rằng, tăng
trưởng kinh tế nhờ “bơm” nguồn vốn đầu tư không mệt mỏi từ bên ngoài mà
không tạo được những bước tiến thực chất trong sản xuất cũng như nâng cao
năng suất sản xuất tổng hợp thì khó có thể mang lại sự thịnh vượng lâu dài.2
(Paul Krugman). Các nước Đông Á lúc đó có nghe điều đó nhưng không mấy để
tâm. Hậu quả thế nào thì ai cũng rõ. Còn chúng ta hôm nay thì sao
Bóng dáng của khủng hoảng là hiện hữu? VN chưa hẳn đã là tăng trưởng nóng,
vì Trung Quốc đã tăng trưởng nóng trên 10% trong một thời gian dài, trong khi
VN mới chỉ ở mức cao trong vài năm gần đây?
Đây là một câu hỏi rất nhạy cảm. Các học giả ĐH Harvard cảnh báo Chính phủ
về 8/10 nguy cơ khủng hoảng đã xuất hiện, nhưng mới ở giác độ khủng hoảng
về tài chính, tiền tệ.
Tăng trưởng nóng của VN khác Trung Quốc, khác thế giới, đó không phải nóng
dựa trên sự tăng trưởng bền vững – khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng trưởng
thực sự và không ảnh hưởng gì tới ngân sách Nhà nước, tới vay nợ, thất thoát.
Tăng trưởng hiện nay của VN dựa trên khu vực kinh tế Nhà nước rất lớn nhưng
hiệu quả không cao – đó là một nguy cơ. Nếu càng dành được nhiều vốn ODA

để Nhà nước đứng ra đầu tư thì càng nguy hiểm cho tương lai (thất thoát, hiệu
quả thấp, chất lượng thấp, thu hồi vốn chậm ), càng tăng trưởng nóng, nguy cơ
đổ vỡ càng lớn.Và thực tế thì khu vực kinh tế Nhà nước lớn là thế ,đồ sộ là thế
nhưng chỉ tạo ra 40%GDP ??
. Hiện nay hệ số ICOR (số vốn đầu tư cần thiết để tạo ra 1 đồng tăng trưởng
thêm trong GDP) của các nước trong khu vực thấp hơn VN rất nhiều, đó cũng là
một minh chứng cho việc chất lượng, hiệu quả tăng trưởng chưa cao?
Hiện nay hệ số ICOR của Hàn Quốc là 3, để đạt tốc độ tăng trưởng GDP
7,9%/năm; Trung Quốc tăng trưởng 9,7%, ICOR là 4; lãnh thổ Đài Loan là 9,7%
và 2,7. Chỉ số ICOR của VN hiện bình quân là 4,4, còn tính riêng khu vực Nhà
nước là 8. Tất nhiên đầu tư của Nhà nước là đầu tư công, chủ yếu vào hạ tầng
nên tốn kém, không thể có lãi nhanh Đây là bằng chứng gián tiếp cho thấy tính
kém bền vững của đầu tư công(cpi năm 2007)
Hiện nay khoản chi ngân sách Nhà nước dựa trên tăng thu ngân sách, bán tài
nguyên, xuất khẩu thô, tăng đô la để chi , tất cả những khoản này đều không
bền vững. Cơ chế kiểm soát dòng đầu tư công phải có hiệu quả. Khi mà một dự
án đầu tư bị thất thoát, lãng phí tới 30% thì không thể nói là đầu tư hiệu quả,
lành mạnh, không thể nói là không khủng hoảng.
Tình hình kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2008 đã và đang có những diễn
biến bất lợi. Tăng trưởng kinh tế vẫn cao, nhưng không đạt mục tiêu đề ra, tăng
trưởng của công nghiệp - xây dựng thấp. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có biểu
hiện xấu.Giá tiêu dùng liên tiếp tăng và tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đã
là 9,19%, nêu tính cả tháng 4 đã là trên 11%, ảnh hưởng rất bất lợi đến sản xuất
kinh doanh, đến đầu tư phát triển và tác động xấu đến đời sống nhân dân. Thị
trường tài chính, thị trường chứng khoán có nhiều biến động bất thường, nhập
siêu tăng cao, cán cân thương mại và cán cân thanh toán thiếu vững chắc,mới
đây nhất là việc giá dầu tăng cao kỉ lục 128 USD/thùng .Nhóm hàng lương thực
đã tăng 15,02%,nhóm hàng thực phẩm tăng 10,06% ,nhà ở và xây dựng tăng
11,01% và chỉ có riêng nhóm hàng bưu chính viễn thông giảm được 2,91%
2.Những yếu kém trong công tác điều hành quản lý của chính phủ

Trong báo cáo trước Quốc Hội hôm 6/5Thủ tướng nêu rõ: những yếu kém, bất
cập trong quản lý, điều hành của Chính phủ là nguyên nhân chủ quan trực tiếp
khiến những mặt yếu vốn có của nền kinh tế nước ta bộc lộ rõ hơn và tác động
sâu rộng hơn. Cụ thể là:
Thứ nhất:Thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng trong nhiều năm, nhất là trong
năm 2007, làm tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng tăng cao,
gây áp lực trực tiếp đến lạm phát. Nhiều ngân hàng cổ phần đã tăng dư nợ tín
dụng quá cao và sử dụng tỷ lệ lớn vốn ngắn hạn cho vay dài hạn, cho vay kinh
doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản. Điều hành tỷ giá, nhất là tỷ giá
đồng Việt Nam với đô la Mỹ chưa thật linh hoạt, phù hợp.
Thứ hai:Bội chi ngân sách liên tục trong nhiều năm trong khi quy mô nền kinh
tế ngày càng lớn, chưa đặt ra kế hoạch phấn đấu giảm dần bội chi; do đó không
tạo được áp lực đối với việc kiểm soát và tiết kiệm chi tiêu ngân sách. Chi đầu
tư từ khu vực nhà nước còn lớn và hiệu quả thấp. Hệ số ICOR của nước ta cao
hơn so với nhiều nền kinh tế ở thời kỳ phát triển tương đương làm giảm chất
lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ ba:Vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường, quản lý giá cả, quản lý
xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập, yếu kém; chậm đề ra các chính sách thích
hợp, có hiệu quả để quản lý và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các hoạt
động này.
Thứ tư:Công tác nghiên cứu dự báo và thông tin thị trường chưa được coi trọng
đúng mức. Năng lực tham mưu tổng hợp về kinh tế vĩ mô chưa đáp ứng kịp yêu
cầu quản lý điều hành. Đến những tháng cuối năm 2007, các đánh giá vẫn nặng
về thời cơ, thuận lợi, chưa phân tích dự báo được hết những khó khăn thách thức
mới, nên Chính phủ vẫn trình Quốc hội thông qua chỉ tiêu tăng trưởng cao trong
năm 2008 (GDP tăng từ 8,5 đến 9%, phấn đấu đạt mức cao hơn) và dự báo tốc
độ tăng giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng GDP.
Thứ năm: Công tác thông tin tuyên truyền, giải thích tình hình chưa kịp thời,
chưa đủ rõ và thiếu nhất quán, nhất là trước những diễn biến mới và khi ban
hành các chính sách, giải pháp có tính nhạy cảm, gây xao động, lo lắng trong xã

hội. Chưa quản lý và chỉ đạo tốt các phương tiện thông tin đại chúng tham gia
thiết thực, hiệu quả trong việc thực hiện những nhiệm vụ cấp bách, quan trọng
của đất nước.
III.NHUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY(TỪ GIỮA
NĂM 2007 ĐẾN QUÍ 1 NĂM 2008)
Nhưng yếu kém mà Thủ Tướng đưa ra cũng chính là những nguyên nhân nhưng
vẫn chưa được cụ thể hóa và sau đây em xin phép được bổ sung
Qua việc xem xét và nghiên cứu trên bình diện tổng thế những diễn biến lạm
phát thời gian qua .Em xin đưa ra 8 nguyên nhân sau (theo mức độ đánh giá
nghiêm trọng khác nhau)
Thứ nhất:Nguyên nhân đơn giản nhất mà ai cũng thấy rõ là do giảm nguồn cung
của một số mặt hàng thực phẩm thiết yếu.cụ thể là dịch cúm gia cầm và dịch lợn
tai xanh trong nhưng năm 2007 và vẫn còn đang le lói tái phát trong 2008 gần
đây nhất là đợt rét đậm rét hại làm chết 8328 con trâu bò ở Tây Bắc Bộ
Thứ hai:lạm phát do cơ cấu:Thật không may trong thời điểm nhạy cảm này là
một động thái đã có từ trước của chính Phủ trong thời gian gần đây .Đó là tăng
lương cơ bản 20% vào 1/1/2008
Áp lực này vừa là kết quả của lạm phát thời gian qua, lại vừa là một phần
nguyên nhân quan trọng cho lạm phát trong thời gian tới. Có thể nói quyết định
tăng lương đã hoàn thành chu trình tạo ra lạm phát hiện nay, báo hiệu nguy cơ tự
tái tạo của hiện tượng này. Do đó, nếu Chính phủ không tiếp tục chống lạm phát
một cách cứng rắn, đạt được mục tiêu trên có thể trở thành một nhiệm vụ khó
khăn.
Thứ ba:Do chi phí đẩy
Lam phát của Việt Nam tăng cao còn do sự ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới.
Bởi vì hiện nay việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu trong xu
hướng toàn cầu hoá, vì vậy khi các nền kinh tế lớn gặp trục trặc thì ảnh hưởng
nhiều đến kinh tế Việt Nam.
Tình hình giá cả nguyên liệu trế giới đang nóng lên với việc giá xăng dầu tăng
với tốc độ chóng mặt,gây ra rất nhiều khó khăn cho kinh tế Việt Nam. Nhất là

trong tình hình lãng phí nhiên liệu trong sản xuất ở Việt Nam còn rất cao, phụ
thuộc mạnh vào nhiên liệu có nguồn gốc từ dầu mỏ, chưa có các nguồn nhiên
liệu thay thế như năng lượng mặt trời, sức gió, năng lượng thuỷ triều, năng
lượng hạt nhân,… thì việc giá dầu tăng nhanh sẽ bắt đầu cho cơn bão giá cả, tạo
điều kiện cho lạm phát theo quán tính. Về lâu về dài có thể triệt tiêu khả năng
tăng trưởng kinh tế.
Giá dầu thế giới đã tăng cao trong năm 2007, và đầu năm 2008 đạt hết kỷ lục
này đến kỷ lục khác, theo ghi nhận kỉ lục mới nhất mà em có là 128USD/thùng
vào 16/05/2008, mức mà chưa có dự báo nào trong năm 2007 đưa ra.
Không riêng gì giá dầu ,giá sắt thép tăng 21,4 (riêng phôi thép tăng 42,4%), đã
làm tăng 259 triệu USD; giá phân bón tăng 71,3%, đã làm tăng 88 triệu USD;
giá chất dẻo tăng 12,6%, đã làm tăng 54 triệu USD; giá sợi dệt tăng 14,2%, đã
làm tăng 16 triệu USD; giá lúa mì tăng 55,5%, đã làm tăng 12 triệu USD; giá
bông tăng 16,4%, đã làm tăng 10 triệu USD; giá giấy tăng 5,2%, đã làm tăng 6
triệu USD. Chỉ với những mặt hàng trên, do giá tăng đã làm kim ngạch nhập
khẩu tăng gần 1 tỉ USD trong 2 tháng, chiếm gần một phần tư tổng kim ngạch
nhập khẩu của các mặt hàng này. Trong khi đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam lại mang tính gia công rất cao, như dệt may, giày dép có đến 80%
nguyên liệu phải nhập khẩu.
Đây chắc chắn là một trong những nguyên nhân gây ra tăng giá CPI cao ở Việt
Nam trong suốt thời gian vừa qua.
Thế nhưng, nếu nói đó là lạm phát, thì cách chữa trị lạm phát lại không phải là
bằng các biện pháp tiền tệ, vì vấn đề là cung giảm, giá cả nguồn nhập khẩu tăng.
Bởi vậy, nếu chữa trị bằng các chính sách tiền tệ thì giống như bốc thuốc sai
bệnh. Thêm một cách lập luận nữa là, nếu giá lương thực – thực phẩm và giá
dầu lửa thế giới là nguyên nhân chính, thì các nước trong khu vực như Thái Lan
và Trung Quốc cũng phải chịu sức ép tăng giá tương tự. Tuy nhiên, trong khi tỷ
lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu
lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%. Đầu năm 2008, lạm phát Trung Quốc
có nhích lên, nhưng chưa đến con số như Việt Nam, hơn nữa vẫn còn thấp xa so

với tốc độ tăng trưởng hai con số của nền kinh tế. lieuj có thể kết luận lạm phát
do chi phí đẩy chiếm một nửa tỉ lệ lạm phát hiện nay?
Thứ tư:Lam phát do cầu kéo
Dưới đây em xin tham khảo bài viết của thạc sĩ Nguyễn sĩ Dũng trong tờ báo
vneconomy
Thực tiễn của nền kinh tế thị trường thế giới xác nhận rằng, lạm phát thường có
mối liên hệ mật thiết với TTCK và thị trường bất động sản.
Bình thông nhau
Tình trạng này đã tác động quyết định đối với lạm phát xét trên các điểm chủ
yếu sau đây: Thứ nhất, tạo nên sự phân hoá hai cực, một cực là tình trạng bội
thực vốn trong giới đầu cơ do thu được những khoản lợi nhuận rất lớn từ đầu cơ
chứng khoán và bất động sản, hệ quả một mặt là tiền tiếp tục đổ vào thị trường
bất động sản làm cho giá cả tăng vọt. Mặt khác là chuyển vào các kênh dự trữ
như vàng, ngoại tệ mạnh hay chuyển ra nước ngoài do giá cổ phiếu giảm mạnh,
gây thiếu hụt cung tiền làm tăng lãi suất; cực còn lại chủ yếu là các DN dân
doanh, khu vực chủ yếu tạo ra tăng trưởng, thiếu vốn nghiêm trọng cho dù đã
chấp nhận vay với lãi suất cao. Tình trạng này đương nhiên làm nảy sinh một
hậu quả kép, một mặt, làm chệch hướng phân bổ đầu tư hiệu quả, do vậy làm
giảm tăng trưởng. Mặt khác, gây nên tình trạng thiếu hụt tiền có thể coi là giả
tạo trong lưu thông, khoảng cách cung và cầu tiền bị kéo doãng quá mức, vừa
làm tăng giá hàng hoá vừa làm tăng chi phí đầu tư, do vậy lạm phát tăng.
Thứ hai, do siêu lợi nhuận có được từ đầu cơ trên cả hai TTCK và bất động sản
đã làm nảy sinh phương thức tiêu dùng mà đặc trưng của nó, mua vét với khối
lượng lớn trong một thời gian rất ngắn nhiều loại hàng hoá như đất đai, vàng,
ngoại tệ Mặt khác, tạo nên một kênh lưu chuyển riêng biệt về hàng hoá và tiền
với khối lượng rất lớn trong giới đầu cơ, vừa làm biến dạng lưu thông tiền tệ,
vừa tạo nên sự kích hoạt làm tăng giá đồng loạt nhiều loại hàng hoá một cách
đột biến. Thêm vào đó, sự kích hoạt này được sự bổ trợ của hàng loạt tác nhân
mà đáng kể nhất là tăng lương, tăng giá xăng dầu, giá nguyên liệu của nhiều loại
hàng hoá nhập khẩu sự chênh lệch giữa mặt bằng giá nội địa thấp và mặt bằng

giá cao trên thị trường thế giới đã được khai thông theo nguyên lý bình thông
nhau do độ mở của nền kinh tế, kết quả là mặt bằng giá của thị trường nội địa đã
bị đẩy lên cao mang tính hệ thống để xích lại gần với giá cả hàng hoá trên thị
trường thế giới. Chưa hết, chính sách kiềm chế tăng giá của chính phủ trong một
thời gian dài bất ngờ bị hụt hơi. Giá của nhiều loại hàng hoá rơi vào trạng thái
gần như tăng tự do. Kết cục, giá cả tăng mạnh, lạm phát nhất thiết tăng cao.
Thứ ba, giá cổ phiếu giảm mạnh vốn là bài toán không xa lạ đối với các nhà đầu
cơ. Họ chờ thời điểm chạm đáy và không vội vàng mua vào, một mặt do sự liên
kết giữa họ. Mặt khác, họ kỳ vọng các phản ứng của Chính phủ, chẳng hạn như
đổ tiền vào TTCK tạo nên sự kích hoạt tăng giá. Hậu quả đương nhiên là lạm
phát gia tăng.
Thứ tư, tạo nên tình trạng khó có khả năng kiểm soát. Sự tồn tại lâu dài của đầu
cơ và lũng đoạn trên TTCK và thị trường bất động sản đã bao hàm trong nó cơ
sở của tình trạng phân bổ vốn đầu tư vào lĩnh vực có nhiều rủi ro mà rất khó
kiểm soát đương nhiên tự nó sẽ sản sinh ra lạm phát.
Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng
Sự yếu kém của hệ thống này thể hiện trên hai điểm chủ yếu: Nếu như trước đây
hệ thống này có chức năng chủ yếu là cho các xí ngiệp quốc doanh vay tiền,
nghiã là nguồn vốn chủ yếu của quốc gia được tập trung đầu tư vào lĩnh vực
không có, hoặc ít có khả năng sinh lời, thì từ khi đổi mới đến nay, nó đã thực
hiện một bước chuyển theo chiều ngược lại, chủ yếu tập trung cho vay ở lĩnh
vực có khả năng sinh lợi cao nhất của nền kinh tế, cụ thể là tập trung cho vay
mua cổ phiếu và bất động sản. Vì rằng mua cổ phiếu và bất động sản chủ yếu là
nhằm mục tiêu đầu cơ, thành thử trên thực tế, hệ thống ngân hàng trở thành một
bộ phận hay chỗ dựa của các hoạt động đầu cơ và lũng đoạn thị trường. Điều
này hàm ý rằng, trong trường hợp giá cổ phiếu sụt giảm mạnh như hiện nay và
thị trường bất động sản khó tránh khỏi khủng hoảng trong thời gian tới, ngân
hàng đã và sẽ mất khả năng thanh toán, tạo ra tình trạng hoảng loạn, người gửi ồ
ạt rút tiền để chuyển sang các hình thức dự trũ khác ít rủi ro hơn, như vàng hay
những hàng hoá có khả năng đảm bảo khác làm cho thị trường tài chính rối loạn.

Bên cạnh đó, tình trạng hàng loạt Cty đua nhau lập ngân hàng chủ yếu nhằm
kinh doanh chứng khoán và bất động sản, từng dòng người chen chúc nhau mua
vét vàng ở các hiệu vàng tư nhân không thể không làm suy yếu hệ thống ngân
hàng và gia tăng thêm tình trạng hỗn loạn của thị trường tài chính.
Vì rằng chính sách tài chính tiền tệ chỉ có thể phát huy tác dụng trong điều kiện
hệ thống ngân hàng đủ mạnh, nên trong bối cảnh nêu trên, chính sách tài chính
tiền tệ quốc gia hoặc là sẽ bị tê liệt, hoặc là không có thậm chí phản tác dụng,
lạm phát như là kết quả tất nhiên không thể tránh khỏi.
Bên cạnh đó, việc tổ chức hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập với các nguyên
tắc của kinh tế thị trường. Quan sát vẻ bề ngoài thì dường như sự phân cấp của
hệ thống ngân hàng hiện nay là tương thích với hệ thống ngân hàng của các
nước có nền kinh tế thị trường. Thế nhưng trên thực tế, ngân hàng trung ương
nước ta cũng chỉ giống như một bộ ngành thực hiện chức năng quản lý hành
chính chứ không phải làm nhiệm vụ quản lý hệ thống ngân hàng chuyên doanh
mà nhiệm vụ quan trọng nhất là định hướng các ngân hàng này chuyển tiền vào
các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả chứ không phải chủ yếu chuyển vào các cuộc
chơi đầy may rủi như hiện nay.
Thực tế của nền kinh tế thị trường xác nhận rằng, quy định lãi suất, mức dự trữ
bắt buộc hay lớn hơn là quyết định mức cung tiền vẫn đơn thuần là các nghiệp
vụ hành chính chừng nào không có khả năng định hướng các ngân hàng chuyên
doanh nhằm vào mục tiêu tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Xét trên giác
độ này, ngân hàng trung ương đã không thực hiện được chức năng định hướng
các ngân hàng chuyên doanh hoạt động hiệu quả. Thực tế là, ngân hàng trung
ương có rất ít mối quan hệ với các ngân hàng chuyên doanh. Mối quan hệ tương
tác xét trên bình diện quản lý kinh tế thực sự là chưa được xác lập. Bằng chứng
là, các hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng chuyên doanh, về cơ bản
không có mối liên hệ nào với ngân hàng trung ương. Rõ ràng là các hoạt động
tín dụng của ngân hàng vì mục tiêu đầu cơ trong TTCK và thị trường bất động
sản đã tồn tại trong một thời gian dài, trong khi ngân hàng trung uơng thực ra
chỉ tồn tại bên cạnh nó như một cơ quan quản lý hành chính bất lực trước các

hoạt động đầu cơ của các ngân hàng chuyên doanh. Với một hệ thống ngân hàng
như vậy, lạm phát chỉ là vấn đề thời gian ngay cả trong trường hợp giá nguyên
liệu thế giới cũng như giá lương thực thực phẩm không tăng. Nói khác đi, lạm
phát nhất định sẽ xảy ra mà không phụ thuộc vào tăng giá lương thực, thực
phẩm cũng như tăng giá nguyên liệu trên thị trường thế giới ở mức độ nào.
Thứ năm:Lạm phát do chính sách tiền tệ
Lạm phát có được bước nhảy vọt ngoặt mục như thế phần lớn từ chính sách
thiếu đồng bộ giữa ngân hàng và bộ tài chính.
Vấn đề nhảy vọt có nguyên nhân khá rõ ràng. Ngân hàng (NH) phải mua vào số
lượng lớn ngoại tệ (đầu tư trực tiếp và đặc biệt là đầu tư vào TTCK.Thời báo
Kinh tế Sàigòn (số 10/2008) đã đưa thông tin rất quan trọng cho biết, Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) nửa đầu năm 2007 đã tung ra 105 ngàn tỉ đồng để mua vào
6,5 tỉ USD làm dự trữ ngoại tệ, sau đó lại tung thêm 40 ngàn tỉ đồng để mua
thêm 2,5 tỉ USD . Như vậy tổng số tiền tung ra mua 9 tỉ USD ngoại tệ là 145
ngàn tỉ đồng.
Số tiền mà NHNN rút về được là 90 ngàn tỉ, như vậy số tiền in thêm cho thị
trường là 55 ngàn tỉ đồng chỉ để mua ngoại tệ. So với tổng số tiền mặt có trên thị
trường cuối năm 2006 là 159 ngàn tỉ đồng thì tiền mặt đã tăng 34,6% để mua
ngoại tệ. Nhiều vấn đề không rõ ràng vì NHNN chưa bao giờ minh bạch thống
kê ngân hàng, tức là chỉ cho thông tin chọn lọc ở mức độ đủ để giải thích theo ý
kiến của chính NHNN như ở trên
Khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam với các quốc gia có lạm phát thấp hơn, như
Trung Quốc và Thái Lan, đó là tốc độ tăng cung tiền. Tính tới cuối tháng 6 năm
2007, lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng ở Việt Nam đã tăng
tới 21,1% so với đầu năm. Con số tương ứng của Trung Quốc và Thái Lan lần
lượt là 10,0% và 1,4%.
Muốn tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi phải thúc đẩy đầu tư
mạnh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều, như vậy lượng tiền đưa vào lưu
thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng
cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm

phát tiền tệ cũng sẽ nảy sinh.
Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn
nước ngoài chảy vào tăng đột biến (gồm cả đầu tư và kiều hối), từ đó buộc Ngân
hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng. Việc mua đó
đồng nghĩa với tung thêm tiền đồng Viêt Nam vào lưu thông, nhưng không thể
không mua được vì một mặt để tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho nhập khẩu, mặt
khác là để thu hút luồng vốn từ bên ngoài vào phát triển kinh tế. Nhưng theo các
nhà kinh tế, không mua USD vào còn tồi tệ hơn, làm ảnh hưởng đến môi trường
đầu tư trong nước. Bởi vậy, hoạt động nghiệp vụ tiền tệ thu gom hơn 90 000 tỉ
đồng trong năm 2007 là giải pháp đúng của Ngân hàng nhà nước.
Nhưng lạm phát bùng lên trong năm 2007 và hai tháng đầu năm 2008 là do
nhiều nguyên nhân, thậm chí có cả nguyên nhân tích tụ từ lâu do đầu tư kém
hiệu quả (hệ số ICOR tăng), cuối cùng thể hiện ở chênh lệch giữa tăng trưởng
GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn rộng trong vòng 3 năm
qua. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối
tháng 6-2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu
thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này,
GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch
giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan là hầu như không đáng kể.
Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền
lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở
Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng
cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở Việt Nam, Trung
Quốc và Thái Lan không thể khác nhau nhiều.
Một số tài liệu đã đưa ra mức lạm phát tiền tệ với tỷ lệ chỉ có 4-6% (tính theo
chỉ số lạm phát cơ bản - core inflation), phần còn lại mới là lạm phát do giá cả
tăng theo giá dầu và lương thực, thực phẩm. Nếu đúng như vậy thì yếu tố cung
cầu cục bộ lại đóng góp trên 50% mức tăng chỉ số CPI thời gian qua. Và nếu giả
định không có đột biến về cung cầu lương thực và xăng dầu thì mức lạm phát
tiền tệ 6%/năm là hoàn toàn tích cực đối với nền kinh tế đang cần tăng trưởng

nhanh
Thứ sáu:Lạm phát do tỉ giá hối đoái VND
1. Neo tỷ giá cứng nhắc với USD dẫn đến cung tiền tăng mạnh
Kinh tế Việt Nam trẻ, được đánh giá có nhiều tiềm năng và triển vọng về cơ hội
đầu tư do vậy sau khi gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam tăng đột biến (chỉ tính riêng năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). Về nguyên tắc
khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, Việt Nam Đồng (VNĐ) sẽ
lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, với chiến lược phát triển dựa vào
xuất khẩu, NHNN Việt Nam phát hành VNĐ mua lại lượng ngoại tệ này với
mục đích kìm tỉ giá của VNĐ với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân
bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VNĐ
yếu có thể coi là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong
những điều kiện kinh tế thế giới nhất định. Tuy nhiên, mặt trái thứ nhất của
chính sách này là do phải tung VNĐ ra mua lại lượng ngoại tệ chảy vào, lượng
cung tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức
tăng rất lớn mặc dù NHNN đã có nỗ lực hút lại một phần cung tiền.
2. Neo tỷ giá với USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu khiến chi phí cho sản
xuất trong nước tăng
Cũng trong vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ đồng USD của
Mỹ đã mất giá so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Cộng thêm vào đó, cuộc
khủng hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ vào cuối năm 2007 khiến nền kinh tế này
bước vào giai đoạn suy thoái, đẩy đồng USD mất giá nhiều hơn nữa, giá xăng
dầu tính theo đồng USD tăng mạnh. Hình 1 cho thấy chỉ tính từ năm 2006 đến
nay đồng USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ
mạnh khác như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, và đồng Nhân dân tệ Trung Quốc.
Hình 1: Tăng giá của các ngoại tệ mạnh so với USD từ năm 2006. Nguồn:
Datastream
Tuy nhiên tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với
USD (tính đến cuối tháng 2/2008 chỉ tăng 0.24% so với 2006). Do đó qua việc
neo tỉ giá, VNĐ cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác.

Chính sách VNĐ yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời lại góp
phần “nhập khẩu lạm phát “vào Viet Nam. Lí do là sản xuất tại Việt Nam hiện
nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng,
sắt thép, máy móc…Sự mất giá của USD hay nói cách khác là sự tăng giá thành
của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VNĐ dưới chế độ
tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo
theo giá cả hàng hóa tăng theo. Chi phí cho sản xuất tăng cao, lượng cung tiền
lớn do vậy lạm phát phi mã là không tránh khỏi. Thời gian vừa qua báo chí hay
đề cập đến việc nhập siêu hay thâm hụt cán cân thương mại danh nghĩa của Việt
Nam, VNĐ mất giá so với các ngoại tệ khác góp phần đáng kể vào việc tăng giá
thành của hàng nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt lớn.
3. Tỷ giá và lạm phát ở các nước khu vực
Để so sánh, chúng ta thử quan sát tỷ giá và mức lạm phát của những nước xung
quanh khu vực có cơ cấu kinh tế gần giống Việt Nam, cùng chung chiến lược
phát triển dựa vào xuất khẩu, và là những đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu với
Việt Nam. Hình 2 cho thấy mặc dù là hai nước rất chú trọng xuất khẩu nhưng
Thailand và Đài Loan đã phải “chịu hi sinh” để tỉ giá của đồng nội tệ tăng so với
USD hơn 20% và duy trì được lạm phát trung bình ở mức 3% từ 2006 đến nay.
Trong khi, Việt Nam và Indonesia gắng neo tỉ giá theo đồng USD và chấp nhận
nhập khẩu lạm phát ở mức trung bình các quý 9%. Lạm phát tại Indonesia trong
năm 2006 còn ở mức 16%/năm, cao hơn lạm phát hiện nay của Việt Nam và
cũng đang có chiều hướng tăng lên. Lạm phát cao khiến lãi suất danh nghĩa buộc
phải tăng cao hơn nữa để giữ lãi suất thực khỏi âm, đẩy kinh tế Việt Nam sâu
hơn nữa vào vòng xoáy lãi suất, tỷ giá, và vốn nước ngoài.
Thứ bảy:Lạm phát do bội ngân sách :
Theo đánh giá của IMF thì bội chi ngân sách của Việt Nam là 6,6%GDP lớn hơn
mức độ bội chi tối đa cho phép là 5%.Trong khi bội chi ngân sách theo Bộ
Trưởng Bộ Tài Chính Vũ Văn Ninh khẳng định thì mức độ bội chi của Việt
Nam vẫn đang ở mức cho phép và theo ông giải thích là do cách tính có khác
nhau

Chính phủ có thể hồi phục sự ổn định tương đối nhanh chóng bằng kiểm soát chi
tiêu công và tiền vay của doanh nghiệp nhà nước. Tin xấu là việc này, dù đơn
giản, nhưng rất khó để thực hiện thành công do các rào cản trong cơ quan nhà
nước.
Vào đầu những năm 90, lo lắng vì hoạt động kém hiệu quả của các công ty nhà
nước khiến chính phủ quyết định thành lập các tổng công ty và tập đoàn kinh tế,
theo hình mẫu keiretsu của Nhật và chaebol của Hàn Quốc. Ý định ban đầu là
quy mô lớn sẽ giúp các công ty cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nhưng thay vào đó, các công ty này lại tập trung vào xây dựng quyền lực ở thị
trường nội địa trong các lĩnh vực nhiều lợi nhuận như bất động sản, dịch vụ tài
chính, viễn thông và du lịch.
Một số ít công ty xuất khẩu lại sử dụng quan hệ để được chính phủ bảo lãnh các
khoản vay, dùng để mở rộng vào những lĩnh vực ngoài ngành kinh doanh chính.
Vinashin nhận tiền từ trái phiếu Chính phủ VN phát hành lần đầu tiên năm 2006
và nhận 1 tỉ đô la tiền vay từ Ngân hàng Thuỵ Sỹ. Gần đây Vinashin vay 2 tỉ đô
la trái phiếu từ Ngân hàng Đức trong dịp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm
chính thức Đức. Vinatext cũng vay 500 triệu đô la trong dịp này.
phủ có nhiều dấu hiệu mất kiên nhẫn với các tập đoàn. Trong một cuộc gặp gần
đây với lãnh đạo các tập đoàn để bàn về chống lạm phát, Thủ tướng nói mặc dù
các tập đoàn kinh tế chiếm 60% nợ ở các ngân hàng thương mại và 70% vốn vay
nước ngoài, họ chỉ tạo ra 40% tổng sản phẩm quốc nội GDP.
Vào tháng 4, Thủ tướng yêu cầu các tổng công ty và tập đoàn kinh tế phải đầu tư
ít nhất 70% vốn vào ngành kinh doanh chính. Nhưng phản ứng của các tập đoàn
kinh tế cho thấy đưa họ vào vòng kỷ luật không dễ.
Chủ tịch PetroViệt nam Đinh La Thăng cho rằng đây là biện pháp sốc và nói,
“Nếu các tập đoàn, DNNN kinh doanh các lĩnh vực ngoài ngành có chiếm đến
40% hay 50% nhưng lợi nhuận họ thu được tốt thì không thể bắt họ rút về, có
thể gây đổ vỡ doanh nghiệp”
Thứ tám:Lạm phát do quán tính
Điều này thể hiện đơn gian trong đợt sốt giá gạo ảo vừa qua do tâm lý dân chúng

lo ngai về giá gạo quốc tế tăng cao trong khi sợ thiếu gạo do đợt rét đậm rét hại
và các yếu tố thời tiết không ủng hộ
Đành rằng lạm phát là lạm phát chung, chống lạm phát là sự nghiệp chung,
nhưng xem ra câu chuyện này hơi lạ trong kinh tế thị trường. Các NHTM đang
phải huy động vốn trong dân với lãi suất từ 10-11%/năm. Trong khi bị bắt buộc
mua tín phiếu của NHNN với lãi suất 7,8%. Chưa buôn đã thấy lỗ ít nhất
2,2%/năm. Biết lỗ nhưng vẫn phải gánh. Vì sao? Vì công việc chung? Tất nhiên,
NHTM sẽ không bao giờ chịu gánh một mình, họ sẽ tìm cách chia sẻ với bạn
hàng. Là ai? Chính là các doanh nghiệp đang cần tiền để phát triển sản xuất kinh
doanh. Lãi suất cho vay dài hạn trên thị trường tài chính không bao xa nữa chắc
chắn sẽ được nâng lên một mặt bằng mới, vượt xa ngưỡng 15%/năm hiện nay.
Điều này đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất sẽ tăng cao, có nghĩa là giá thành
sản phẩm sẽ không thể nào giảm được. Giá cả vì thế lại tiếp tục leo thang. Như

×