Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

XÉT xử sơ THẨM vụ án HÌNH sự với bị cáo là NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 9đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.33 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ VỚI BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Page 1
TP. HỒ CHÍ MINH
12/2012
BÀI TIỂU
LUẬN
MÔN
Page 2
MỤC LỤC
Page 3
LỜI MỞ ĐẦU
Trẻ em là tương lai của đất nước. Họ là lớp người sẽ kế tục sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ Quốc. Do đó, trẻ em cần được chăm sóc, bảo vệ và giáo dục thành những
con người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta đang đứng trước một thực tế
rất đáng lo ngại, đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó
đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, tình trạng trẻ em phạm tội ngày càng gia
tăng và trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Sự phạm tội của người chưa thành
niên không chỉ gây ra những hậu quả nghiêm trọng mà còn hủy hoại cuộc đời của chính
các em. Chính vì vậy, vấn đề người chưa thành niên phạm tội là vấn đề đáng lo ngại và
cần sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội hiện nay, trong đó có các cơ quan và cá nhân
có thẩm quyền để có thể đạt được mục đích cuối cùng là bảo về Nhà nước, bảo vệ xã
hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và toàn xã hội.
Vậy nên phòng ngừa, ngăn chặn người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói
chung, vi phạm pháp luật hình sự nói riêng là một vấn đề vừa mang tính nhân văn, vừa
mang tính pháp lý. Điều 36 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15- 6- 2004 quy định: “Việc
xử lý trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ trẻ em nhận


thấy sai lầm, sửa chữa sai lầm và tiến bộ”.
Ngày 23 tháng 12 năm 1999, Chính phủ nước ta đã phê duyệt Chương trình quốc
gia phòng chống tội phạm gồm 4 đề án. Trong đó đề án 4 nêu rõ: “Đấu tranh phòng
chống tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên” được các
ngành, các cấp và các địa phương trong cả nước tổ chức thực hiện và đã đạt được
những nhất định. Tuy nhiên, ở một số địa phương, tình trạng người chưa thành niên vi
phạm pháp luật hình sự vẫn còn diễn ra phức tạp.
Vấn đề người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội cũng đã và đang
được tất cả các nhà nước trên thế giới quan tâm, lo lắng. Liên hợp quốc đã ban hành
một số Công ước, Quy tắc liên quan như: Công ước về quyền trẻ em được Đại Hội
Đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1989; Quy tắc Bắc Kinh 1985(Quy tắc tối thiểu
của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên); Hướng
dẫn Riyadh 1990(Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp của người
Page 4
chưa thành niên); Quy chế tối thiểu của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành
niên bị tước quyền tự do 1990; các cơ quan của tổ chức khác ở Việt Nam cũng như trên
thế giới cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo có tính chất toàn cầu và khu vực để bàn về
vấn đề này.
Ở nước ta, công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và phạm tội của
người chưa thành niên thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, tổ chức
và toàn thể nhân dân. Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều
chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện của trẻ em và
người chưa thành niên. Chính phủ, các Bộ, ban, ngành và chính quyền các cấp đã đề ra
nhiều chương trình, kế hoạch cũng như áp dụng nhiều biện pháp để tăng cường bảo vệ
an ninh, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật nói chung
trong đó có vi phạm pháp luật của người chưa thành niên nói riêng. Tuy nhiên, tình
hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội ở nước ta hiện nay vẫn có xu
hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Đặc biệt có một bộ phận thanh thiếu niên đã
tham gia vào các băng nhóm tội phạm có tổ chức, phạm tội có sử dụng bạo lực với tính
chất côn đồ hung hãn; thực hiện các hành vi giết người, cướp của, chống người thi hành

công vụ, bảo kê, đâm thuê, chém mướn gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng.
Và trong những năm sắp tới, công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước sẽ đặt
ra yêu cầu mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế, văn hóa - xã hội với các nước láng giềng,
các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực của nó,
như thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa - xã hội theo nguyên tắc các
bên cùng có lợi, còn có mặt tiêu cực là không chỉ làm gia tăng về số lượng tội phạm mà
tính chất mức độ của hành vi phạm tội cũng ngày càng nghiêm trọng hơn, đặc biệt một
số loại tội phạm có tính chất xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao cũng xuất hiện và
phát triển. Đây cũng là một trong những yếu tố sẽ có tác động mạnh đến tình hình vi
phạm pháp luật của người chưa thành niên. Vì vậy, dự báo trong thời gian tới, số lượng
các vụ vi phạm pháp luật và số người vi phạm vẫn tiếp tục gia tăng; tính chất của hành
vi vi phạm ngày càng nghiêm trọng và diễn biến phức tạp; các tội phạm hoạt động theo
băng nhóm, có tổ chức, có cơ cấu chặt chẽ ở độ tuổi này vẫn tiếp tục gia tăng. Hành vi
vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hành vi phạm tội vẫn chủ yếu tập trung vào các nhóm
tội như: xâm phạm tính mạng sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; xâm phạm
an toàn công cộng và trật tự công cộng; các tội phạm về ma túy. Trong tương lai gần,
Page 5
người chưa thành niên có thể tham gia vào các đường dây tội phạm xuyên quốc gia như
tội phạm về ma túy, tội phạm công nghệ cao, tội mua bán phụ nữ với tính chất và hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng. Chính vì lẽ đó, cần tìm hiểu rõ nguyên nhân thì mới có
hướng giải quyết phù hợp.
Page 6
Chương 1: Khái quát chung về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là
người chưa thành niên
1.1 Khái niệm
1.1.1 Khái niệm bị cáo
Trong lịch sử Việt Nam, việc Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng ra đời, đã
chấm dứt tình trạng sinh hoạt trì trệ, nguyên thủy, mở ra một kỷ nguyên mới, để lại dấu ấn
rất rõ vào các mặt sinh hoạt của dân tộc Việt Nam. Cùng với sự dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta là sự phát triển của cả một hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật tố

tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự được hình thành từ thời Hùng Vương nhưng rất
mờ nhạt. Bước sang các giai đoạn của các triều đại như Ngô, Đinh, Lý, Trần cũng
không đề cập đến khái niệm bị cáo cũng như thuật ngữ bị cáo trong pháp luật tố tụng
hình sự của mình. Thuật ngữ “bị cáo” đầu tiên xuất hiện trong pháp luật tố tụng thời Lê
Sơ: lời khai của người làm chứng, bị can, bị cáo và biện pháp thu thập chứng cứ là lấy
lời khai người làm chứng, hỏi cung bị can, đối chất ,nhưng vẫn chưa có một khái
niệm, định nghĩa nào về thuật ngữ bị cáo. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, cho đến
sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn
được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị.Pháp luật
tố tụng hình sự miền Bắc được hình thành. Đây là lần đầu có một định nghĩa pháp lý về
thuật ngữ “bị cáo”.
Trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo Thông tư
số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Ṭa án nhân dân tối cao, đã đưa ra định nghĩa pháp lý
của khái niệm bị cáo: theo đó "Bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước
Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử, Tòa án nhân dân chỉ được đưa một người ra
xét xử với tư cách là bị cáo, nếu Viện Kiểm sát nhân dân đã truy tố người đó trước Tòa
án nhân dân; nếu Viện Kiểm sát không truy tố thì Tòa án nhân dân không được xét xử
một người với tư cách là bị cáo, trừ những người mà Tòa án nhân dân xét xử về những
việc hình sự nhỏ".
Sau khi đất nước Việt Nam thống nhất cho đến nay đã có nhiều bộ luật tố tụng
hình sự, nghị quyết, thông tư được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Hiện nay, chúng ta đang
sử dụng Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 (BLTTHS). Điều 50 BLTTHS có nêu khái niệm:
Page 7
“ Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Theo nguyên tắc suy đoán vô
tội thì bị cáo chưa bị coi là có tội. Một người chỉ bị coi là có tội khi họ bị Tòa án kết tội
bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật. Bị cáo là người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử.
Thời điểm bị can trở thành bị cáo là thời điểm thẩm phán được phân công chủ tọa phiên
tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
1.1.2 Khái niệm bị cáo là người chưa thành niên:
Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990 thì “Trẻ

em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có
quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em thì Quy tắc tối
thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành
niên (Quy tắc Bắc Kinh) do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1992
cũng là một văn bản pháp luật quốc tế quan trọng đề cập đến khái niệm “người chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi” như là một sự kế thừa của Công ước về Quyền trẻ em.
Tuy nhiên, do sự phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái niệm người chưa
thành niên ở các quốc gia cũng khác nhau, việc quy định độ tuổi cho người chưa thành
niên, thậm chí ngay trong một quốc gia các văn bản pháp luật cũng quy định không
thống nhất về vấn đề này.
Tùy theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng ngành luật mà các nhà làm luật Việt
Nam đã đưa ra khái niệm về người chưa thành niên. Theo quy định tại Bộ luật dân sự
(BLDS) năm 2005 tại Điều 18: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên.
Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên” và Bộ luật lao động Việt Nam
cũng quy định: “Người lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Như vậy, có
thể thống nhất một quan điểm là người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi.Điều này
cũng phù hợp với Công ước Quốc tế về quyền trẻ em.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ người chưa thành niên được dùng để chỉ
người chưa đủ 18 tuổi. Xét từ góc độ tâm lý thì người chưa thành niên là người ở vào
thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi trẻ con sang tuổi người lớn. Ở lứa tuổi này, người chưa
thành niên chưa phát triển đầy đủ và toàn diện về thể lực, trí lực và tinh thần. Do đặc
điểm cơ thể, tâm sinh lý phát triển chưa hoàn thiện nên ở độ tuổi này, khả năng kiềm
chế chưa cao, khó làm chủ được bản than, hành động thường bộc phát, đễ bị kích động,
lôi kéo. Hơn nữa do thiếu kinh nghiệm sống, hạn chế về hiểu biết xã hội và hiểu biết về
Page 8
pháp luật nên người chưa thành niên chưa thể lựa chọn cách ứng xử đúng đắn, dễ mắc
sai lầm, thậm chí còn phạm tội. Xuất phát từ những đặc điểm trên mà Bộ luật hình sự
Việt Nam quy định tại Điều 12: “người chưa thành niên là những người chưa đủ 18
tuổi, nhưng chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi

thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm”.
Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định bị cáo là người đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử, như vậy, căn cứ vào quy định này và quy định tại Điều 12 của
Bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự nêu trên, thì có thể hiểu bị cáo là
người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về bị cáo là người chưa thành
niên như sau:
Bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử.
Việc xác định tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên do cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng các biện
pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị
can, bị cáo thì tuổi của họ được xác định căn cứ vào Điều 6 TTLT số 01/2011/TTLT-
VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về hướng dẫn thi hành một số quy định của
Bộ Luật Tố tụng Hình sựđối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên.
Việc xác định tuổi của bị cáo là người chưa thành niên rất quan trọng và đây là
căn cứ ngăn chặn, áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với bị cáo nhằm đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên. Việc xác định tuổi của bị cáo còn giúp Cơ
quan tiến hành tố tụng xác định được việc xét xử và áp dụng hình phạt đối với người
chưa thành niên.
Page 9
1.1.3 Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong tố tụng hình sự, hoạt động xét xử nói chung được coi là đặc biệt quan
trọng và là giai đoạn trung tâm của qua trình giải quyết vụ án hình sự. Các giai đoạn
trước đó từ khởi tố, điều tra, truy tố chỉ là các giai đoạn xác định và tìm kiếm thông tin,

chứng minh sự việc đã xảy ra một cách toàn diện, nhưng vẫn chưa phải là quá trình
định tội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định chỉ có Tòa án
là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Để xác định một người có tội và phải chịu
hình phạt thì điều đòi hỏi bắt buộc là họ phải được đưa ra xét xử công khai trước phiên
tòa, tại đó, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
mới có điều kiện đưa ra quan điểm, lập luận để bảo vệ mình. Vì vậy giai đoạn xét xử vụ
án hình sự là giai đoạn tập trung cao nhất quyền bào chữa đảm bảo thực hiện bằng
phương pháo tranh tụng. Nhằm đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội việc xét xử vụ án
hình sự có thể trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong đó xét xử sơ thẩm là thủ tục xét
xử đầu tiên và bắt buộc đối với vụ án hình sự.
Qua đó có thể nhận thấy, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá
trình tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền sua khi xem xét hồ sơ vụ án lần
đầu tiên đưa vụ án ra xét xử nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội, người
thực hiện hành vi phạm tội, từ đó đưa ra bản án, quyết định phù hợp vói tính chất của
vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố.
1.1.4 Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người chưa
thành niên.
Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi trẻ em là đối
tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng ngày mà ngay cả khi
quyền trẻ em bị xâm phạm cần được bảo vệ hoặc khi đối tượng này vi phạm pháp luật.
Luật hình sự bảo vệ người chưa thành niên bị coi là người phạm tội và cũng quy định
một chế tài riêng để xử lý, thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi chưa thành
niên nhằm thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước
Việt Nam. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có một chương riêng (Chương
XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong Điều 301 quy định về phạm vi áp dụng “Thủ tục
đối với người chưa thành niên”, nhà làm luật Việt Nam không hề ghi nhận khái niệm
Page 10
pháp lý “thủ tục đối với người chưa thành niên” là gì? Qua nghiên cứu các quy định về
thủ tục đối với người chưa thành niên trong chương này, chúng ta có thể hiểu: Các quy

định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên có những đặc trưng so với thủ tục
tố tụng áp dụng đối với người thành niên. Những đặc trưng này thể hiện ở các quy định
về tiêu chuẩn của người tiến hành tố tụng, về đối tượng phải chứng minh, về việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn, về việc bào chữa, việc tham gia của gia đình, nhà trường và
tổ chức xã hội vào tố tụng cũng như công tác xét xử và thi hành án. Bộ luật tố tụng hình
sự cũng quy định các quyền tố tụng và bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án
được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật đối với đối tượng này.
Như vậy, có thể hiểu thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là tổng hợp các quy định về thủ tục đặc biệt
mang tính chất nhân đạo đối với bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi nhằm xét xử vụ án một cách khách quan, toàn diện và đúng pháp luật,
đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo trong hoạt động xét xử.
1.2 Những quy định về xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người chưa thành
niên
1.2.1 Phạm vi áp dụng thủ tục xét xử.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì quan hệ pháp luật tố tụng hình
sự phát sinh từ khi một người bị bắt, bị tạm giữ về hình sự. Đối với người thực hiện
hành vi phạm tội bị bắt, bị tạm giữ, bị khởi tố, truy tố và xét xử là người chưa thành
niên thì xuất phát từ nhận thức người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ
về thể chất và tinh thần, khả năng nhận thức về hành vi còn hạn chế, dễ bị tác động bởi
những điều kiện ngoại cảnh, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 đã dành một
chương (chương XXXII) quy định về thủ tục đặc biệt đối với người chưa thành niên.
Phạm vi áp dụng của Chương này được thể hiện tại Điều 301 Bộ luật tố tụng
hình sự như sau: “Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo
những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này”.
Như vậy, có thể hiểu phạm vi áp dụng thủ tục xét xử đối với bị cáo là người chưa
thành niên bao gồm các quy định tại Chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự (từ Điều
302 đến Điều 310) và tất cả những quy định khác của Bộ luật tố tụng hình sự nếu không
Page 11

trái với những quy định của chương này. Việc quy định phạm vi áp dụng như vậy để
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên.
1.2.2 Những đối tượng cần chứng minh trong vụ án mà bị cáo là người
chưathành niên.
Khi tiến hành xét xử vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên thì Tòa án cần
phải chứng minh được tất cả những tình tiết thuộc đối tượng chứng minh quy định tại
Điều 63 BLTTHS, ngoài việc chứng minh theo thủ tục chung để giải quyết đúng đắn vụ
án hình sự, đảm bảo tối ưu quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội là người chưa
thành niên, cũng như áp dụng đúng đắn chính sách hình sự của Nhà nước nhằm giáo
dục người phạm tội trở thành người lương thiện thì theo quy định tại khoản 2 Điều 302
của BLTTHS Tòa án cần phải xác định rõ các vấn đề sau đây:
1.2.1.1 . Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của người chưa thành niên
Việc xác định tuổi của bị cáo là người chưa thành niên đặc biệt quan trọng và
đây là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như việc xác
định trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội
giúp cho người tiến hành tố tụng có thể đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã
hội do hành vi phạm tội của người chưa thành niên gây ra để có thể áp dụng biện pháp
tư pháp hay hình phạt thích hợp, bảo đảm chế độ thi hành án theo quy định của pháp
luật.
1.2.1.2 . Điều kiện sinh sống và giáo dục
Hành vi phạm tội của người chưa thành niên thường bắt nguồn từ điều kiện sống
và giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội. Cho nên, làm rõ yếu tố này cũng xác
định khả năng cải tạo và giáo dục người chưa thành niên phạm tội, đồng thời cũng có
thể giúp cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có thể đưa ra các biện
pháp phòng ngừa thích hợp đối với người phạm tội nói chung và người chưa thành niên
phạm tội nói riêng.
1.2.1.3 . Khoa học đã chứng minh con người chịu sự ảnh hưởng tác động qua lại của môi
trường xung quanh
Page 12

Hành vi phạm tội không phải ngẫu nhiên hình thành, nó phát sinh không phải từ
chính môi trường, chính bản thân người đó mà là do sự tác động qua lại giữa môi
trường và cá nhân con người đó. Đối với người chưa thành niên ảnh hưởng của môi
trường xung quanh càng thể hiện rõ hơn, đó là: điều kiện sinh sống của gia đình, thái
độ, cách ứng xử của cha mẹ, những người thân trong gia đình; điều kiện học tập và sinh
hoạt của họ ở nhà trường, đoàn thể, nơi cư trú.
1.2.1.4 . Có hay không có người đã thành niên xúi giục:
Việc xác định có hay không có người thành niên xúi giục cũng như nguyên nhân
và điều kiện phạm tội là những vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc đánh giá tính
chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà người chưa thành niên đă thực
hiện, từ đó đề ra những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tái phạm.
1.2.1.5 . Nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Việc người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng đang tồn tại trong xã
hội.Hiện tượng này không phải ngẫu nhiên xuất hiện mà bao giờ cũng có nguyên nhân
và điều kiện dẫn đến nó.Chúng ta muốn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội
phạm do người chưa thành niên thực hiện và đề ra được những biện pháp khắc phục và
ngăn ngừa có hiệu quả thì phải tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện dẫn họ đến việc
phạm tội.
1.2.3 Áp dụng các biện pháp ngăn chặn để đảm bảo cho hoạt động xét xử.
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị cáo là người
chưa thành niên sẽ gây khó khăn cho việc xét xử Tòa án có quyền áp dụng một trong
những biện pháp ngăn chặn quy định tại chương VI Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên
để phù hợp với đặc độ tuổi, đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên, cũng như
đảm bảo chính sách hình sự là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội, và trên cơ sở Điều 12 của Bộ luật
hình sự về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Điều 303 BLTTHS quy định chi tiết và cụ
thể hơn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam đối với
người chưa thành niên. Do đó, khi tiến hành các hoạt động trên, cơ quan Tiến hành tố
tụng cần lưu ý:
Đối với người từ đủ 14 đến chưa đủ 16 tuổi: Việc bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ có

thể được tiến hành khi có đủ căn cứ tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 BLTTHS nhưng chỉ
Page 13
trong trường hợp họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng.
Đối với người từ đủ 16 đến chưa đủ 18 tuổi: Việc bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ có
thể được tiến hành khi có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 BLTTHS,
nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nfhieem trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo
cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ,tạm giam.
Và việc thông báo này là bắt buộc và có ý nghĩa giúp cho người chưa thành niên bị bắt,
tạm giữ, tạm giam cũng như gia đình và người đại diện hợp pháp của họ chuẩn bị việc
bào chữa. “Người chưa thành niên phải được giam, giữ ở khu vực riêng; không được
giam, giữ người chưa thành niên chung với người thành niên”
1
.
1.2.4 Về việc giám sát bị cáo là người chưa thành niên
Theo quy định tại Điều 304 Bộ luật tố tụng hình sự thì nếu xét thấy việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là không cần thiết, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo chưa thành
niên cho cha mẹ, người đỡ đầu của họ giám sát. Trong trường hợp người chưa thành
niên phạm tội không còn cha mẹ, không có nơi cư trú rõ ràng hoặc là người lang thang,
cơ nhỡ, không nơi nương tựa thì cơ quan điều tra cần tìm mọi biện pháp để xác định lý
lịch cũng như gia đình của họ. Trong trường hợp không xác định được thì Cơ quan điều
tra đề nghị cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc Đoàn Thanh niên, Hội Phụ
nữ ở nơi bắt giữ, nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi có thẩm quyền điều tra cử cán bộ giám
sát người chưa thành niên phạm tội
2
. Việc giám sát này là để bảo đảm sự có mặt của bị
can, bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Những người được giao

nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư
cách, đạo đức và giáo dục người đó. Hiện nay, không có văn bản pháp luật nào hướng
dẫn về việc cha mẹ, người đỡ đầu có quyền từ chối không thực hiện nghĩa vụ giám sát
1 Khoản 4, Điều 8 TTLT số 01/2011/ TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH-Hướng
dẫn thi hành một số quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sựđối với người tham gia tố tụng là
người chưa thành niên.
2Khoản 2, Điều 7 TTLT số 01/2011/ TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH
Page 14
của mình khi được yêu cầu, mặt khác theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em năm 1991, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì cha mẹ, ông bà, các
thành viên lớn tuổi khác trong gia đình và người đỡ đầu có trách nhiệm về việc chăm
sóc, nuôi dạy người chưa thành niên, cho nên họ phải có nghĩa vụ giám sát, giáo dục,
chăm sóc người chưa thành niên. Như vậy có nghĩa là trong mọi trường hợp cơ quan
tiến hành tố tụng yêu cầu thì việc giám sát bị can, bị cáo chưa thành niên phải được cha
mẹ, người đỡ đầu của họ thực hiện. Hay nói một cách khác, việc giám sát bị can, bị cáo
chưa thành niên vừa là quyền vừa là nghĩa vụ bắt buộc của cha mẹ, người đỡ đầu của
họ.
1.3 Những quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa đối với bị cáo là
người chưa thành niên
Để phiên tòa sơ thẩm diễn ra theo đúng trình tự và thủ tục theo quy định của
pháp luật, đảm bảo tính liên tục, tính hợp pháp và tính khách quan thì phiên tòa sơ thẩm
cần phải diễn ra theo thủ tục nhất định.
1.3.1 Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục
Đây là những nguyên tắc quan trọng của hoạt động tố tụng được tiến hành tại
phiên tòa. Các nguyên tắc này đảm bảo việc xét xử được chính xác, khách quan, đảm
bảo cho hội đồng xét xử ra quyết định, bản án dựa trên cơ sở điều tra chính thức và việc
tranh luận công khai tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự nói chung và tại phiên tòa xét xử
mà bị cáo là người chưa thành niên nói riêng. Điều 184 BLTTHS có quy định việc xét
xử phải được tiến hành trực tiếp, bằng lời nói và liên tục như Tòa án phải trực tiếp xác
định những tình tiết của vụ án, hội đồng xét xử phải hỏi những người tham gia tố tụng

và việc trả lời bằng lời nói của những người tham gia tố tụng đối với những câu hỏi của
hội đồng xét xử để từ đó hội đồng xét xử xác định sự thật vụ án hay việc xét xử phải
tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ.
Bản án, quyết định do hội đồng xét xử đưa ra phải căn cứ vào những chứng cứ
được xem xét tại phiên tòa
3
. Chính vì vậy, khi xét xử, Tòa án phải trực tiếp xác định
những tình tiết của vụ án, kiểm tra, xem xét đầy đủ, khách quan mọi chứng cứ, tài liệu
3Khoản 1, Điều 184 BLTTHS : “… Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được
xem xét tại phiên tòa.”
Page 15
có trong hồ sơ vụ án. Vì chỉ có như vậy những tài liệu trong hồ sơ vụ án muốn trở thành
chứng cứ phải được Tòa án kiểm tra, xác minh tại phiên tòa thông qua hoạt động xét
hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Những chứng cứ chưa được xác minh tại phiên tòa thì
không được dùng làm căn cứ để ra bản án.
1.3.2 Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm
Tại phiên tòa thì thành phần hội đồng xét xử có vị trí và vai trò vô cùng quan
trọng. Tùy vào cấp xét xử và tính chất của vụ án mà có số lượng thành phần hội đồng
xét xử khác nhau. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán, hai Hội thẩm. Trong
trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hội đồng xét xử có thể gồm
hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Sự có mặt của Hội đồng xét xử nhằm đáp ứng những nguyên tắc cơ bản của
BLTTHS là thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia
4
và nguyên tắc Tòa án xét xử
tập thể và quyết định theo đa số
5
. Đây là sự kết hợp tính chuyên nghiệp của Thẩm phán
và tính đại diện cho quần chúng của Hội thẩm, đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa
án đúng pháp luật đồng thời thể hiện lợi ích chung của xã hội, đảm bảo việc giải quyết

vụ án đúng đắn, khách quan.
Đối với phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên thì
việc chọn thành phầm hội đồng xét xử phù hợp, đúng quy định của pháp luật là rất cần
thiết. Bởi vì, người chưa thành niên do đặc điểm cơ thể, tâm sinh lý phát triển chưa
hoàn thiện, thiếu kinh nghiệm sống, hạn chế về hiểu biết xã hội và đặc biệt là hiểu biết
về pháp luật nên dễ mắc phải những sai lầm. Chính vì lẽ đó, Khoản 1, Điều 307 quy
định : “ Thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”. Đồng thời, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối
với người chưa thành niên phạm tội phải là người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học,
khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm là người
chưa thành niên. Chỉ có như vậy Hội đồng xét xử mới có thể ra quyết định, bản án vừa
mang tính nhân đạo, tính nhân văn cũng như thể hiện được tính răn đe và giáo dục ý
thức tuân theo pháp luật đối với bị cáo là người chưa thành niên.
4Điều 15 BLTTHS.
5Điều 17 BLTTHS : Tòa án xét xử tập thể.
Page 16
Hiện nay, chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể về phiên tòa xét xử mà bị cáo là
người chưa thành niên. Chính vì vậy, tại phiên tòa để đảm bảo tính liên tục của việc xét
xử thì thành phần hội đồng xét xử cũng phải tuân thủ những quy định đối với việc xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự thông thường. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét
xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Trong quá trình xét xử, nếu có
Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét xử thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án
nếu có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết. Thẩm phán.Hội thẩm dự khuyết phải có mặt
tại phiên tòa từ đầu thì mới được tham gia xét xử. Trong trường hợp Hội đồng xét xử có
hai thẩm phán mà Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không tiếp tục tham gia xét xử được thì
Thảm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ tọa phiên tòa và Thẩm phán dự
khuyết được bỏ sung làm thành viên Hội đồng xét xử. Trong trường hợp không có thẩm
phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên tòa mà không có
Thẩm phán để thay thế theo quy định trên thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu
6

.
1.3.3 Những người tham gia phiên tòa sơ thẩm
1.3.1.1 . Kiểm sát viên
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS. Sự tham gia
của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử là rất cần thiết. BLTTHS không có quy định về
sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử mà bị cáo là người chưa
thành niên. Nhưng để đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời Điều
189 BLTTHS quy định Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa.
Đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hai Kiểm sát viên có thể cùng
tham gia phiên tòa xét xử. Trong trường hợp có thể có Kiểm sát viên dự khuyết, nếu
Kiểm sát viên vắng mặt, bị thay đổi mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế
thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và báo cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự
bằng quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước tòa. Đồng thời kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự như có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp
luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng,
6Điều 186 BLTTHS : Thay thế thành viên Hội đồng xét xử trong trường hợp đặc biệt
Page 17
áp dụng những biện pháp do BLTTHS quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của
những cơ quan hoặc cá nhân này
7
.
Đối với phiên tòa xét xử sơ thẩm mà bị cáo là người chưa thành niên thì vai trò
của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của
Kiểm sát viên là rất quan trọng bởi khi tiến hành xét xử bị cáo là người chưa thành niên
có một số quy định đặc biệt như: “Khi tiến hành xét xử, Tòa án có thể sắp xếp lại vị trí
của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án
nhằm làm giảm cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với người chưa thành niên phạm tội.
Không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình xét xử

tại Tòa án, trừ trường hợp họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc có việc làm tiêu cực hoặc có biểu hiện chống đối, gây mất trật tự tại phiên toà”
8
.
Bởi vì người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm thần, là
những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình
giải quyết các vụ án, do đó tùy theo lứa tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu cá nhân
mà họ cần được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng hình sự
9
.
1.3.1.2 . Bị cáo
BLTTHS Việt Nam có dành một số quy định riêng tại chương XXXII để quy
định về thủ tục tố tụng đối với bị cáo là người chưa thành niên, điều đó cho thấy bị cáo
là người chưa thành niên cần có các hoạt động tố tụng khác với những bị cáo là người
đã thành niên.
Bị cáo là người chưa thành niên là người đang ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức
về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế, và nhiều khi do tác
động mạnh của điều kiện bên ngoài mà dẫn tới hành vi phạm tội của họ. Chính sách
hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm, để phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã
hội.Thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi chưa thành niên nhằm thể hiện tính
7Điều 23 BLTTHS : Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự.
8Khoản 3, Điều 11 Thông tư 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH
9Điều 1 Thông tư 01/ 2011/ TTLT–VKSTC–TANDTC–BCA-BTP-BLĐTBXH
Page 18
nhân đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chính vì lẽ đó,
các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong đó có Tòa án có thể ra
quyết giao người chưa thành niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám
sát để đảm bảo sự có mặt của người chưa thành niên phạm tội khi có giấy triệu tập của

cơ quan tiến hành tố tụng. Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát
chặt chẽ người chưa thành niên và đặc biệt phải theo dõi tư cách, đạo đức, giáo dục
người đó. Đây là điểm khác biệt giữa bị cáo là người chưa thành niên với bị cáo là
người đã thành niên. Thông qua sự giám sát, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục đối
với bị cáo là người chưa thành niên người giám sát có thể hiểu được tình trạng nhận
thức, tâm lý của bị cáo góp phần giúp Tòa án đưa ra quyết định, bản án một cách khách
quan, toàn diện và đúng pháp luật đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
bị cáo trong hoạt động xét xử.
Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án trong trường hợp áp dụng các biện pháp bắt, tạn giữ, tạm giam cũng cần
phải tuân thủ những quy định tại Điều 303 BLTTHS để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị cáo là người chưa thành niên như: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới dưới 16
tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82,
86, 88 và 120 BLTTHS nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, ở độ tuổi này, sự nhận thức và điều
khiển hành vi của người thực hiện hành vi phạm tội cũng chỉ có giới,chưa hoàn chỉnh
nên họ chỉ phải chịu TNHS về những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng. Quy định này cũng phù hợp với quy định về tuổi chịu trách nhiệm
Hình sự tại Khoản 2, Điều 12 BLHS Việt Nam
10
.
Bên cạnh đó, những người thực hiện hành vi phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi có thể bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81,
82, 86, 88 và 120 của BLTTHS nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm
trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Ở độ
tuổi này, sự nhận thức và điều khiển hành vi của con người nói chung và và người có
hành vi phạm tội nói riêng cũng đã tương đối hoàn chỉnh nên họ phải có trách nhiệm
10Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
Page 19

hơn đối với việc thực hiện hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra cho
xã hội. Vì vậy, khi người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng do
cố ý thì cơ quan và các cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể thực hiện bắt,
tạm giữ, tạm giam nhằm mục đích giáo dục và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm
giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp
pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.
Để đảm bảo việc thực hiện và thi hành đúng, thống nhất chương XXXII thủ tục
tố tụng đối với người chưa thành niên TTLT 01/ 2011của VKSTC-TANDTC-BCA-
BTP-BLĐTBXH có quy định chi tiết và bổ sung về việc áp dụng biện pháp bắt, tạm
giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên như sau: Khi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, cơ quan tiến
hành tố tụng phải xác định chính xác độ tuổi của họ nhằm áp dụng đúng các quy định
tại Điều 303 BLTTHS. Đối với các trường hợp bị bắt quả tang, bắt khẩn cấp thì sau khi
bắt, cơ quan tiến hành tố tụng phải khẩn trương xác minh độ tuổi của họ để có quyết
định xử lý phù hợp. Trước khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều
303 BLTTHS, cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét, cân nhắc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn khác quy định tại các Điều 91, 92 và 93 BLTTHS.
Đối với người chưa thành niên đã áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm
giam, cơ quan tiến hành tố tụng phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra và khi xét thấy
không còn cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn đó thì kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế
bằng các biện pháp ngăn chặn khác không hạn chế tự do đối với họ. Khi bắt giữ người
chưa thành niên phạm tội, trong trường hợp cần thiết phải sử dụng vũ lực thì việc sử
dụng vũ lực phải theo đúng quy định của pháp luật và chỉ ở mức độ đủ để kiểm soát
người chưa thành niên phạm tội.
Trong thông tư này đã bổ sung thêm những trường hợp nhằm góp phần đảm bảo
quyền và lợi ích cho người thực hiện hành vi phạm tội, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là người chưa thành niên một cách tối đa và tốt nhất như: trường hợp bị bắt quả tang,
bắt khẩn cấp thì sau khi bắt, cơ quan tiến hành tố tụng phải khẩn trương xác minh độ
tuổi của họ để có những quyết định xử lý phù hợp tránh tình trạng để lọt tội phạm, làm

oan người vô tội, đặc biệt là đối với người chưa thành niên. Nếu có sử dụng vũ lực đối
với bị cáo là người chưa thành niên chỉ được sử dụng trong trường hợp cần thiết và theo
Page 20
đúng quy định của pháp luật, chỉ ở mức độ đủ để kiểm soát người chưa thành niên
phạm tội.
1.3.1.3 . Người bào chữa
Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa để bào chữa cho bị cáo. Người
bào chữa thực hiện hoạt động bào chữa thông qua việc giúp đỡ bị cáo thực hiện quyền
và nghĩa vụ tố tụng mà pháp luật quy định, tham gia xét hỏi, trình bày lời bào chữa, đối
đáp với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác, tranh luận nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho than chủ của mình. Việc quy định sự tham gia phiên tòa
của người bào chữa là một đảm bảo pháp lý quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc
đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Bên cạnh đó, sự có mặt của người bào chữa
tại phiên tòa xét xử đảm bảo cho việc tranh luận công khai tại phiên tòa giữa bên buộc
tội và bên gỡ tội làm cơ sở cho việc xác định sự thật khách quan, bảo đảm cho việc xét
xử chính xác, khách quan.
Đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một trong
những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS. Chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
những người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự, trong đó có xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự nên chỉ có họ mới là người có quyền bào chữa. Họ có thể thực hiện quyền
bào chữa dưới hai hình thức đó là: Tự bào chữ và nhờ người khác bào chữa. Nhờ người
khác bào chữa là một đảm bảo rất quan trọng cho quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can và đặc biệt là bị cáo chưa thành niên bởi vì trong nhiều trường hợp họ là người
không hiểu biết hoặc có hiểu biết rất hạn chế về pháp luật thì họ không thể tự mình sử
dụng hết các quyền mà pháp luật quy định cho họ để bảo vệ quyền lợi cho mình. Cho
nên, việc tham gia của người bào chữa để giúp đỡ cho họ về mặt pháp lý, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ là rất cần thiết. Đối với người chưa thành niên thì: “Bắt buộc
phải có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa
thành niên. Mọi trường hợp không có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ án
có bị can, bị cáo là người chưa thành niên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trừ

trường hợp họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa. Người bào
chữa có thể là: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
bào chữa viên nhân dân”
11
.
11Khoản 1, Điều 9 Thông tư 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH
Page 21
Để đảm bảo quyền bào chữa cho bị cáo là người chưa thành niên Điều 305
BLTTHS quy định người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc tham gia bào chữa trong vụ án có người chưa
thành niên phạm tội là bắt buộc theo quy định tạo Khoản 2, Điều 57 BLTTHS. Sự bắt
buộc này là đối với cơ quan tiến hành tố tụng. “Trong trường hợp bị cáo là người chưa
thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa
thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn
phòng Luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên tổ chức mình,
trừ trường hợp người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối”
12
.
Đối với bị cáo là người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em không nơi nương tựa
thì các cơ quan và các cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải đề nghị Tổ chức
thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý cho bị cáo là trẻ em không nơi
nương tựa và có thể đề nghị trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên
khác. Bên cạnh đó, Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tạo điều
kiện cho người bào chữa thực hiện quyền tiếp xúc, gặp gỡ với bị cáo là người chưa
thành niên theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 57 BLTTHS, bị cáo là người chưa thành niên
và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người
bào chữa do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu. Trong trường hợp tại phiên tòa xét xử

mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa theo quy định tại
Điều 190 BLTTHS.
Trường hợp người bào chữa do cơ quan tiến hành tố tụng cử, bị cáo là người
chưa thành niên và đại diện hợp pháp của họ không thống nhất về việc từ chối người
bào chữa, ví dụ như: bị cáo từ chối người bào chữa mà Tòa án chỉ định người bào chữa
đó cho họ nhưng trong khi đó người đại diện hợp pháp của họ lại chấp nhận người bào
chữa đó thì để đảm bảo quyền và lợi ích cho bị cáo là người chưa thành niên một cách
đầy đủ và toàn diện nhất, NQ 03/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có
12 Khoản 4, Điều 9 Thông tư 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH
Page 22
hướng dẫn: Trong trường hợp giữa họ và người đại diện hợp pháp của họ không thống
nhất việc từ chối người bào chữa, Tòa án vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của
người bào chữa đã cử. Ngược lại, nếu họ thống nhất về việc từ chối người bào chữa, thì
Tòa án sẽ lạp biên bản có xác nhận của bị cáo là người chưa thành niên và người đại
diện hợp pháp của họ, đồng thời tiến hành phiên tòa xét xử không có người bào chữa.
1.3.1.4 . Đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức
Đối với bị cáo là người chưa thành niên việc tham gia của đại diện gia đình, nhà
trường, tổ chức là rất quan trọng và rất cần thiết bởi họ là ngững người có ảnh hưởng
đến tâm lý của bị cáo trong suốt quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng do các cá
nhân và cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện, giúp bị cáo có thể được
đảm bảo về mặt tâm lý vững vàng hơn, sự tham gia của đại diện gia đình, nhà trường,
tổ chức sẽ giúp bị cáo giảm bớt được sự căng thẳng, sở hãi, yên tâm hơn khi tham gia
các hoạt động tố tụng do BLTTHS quy định, đặc biệt là trong phiên tòa xét xử.
Việc tham gia tố tụng của đạ diện gia đình, nhà trường, tổ chức nơi bị cáo học
tập, lao động, sinh sống vừa là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ theo quyết định của
các cá nhân và cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được quy định tại Khoản 1,
Điều 306 BLTTHS. Trong trường hợp bị cáo là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
hoặc là người chưa thành niên nhưng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc
trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này
phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà

không có lý do chính đáng. BLTTHS quy định như vậy đã góp phần đảm bảo cho bị cáo
là người chưa thành thành niên khỏi những trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng của
những cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như trong khi lấy lời khai, hỏi
cung có thể áp dụng những biện pháp như bức cung, mớm cung, dùng hành vi bạo lực
đối với bị cáo….
Tại phiên tòa xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia
đình bị cáo, trừ trường đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng,
đại diện của nhà trường, tổ chức. Nhưng BLTTHS không có quy định trong trường hợp
này Hội đồng xét xử có quyền tiến hành xét xử bị cáo hay không. Đại diện của gia đình
bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi bị cáo lao động avf sinh sống có quyền đưa
ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, tham gia tranh
Page 23
luận, khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và
các quyết định của Tòa án để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo.
1.3.1.5 Sự có mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm
chứng, người giám định
BLTTHS chưa có quy định cụ thể giành riêng về việc tham gia các hoạt động
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm mà bị cáo là người cho thành niên cho các chủ thể trên,
nên để đảm bảo đúng các thủ tục trong giai đoạn này các chủ thể trên cần tuân thủ và
đáp ứng những yêu cầu, quy định tại các Điều 191, 192,193 BLTTHS.
1.4 Trình tự xét xử tại phiên tòa sơ thẩm đối với bị cáo là người chưa
thành niên
Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất
của việc xét xử nói riêng và cả quá trình tố tụng hình sự nói chung. Tại phiên tòa, Hội
đòng xét xử tiến hành việc điều tra chính thức, công khai toàn bộ các tình tiết của vụ án,
thẩm tra, đánh giá các chứng cứ đã thu thập được trong giai đoạn điều tra, xem xét
chứng cứ mới, nghe tranh luận của các bên tham gia tố tụng….để quyết định xử lý vụ
án một cách khách quan, minh bạch.
Xét xử công khai là một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS nhằm đảm

bảo cho mọi người đều có quyền tham dự, thông qua đó góp phần tuyên truyền và giáo
dục cho người dân ya thức tuân thủ pháp luật. Nhưng trong một số trường hợp cần thiết
Tòa án có thể tiến hành xét xử kín theo quy định tại Đ 307 BLTTHS. Một số nét tiêu
biểu của phiên tòa xét xử bị cáo là người chưa thành niên so với trường hợp xét xử bị
cáo là người đã thành niên:
1.4.1 Bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên tòa nói chung và phiên tòa xét xử đối với bị cáo là người
chưa thành niên đều nhằm xác định sự có mặt của những người tham gia tố tụng và
chuẩn bị các điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho việc xét xử được đúng đắn , khách
quan.
Page 24
Thủ tục bắt đầu phiên tòa đối với bị cáo là người chưa thành niên cơ bản giống
với phiên xét xử mà bị cáo là người thành niên được quy định từ Điều 201 đến Điều
205 BLTTHS. Nhưng điểm khác biệt của thủ tục bắt đầu phiên tòa mà bị cáo là người
chưa thành niên là sự có mặt của đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức tại phiên tòa là
bắt buộc theo quy định tại khoản 3, Điều 306 BLTTHS để đảm bảo cho bị cáo có tâm lý
vững vàng và thoải mái hơn trong phiên tòa xét xử.
1.4.2 Xét hỏi tại phiên tòa
Xét hỏi là một khâu quan trọng của quá trình xét hỏi phiên tòa. Đây là cuộc điều
tra công khai được thực hiện qua việc xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng,
xem xét vật chứng, các tài liệu có liên quan nhằm kiểm tra các chứng cứ và làm sáng tỏ
mọi tình tiết của vụ án, trên cơ sở đó tòa án xác định tội phạm xảy ra hay không, hay bị
cáo có thực hiện hành vi phạm tội không, xác định tội danh của bị cáo, động cơ, mục
đích phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, thiệt hại do hành vi phạm tội của bị
cáo gây ra…để có quyết định đúng đắn khi giải quyết vụ án.
Trình tự của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa đối với bị cáo là người chưa thành niên
cũng cần tuân thủ như đối với xét xử bị cáo là người đã thành niên để đảm bảo tính
khách quan cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Nhưng xét hỏi tại phiên tòa
đối với bị cáo là người chưa thành niên cũng có một số điểm khác biệt sau: Việc thẩm
vấn, xét hỏi bị cáo là người chưa thành niên tại phiên tòa phải theo quy định tại Điều

209 BLTTHS và phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của bị cáo. Những lời giải
thích về quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu hỏi đưa ra tại phiên tòa cần
đơn giản, rõ ràng để đảm bảo cho người chưa thành niên và đại diện gia đình của họ có
thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi
13
.
1.4.3 Tranh luận tại phiên tòa
Tranh luận tại phiên tòa là một phần quan trọng của phiên tòa hình sự. Khi tranh
luận tại phiên tòa, các bên buộc tội, bên bào chữa và những người tham gia tố tụng khác
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phát biểu ý kiến, phân tích đánh giá chứng
cứ, đề nghị áp dụng luật và giải quyết các vấn đề của vụ án. Trên cơ sở các ý kiến phát
13Khoản 5, Điều 11Thông tư 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH
Page 25

×