HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN TH VN
thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo
và ảnh hởng của nó đối với ngời phụ nữ
việt nam hiện nay
Chuyờn ngnh : CNDVBC & CNDVLS
Mó s : 62 22 80 05
tóm tắt Luận án tiến sĩ triết học
Hà Nội - 2014
Công trình đợc hoàn thành
tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Ngời hớng dẫn khoa học: GS. TS NGUYN HNG HU
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại: Th viện Quốc gia
và Th viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo ra đời thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Đây là thời kỳ rối ren
biến động nhất trong lịch sử Trung Quốc. Trước tình hình đó, các nhà tư
tưởng của Nho giáo đã lý giải các vấn đề xã hội và họ muốn tìm ra phương
pháp đưa xã hội từ loạn lạc tới thịnh trị. Một trong những phương pháp đó
là giáo dục đạo đức cho con người.
Nội dung giáo dục đạo đức cho con người của Nho giáo tập trung ở
các phạm trù cơ bản như Tam cương, Ngũ thường, Chính danh. Đối với
người phụ nữ, nội dung giáo dục đạo đức của Nho giáo thể hiện rõ thông
qua thuyết tam tòng, tứ đức.
Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Khi vào Việt
Nam, nó được cải biến đi cho phù hợp với tính chất ôn hòa vốn có của
người Việt. Trong quá trình tồn tại, giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng
Nho giáo làm công cụ để thiết lập ổn định trật tự xã hội và duy trì sự thống
trị của giai cấp cầm quyền. Trong các nội dung đạo đức của Nho giáo thì
thuyết tam tòng, tứ đức là những quy phạm giáo dục đạo đức cơ bản đối
với người phụ nữ. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng rất sâu sắc đến vai trò, vị
trí, cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh các giá trị tích cực,
thuyết tam tòng, tứ đức có nhiều mặt tiêu cực, trói buộc người phụ nữ Việt
Nam vào lễ giáo phong kiến, kìm hãm các bước tiến của họ. Tuy nhiên,
thuyết tam tòng, tứ đức trên chặng đường dài của lịch sử dân tộc, nó vẫn
có giá trị nhất định góp phần làm nên vẻ đẹp truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam.
Ngày nay, mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của nhà nước phong kiến
không còn nhưng phần nào tư tưởng của Nho giáo nói chung; thuyết tam
tòng, tứ đức nói riêng vẫn còn tồn tại ít nhiều và có ảnh hưởng đến người
phụ nữ Việt Nam trên cả hai bình diện tích cực và hạn chế. Những ảnh
hưởng tiêu cực của nó như trọng nam khinh nữ, áp đặt hôn nhân… là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình và bất bình
đẳng giới ở nước ta hiện nay.
Trải qua gần ba mươi năm thực hiện, quá trình Đổi mới của đất nước
(1986) đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, trong đó
có đổi mới kinh tế là nền tảng. Tuy nhiên, mục đích của Đảng ta trong
công cuộc Đổi mới không chỉ đơn giản về kinh tế mà đổi mới toàn diện,
2
trong đó có đổi mới quan niệm về con người và giải phóng con người.
Đảng ta luôn xác định, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó,
người phụ nữ là lực lượng đông đảo nắm vai trò to lớn trong gia đình và xã
hội. Công cuộc Đổi mới đã dẫn đến những thay đổi về tiêu chí đánh giá
của xã hội, của gia đình đối với người phụ nữ nhằm đáp ứng nhu cầu mới
của thời đại. Người phụ nữ Việt Nam ngày nay phải hướng tới vẻ đẹp toàn
diện hơn, trí tuệ hơn, giỏi việc nước đảm việc nhà, tích cực tham gia các
hoạt động xã hội
Những quy tắc, chuẩn mực của thuyết tam tòng, tứ đức được sử
dụng một cách hợp lý sẽ trở thành nhân tố quan trọng nâng cao vị trí, vai
trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện đại. Điều đó cho thấy
việc cần thiết phải nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của thuyết tam tòng,
tứ đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay để đưa ra
những giải pháp nhằm phát huy giá trị tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh
lựa chọn vấn đề: "Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và ảnh hưởng
của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay" làm đề tài cho luận án
Tiến sĩ của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ nội dung chủ yếu của thuyết tam tòng, tứ đức trong
Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam, phân tích ảnh hưởng của nó; luận án
đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng,
tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức trong
Nho giáo Trung Quốc và Nho giáoViệt Nam.
- Làm rõ thực trạng ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của thuyết tam
tòng, tứ đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản trong thuyết tam
tòng, tứ đức của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt
Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ
đức đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước
về vấn đề phụ nữ
- Luận án dựa trên cơ sở nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Nho
giáo và các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, sử dụng đúng
đắn, phù hợp với các phương pháp phân tích và kết hợp, lôgic và lịch sử,
thống kê, đối chiếu, so sánh, tổng kết thực tiễn
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
- Luận án khái quát những nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ
đức trong Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam.
- Luận án phân tích rõ hơn những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của
thuyết tam tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
- Từ những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực và những mâu thuẫn đang
tồn tại trong vấn đề thực trạng xã hội, luận án đề xuất quan điểm và một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án lý giải rõ hơn về thuyết tam tòng, tứ đức của Nho giáo và
ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham
khảo trong việc hoạch định, thực thi chính sách trong công tác phụ nữ của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
4
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu
Nho giáo ở Việt Nam, vị trí, vai trò của người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo và thuyết
tam tòng, tứ đức trong Nho giáo
Nghiên cứu về đạo đức Nho giáo nói chung và thuyết tam tòng, tứ đức
nói riêng có các công trình tiêu biểu: Đào Duy Anh (1938), Sách Khổng
giáo phê bình tiểu luận, Nxb Quan hải Tùng thư, Huế; Trần Trọng Kim
(2006), Sách Nho giáo, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội; Phan Bội Châu
(1998), Sách Khổng học đăng, Nxb Văn hóa Thông Tin, Hà Nội; Quang
Đạm (1994), Sách Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn học, Hà Nội; Trần Văn
Giàu (1985), Sách Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội; Quang Đạm (1994), Sách Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn
học, Hà Nội; Phan Đại Doãn (1998), Sách Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng Duy (1998), Sách Nho giáo
với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Hùng Hậu (2010), Sách
Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vũ
Ngọc Khánh (1998), Sách Văn hóa gia đình Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân
tộc; Vũ Khiêu (1991), Sách Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội; Vũ Khiêu (1995), Sách Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội; Nguyễn Thị Nga - Hồ Trọng Hoài (2003), Sách Quan niệm của Nho
giáo về giáo dục con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
1.2. Những công trình nghiên cứu ảnh hưởng của thuyết tam
tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay
Thuyết tam tòng, tứ đức có nhiều ảnh hưởng tiêu cực và tích cực đối
với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, vấn đề này được nhiều
công trình nghiên cứu. Tiêu biểu là các công trình của các tác giả Phan
Mạnh Toàn (2011) Ảnh hưởng của Nhân- Lễ trong Nho giáo đối với đời
sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học; Phan Huy Lê
5
- Vũ Minh Giang (chủ biên) (1994), Các giá trị truyền thống và con người
Việt Nam hiện nay, Tập 2, Chương trình KHCN cấp nhà nước KX 07, đề
tài KX 07-02, Hà Nội.
Trần Nguyên Việt (2002), bài viết "Giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị
trường", Tạp chí Triết học, (5); Nguyễn Tài Thư (2002), bài viết "Nho giáo
và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí
Triết học, (5); Lê Thị Quý (1993), bài viết "Nho giáo và văn hóa gia đình hiện
nay", Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (4-112); Lê Văn Quán (1997),
bài viết "Lễ giáo Nho gia phong kiến kìm hãm bước tiến lên của phụ nữ Việt
Nam hiện nay", Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (01-151); Nguyễn Thị Kim
Loan (2003), bài viết "Nho giáo và văn hóa ứng xử của người Việt bình dân
trong quan hệ hôn nhân và gia đình", Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (04-226).
1.3. Những công trình nghiên cứu quan điểm và giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay
Tuyên truyền giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Đề án 343, Bộ giáo dục và đào
tạo; Công, dung, ngôn, hạnh thời nay của Lê Thị Bừng, Nguyễn Thị Vân
Hương; Ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt
Nam xưa và nay - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường - Đại học Sư phạm
của Hoàng Thị Thuận; Dương Thị Minh (2004), Sách Gia đình Việt Nam và
vai trò người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Lê Minh (1997), Sách Phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội, Nxb
Lao động; Lê Thi (2004), Sách Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn
hóa và sự phát triển bền vững, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Lê Thi (2006).
Các công trình đã làm rõ những phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho
giáo; khái niệm và nội dung chủ yếu của thuyết tam tòng, tứ đức trong lịch
sử phát triển của Nho giáo Trung Quốc và Nho giáo Việt Nam; khái quát
một số đặc điểm đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam và nêu
lên những tàn dư của đạo đức Nho giáo cần phải quét sạch trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; chỉ ra những nguyên nhân tồn tại của
các tàn dư đạo đức phong kiến và một số phương hướng khắc phục những
ảnh hưởng tiêu cực, phát huy những ảnh hưởng tích cực của thuyết tam
tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
6
Tuy nhiên, chưa có công trình nào khái quát, phân tích thuyết tam
tòng, tứ đức và những ảnh hưởng tích cực cũng như những ảnh hưởng tiêu
cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam mang tính độc lập, hệ thống,
chuyên sâu. Chưa có công trình nào đưa ra quan điểm và giải pháp phát huy
phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam
tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay một cách đồng bộ, hiệu
quả. Đây là một khoảng trống đòi hỏi tác giả phải tiếp tục đi sâu, làm rõ.
Chương 2
THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO
2.1. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Trung Quốc
2.1.1. Nguồn gốc của Nho giáo Trung Quốc
2.1.1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội cho việc hình thành Nho giáo Trung Quốc
Nho giáo được ra đời vào thời Xuân Thu- Chiến Quốc ở Trung
Quốc. Đây được coi là thời kỳ có nhiều biến động nhất, rối ren nhất. Thời
kỳ này diễn ra nhiều mâu thuẫn xã hội làm cho các trật tự xã hội bị đảo lộn
nên yêu cầu đặt ra là cần xây dựng một mô hình xã hội mới để xã hội có
trật tự, kỷ cương. Thời kỳ này cũng đánh dấu sự hình thành và phát triển
nhiều trường phái triết học trong đó có Nho giáo. Nho giáo ra đời nhằm
mục đích thiết lập một mô hình quản lý xã hội tập trung phong kiến.
2.1.1.2. Tiền đề chính trị, văn hóa, tư tưởng cho việc hình thành Nho
giáo Trung Quốc
Nho giáo được ra đời trên cơ sở kế thừa những tiền đề văn hóa, tư tưởng
đã được phát triển trước đó ở Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc.
Thứ nhất, tiền đề văn hóa. Ở thời kỳ này, Trung Quốc đã có sự phát
triển rực rỡ về các phát minh trong các lĩnh vực: thiên văn, toán học, y
học, tư tưởng chính trị.
Thứ hai, tiền đề tư tưởng đó là những tư tưởng về tôn giáo, tư tưởng
đạo đức của nhà Chu. Nhà Chu đề cao tư tưởng “kính Trời”, “nhận dân”,
“hưởng dân”, “đức’, “hiếu”. Những tư tưởng này đã có ảnh hưởng đến các
nhà Nho, là nền tảng để họ xây dựng những phạm trù cơ bản trong học thuyết
của mình như: Tam cương- Ngũ thường, Chính danh, Tam tòng- Tứ đức…
2.1.1.3. Khổng Tử - người sáng lập học thuyết Nho giáo
Khổng Tử (551 - 479 Tr.CN) là người sáng lập ra Nho giáo. Ông
thường đi chu du thiên hạ để rao giảng đạo trị nước. Trước tình hình kinh
7
tế- xã hội nhà Chu bị đảo lộn, ông đã sáng lập ra học thuyết Nho giáo
nhằm mục đưa con người vào đúng Chính danh của họ. Nhờ vậy, xã hội
mới trật tự kỷ cương, thái bình thịnh trị.
2.1.2. Vị trí của thuyết tam tòng, tứ đức trong đạo đức Nho giáo
Trung Quốc và quan hệ giữa chúng
2.1.2.1. Vị trí của thuyết tam tòng, tứ đức trong đạo đức Nho giáo
Trung Quốc
Thứ nhất, Nho giáo tập trung xây dựng mẫu người quân tử để cai trị
được xã hội nên không bàn nhiều đến phụ nữ. Tuy nhiên, những tư tưởng
tam tòng, tứ đức vẫn được các nhà Nho đề cập đến trong khi lồng ghép nó
với các phạm trù khác như Tam cương, Ngũ thường, Chính danh.
Thứ hai, Nho giáo quan niệm gia đình là xã hội thu nhỏ, còn xã hội
là gia đình mở rộng nên thuyết tam tòng, tứ đức trong hệ thống đạo đức
Nho giáo ra đời cũng nhằm phục vụ mục đích ổn định trật tự xã hội.
Thứ ba, thuyết tam tòng, tứ đức có mục đích sâu xa là bảo vệ địa vị
của giai cấp cầm quyền.
Thứ tư, thuyết tam tòng, tứ đức là chuẩn mực quan trọng nhất, là yêu
cầu cơ bản nhất về đạo đức Nho giáo đối với người phụ nữ. Giữa chúng có
mối liên hệ ràng buộc không thể tách rời giúp người phụ nữ có vẻ đẹp
hoàn thiện theo tiêu chuẩn của Nho giáo.
2.1.2.2. Mối quan hệ giữa thuyết tam tòng và thuyết tứ đức trong
Nho giáo Trung Quốc
Điểm chung giữa thuyết tam tòng, tứ đức: chúng đều là những quy
tắc, lễ nghĩa, chuẩn mực bắt buộc đối với người phụ nữ.
Điểm khác biệt giữa thuyết tam tòng, tứ đức thể hiện ở phạm vi, đối
tượng đề cập.
Tam tòng (三從) có nguồn gốc từ Nghi lễ, Tang phục, Tử Hạ truyện
có ghi: 1. Tại gia tòng phụ (在家從父): người con gái khi còn ở nhà phải
nghe theo cha; 2. Xuất giá tòng phu (出嫁從夫): lúc lấy chồng phải nghe
theo chồng; Phu tử tòng tử (夫死從子): nếu chồng qua đời phải theo con trai.
Tứ đức gồm phụ công (婦功), phụ dung (婦容), phụ ngôn (婦言) và
phụ hạnh (婦行):
8
1. Công: nữ công, gia chánh phải khéo léo. Tuy nhiên các nghề với
phụ nữ ngày xưa chủ yếu chỉ là may, vá, thêu, dệt, bếp núc, buôn bán, với
người phụ nữ giỏi thì có thêm cầm kỳ thi hoạ.
2. Dung: dáng người đàn bà phải hòa nhã, gọn gàng, biết tôn trọng
hình thức bản thân
3. Ngôn: lời ăn tiếng nói khoan thai, dịu dàng, mềm mỏng
4. Hạnh: Tính nết hiền thảo, trong nhà thì nết na, kính trên nhường
dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em họ nhà chồng. Ra ngoài
thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh, cay nghiệt.
2.1.4. Thuyết tam tòng, tứ đức trong lịch sử phát triển của Nho
giáo Trung Quốc
2.1.4.1. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo nguyên thuỷ
Khổng Tử và Mạnh Tử xây dựng thuyết tam tòng, tứ đức để giáo
huấn người phụ nữ. Trong tứ đức, Khổng Tử đặc biệt đề cao đức “hạnh” của
người phụ nữ. Hạnh là nền tảng, là gốc của Công- Dung- Ngôn. Trong đức
Hạnh đối với cha mẹ, Khổng Tử đặc biệt chú trọng sự hiếu thảo. Mạnh Tử
cũng yêu cầu người phụ nữ phải “tòng” hoàn toàn vào chồng, nhà chồng.
2.1.4.2. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Hán Nho
Cuối thời Chiến Quốc, nhà Tần sử dụng “pháp trị” để thống nhất và
cai trị đất nước. Đổng Trọng Thư là người có công khôi phục lại Nho giáo
sau cuộc “đốt sách chôn Nho” của Tần Thủy Hoàng.
Về vai trò của người phụ nữ, Đổng Trọng Thư đã đưa ra tư tưởng
"phu xướng phụ tòng" - chồng nói vợ phải nghe theo, người phụ nữ phải
phục tùng người chồng dù đúng hay sai. Hán Nho trở thành công cụ thống
trị tinh thần đắc lực của nhà nước trung ương tập quyền chuyên chế.
Thuyết tam tòng, tứ đức vì thế mà cũng mang tính chất khắc nghiệt hơn
đối với người phụ nữ, là cơ sở đẩy tư tưởng gia trưởng, phu quyền, phụ
quyền lên cao.
2.1.4.3. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Tống Nho
Về người phụ nữ, Tống Nho đã tiếp thêm sức mạnh cho tư tưởng
"trọng nam khinh nữ", "tam tòng". Nghiệt ngã hơn, Tống Nho có cái nhìn
cực đoan về trinh tiết của người phụ nữ. Trình Di thời kỳ này đã nói: "chết
đói là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn". Đây là bằng chứng điển hình
nhất về sự khắt khe, nghiệt ngã của Nho giáo đối với phụ nữ.
2.2. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam
9
2.2.1. Khái lược sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Đặc biệt, ở mỗi một
thời kỳ lịch sử khác nhau, mỗi triều đại phong kiến khác nhau, thì vị trí và
vai trò của Nho giáo có sự khác nhau. Trong một nghìn năm phong kiến,
Nho giáo nói chung, thuyết tam tòng, tứ đức nói riêng đã gây ảnh hưởng
sâu đậm đến đời sống con người Việt Nam. Nho giáo góp phần xây dựng
truyền thống tư tưởng văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng hình ảnh người
phụ nữ Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.
Điều đáng chú ý là khi tồn tại ở Việt Nam, Nho giáo không hoàn
toàn rập khuôn như Nho giáo Trung Quốc mà nó đã được cải biến để phù
hợp với truyền thống người Việt.
2.2.2. Những nhân tố làm biến đổi nội dung thuyết tam tòng, tứ
đức trong Nho giáo Việt Nam
Một là, người Việt Nam có truyền thống tôn trọng phụ nữ từ ngàn xưa.
Hai là, thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước cũng như truyền
thống văn hóa của dân tộc Việt Nam quy định sự tiếp nhận và làm biến đổi
thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo.
Ba là, trong quá trình Nho giáo truyền bá vào Việt Nam, bản thân
các nhà Nho cũng tiếp thu và vận dụng nội dung của Nho giáo phù hợp với
hoàn cảnh của đất nước.
Bốn là, song song với việc Nho giáo được du nhập thì Phật giáo và
Đạo giáo cũng được truyền bá vào nước ta.
Năm là, gia đình truyền thống Việt Nam khác gia đình lớn phụ quyền
gia trưởng ở Trung Quốc.
Những nhân tố cơ bản trên đã làm biến đổi thuyết tam tòng, tứ đức
trong Nho giáo Việt Nam. Đó cũng là cơ sở quy định về nội dung, đặc
điểm của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam.
2.2.3. Khái quát nội dung, đặc điểm của thuyết tam tòng, tứ đức
trong Nho giáo Việt Nam
2.3.3.1. Nội dung thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam
Nội dung tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam được thể hiện
nhiều trong các bài Gia huấn ca, trong các bộ luật thời phong kiến. Nhìn
chung, nội dung tam tòng, tứ đức của Nho giáo Việt Nam không khác
nhiều so với Nho giáo Trung Quốc.
2.3.3.2. Một số đặc điểm cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức trong
Nho giáo Việt Nam
10
Một là, thuyết tam tòng, tứ đức được pháp luật phong kiến Việt Nam
thừa nhận và đề cao
Ở nước ta thời phong kiến, bô luật nào cũng bàn về phụ nữ, tiêu biểu
là Luật Hồng Đức, Luật Gia Long. Nhìn chung, mặc dù có tiến bộ hơn so
với Trung Quốc nhưng các bộ luật này cũng đều có tư tưởng trọng nam
khinh nữ. Họ bắt người phụ nữ phải phụ thuộc vào người đàn ông. Nhà
Nguyễn chịu nhiều ảnh hưởng của Tống Nho nên đã có cái nhìn khắc nghiệt
về trinh tiết của người phụ nữ chính vì vậy họ đề cao vấn đề “liệt nữ”.
Hai là, thuyết tam tòng, tứ đức được xây dựng theo xu hướng Nho
giáo hóa và thể hiện dưới hình thức gia huấn ca.
Xuất phát từ việc cho rằng “phụ nữ khó dạy bảo”- phu nhân nan hóa,
từ việc coi thường người phụ nữ ít học, không biết chữ nên các nhà Nho
thời phong kiến có chủ trương soạn thảo nội dung thuyết tam tòng, tứ đức
dưới dạng thơ ca, gia huấn ca- những câu ca giáo huấn người phụ nữ. Trong
các bài gia huấn, các nhà Nho đưa ra những điều người phụ nữ phải học và
làm theo. Bên cạnh đó, họ cũng đưa ra những điều cấm đối với phụ nữ, tất cả
đều quay xung quanh vấn đề tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ
Ba là, thuyết tam tòng, tứ đức được thể hiện qua hương ước làng xã
Việt Nam.
Hương ước đó chính là lệ làng được các bậc Nho sĩ soạn ra. Trong
Hương ước, các nhà Nho cũng đưa ra quy định của dòng họ mình đối với
nam nữ. Nếu trái với các quy định của hương ước thì sẽ bị xử phạt
Bốn là, thuyết tam tòng, tứ đức được thể hiện qua văn học dân gian
tiêu biểu là ca dao, tục ngữ, dân ca.
Năm là, địa vị của người phụ nữ Việt Nam đã làm "mềm hóa " thuyết
tam tòng, tứ đức.
So với Trung Quốc, địa vị của người phụ nữ Việt Nam được nâng lên
rất nhiều, họ được xã coi trọng hơn, được giao cho nhiều trọng trách hơn.
Ở Việt Nam, người phụ nữ được coi là “nội tướng” của gia đình. Sở dĩ có
điều này là vì mô hình gia đình Việt Nam khác so với mô hình gia đình
Trung Quốc. Mô hình gia đình Việt Nam là mô hình nhỏ thường bao gồm
hai thế hệ nên địa vị của người vợ đã được nâng cao. Còn ở Trung Quốc,
mô hình gia đình chủ yếu là đại gia đình với nhiều thế hệ nên cần có người
đàn ông đứng đầu để chỉ đạo quyết định mọi việc là việc làm cần thiết để
duy trì trật tự trên dưới tạo ra kỷ cương trong gia đình.
Sáu là, thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam không quá
đề cao lý thuyết mà xem trọng tính thực hành
11
Bảy là,trong lịch sử từ xa xưa cho đến ngày nay, người phụ nữ Việt
Nam ở mọi giai tầng đều tích cực tham gia vào hoạt động chính trị, văn
hóa, xã hội… Lịch sử và văn hóa dân tộc ta luôn lưu danh những người
phụ nữ góp sức mình vào sự thành công của dân tộc như bà Triệu Thị
Trinh, thái hậu Dương Vân Nga, nguyên phi Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân, bà Ba
Cai Vàng Những tấm gương này đã để lại nhiều lời ngợi ca trong lòng
người dân. Chính vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ Việt Nam đã khiến cho
nội hàm của thuyết tam tòng, tứ đức trong giáo Việt Nam có nhiều sự thay
đổi và có những điểm khác biệt căn bản với tư tưởng này ở Trung Quốc.
Tiểu kết chương 2
Là một học thuyết chính trị - xã hội - đạo đức, Nho giáo trở thành
công cụ bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị. Chủ trương của Nho giáo là
giáo dục đạo đức cho con người để đưa xã hội từ loạn lạc tới thái bình
thịnh trị. Những phạm trù giáo dục đạo đức của người phụ nữ được đề cập
chủ yếu trong thuyết tam tòng, tứ đức.
Thuyết tam tòng, tứ đức đưa ra những chuẩn mực đạo đức mà người
phụ nữ phải nghe theo. Bên cạnh những giá trị tích cực như giáo huấn
người phụ nữ hoàn thiện vẻ đẹp bề ngoài và nội dung bên trong thì thuyết
này còn mang lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực và tựu trung lại đó là tư tưởng
“trọng nam khinh nữ” ăn sâu vào trong đời sống xã hội. Căn nguyên của tư
tưởng này đó là Nho giáo muốn giáo dục người phụ nữ theo các tiêu chuẩn
mà nó đề ra nhằm duy trì trật tự gia đình, rộng ra là trật tự xã hội để nhằm
mục đích cuối cùng là bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị.
Nho giáo có sự ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội của các quốc
gia Á Đông trong đó có Việt Nam. Điều đáng chú ý là khi Nho giáo vào
Việt Nam nó được cải biến đi một số nội dung hay nói cách khác là được
"mềm hóa" và "khúc xạ" cho phù hợp với đời sống người Việt. Chính vì
vậy ở Việt Nam, tính chất tiêu cực của thuyết tam tòng đã giảm hơn nhiều
so với Nho giáo Trung Quốc. Ở Việt Nam, địa vị của người phụ nữ được
nâng cao hơn so với các nước Á Đông khác.
Chương 3
ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC ĐỐI VỚI
NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
12
3.1. Ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với
người phụ nữ Việt Nam hiện nay
3.1.1. Ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với
người phụ nữ Việt Nam trong gia đình hiện nay
3.1.1.1. Thuyết tam tòng, tứ đức gây ra tâm lý trọng nam khinh nữ
Thứ nhất, tâm lý trọng nam khinh nữ được thể hiện rõ thông qua
thuyết tam tòng
Tư tưởng tại gia tòng phụ vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
văn hóa của người Việt. Trong gia đình người Việt hiện nay, phần lớn
người đàn ông đóng vai trò trụ cột và tất cả mọi thành viên khác đều phải
nghe theo họ. Theo đó khi chưa đi lấy chồng, người con gái phải tuyệt đối
tuân theo sự sắp đặt của cha về vấn đề học hành, lựa chọn nghề nghiệp, lựa
chọn bạn đời.
Tính tiêu cực của tư tưởng xuất giá tòng phu đã ảnh hưởng nhiều đến
người phụ nữ. So với người chồng, người vợ có nhiều điều thiệt thòi hơn.
Thứ nhất, Trong một số gia đình, người chồng vẫn giữ vai trò quyết
định chính trong vấn đề liên quan đến con cái.
Thứ hai, người chồng là nắm giữa nguồn tài chính chủ yếu trong gia
đình nên họ là người có quyền quyết định mọi chi tiêu lớn nhỏ trong gia đình
Thứ ba, hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm cho rằng công việc nội trợ
là của phụ nữ, đàn ông không có nhiệm vụ phải làm những công việc đó.
Thứ tư, trong công việc sản xuất, người vợ thường đảm nhận các
công việc tốn nhiều thời gian, công sức nhưng thu nhập lại ít hơn nam giới
như thêu thùa, may vá, trồng trọt, chăn nuôi
Thứ năm, trong gia đình người phụ nữ ít được nghỉ ngơi hơn so với
nam giới.
Thứ sáu, bất bình đẳng trong việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế
hoạch hóa gia đình.
Thứ bảy, bất bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực, các cơ hội
phát triển.
Thứ tám, bất bình đẳng trong việc "đối nội", "đối ngoại".
Thứ chín, có nhiều người chồng còn mang nặng tính gia trưởng dẫn
đến bạo lực gia đình, ghen tuông vô cớ, trói buộc vợ trong những công
việc gia đình, ngăn cấm vợ mở rộng các mối quan hệ trong xã hội.
13
Thứ mười, có những người đàn ông bàng quan với sự nghiệp công
danh học vấn của vợ.
Hiện nay, mặc dù pháp luật quy định nếu chồng mất thì người phụ nữ
được phép đi lấy nười khác như vẫn phải có trách nhiệm với con cái nhưng
tính chất tiêu cực tư tưởng phu tử tòng tử trên thực tế vẫn còn có ảnh
hưởng mặc dù mức độ ảnh hưởng của nó không lớn. Đó là việc, trong
trường hợp chồng mất, người phụ nữ ngại dư luận vẫn không dám đi bước
nữa. Bên cạnh đó, có người phụ nữ chồng mất đã ở vậy hy sinh hạnh phúc
cá nhân để một lòng nuôi con trưởng thành nhưng lại bị con bất hiếu với
chính mình.
Thứ hai, tâm lý trọng nam khinh nữ còn được thể hiện rõ ở nhu cầu
muốn sinh con trai
Tính chất gia trưởng, trọng nam khinh nữ của Nho giáo đã ăn sâu vào
trong đời sống nhân dân nên ở các gia đình, dòng họ, người ta đặc biệt đề
cao việc sinh con trai và tìm mọi cách để sinh được con trai. Từ suy nghĩ
và hành động có tính chất cực đoan này đã làm cho nước ta là một trong
các nước có tỷ lệ mất cân bằng giới tính, tỷ lệ nạo phá thai nhiều thế giới.
Thứ ba, tâm lý trọng nam khinh nữ còn được thể hiện ở cách phân
chia tài sản và mức độ đầu tư cho con cái
Rất nhiều gia đình tập trung đầu tư học hành, chia tài sản cho con trai
cao hơn con gái. Nguyên nhân của vấn đề này là người ta cho rằng, con trai
là người nối dõi tông đường còn con gái sẽ đi lấy chồng và phục vụ gia đình
nhà chồng nên mức độ đầu tư của con gái không thể bằng con trai được.
3.1.1.2. Thuyết tam tòng, tứ đức đã cản trở chính sách hôn nhân tự do
Tư tưởng tại gia tòng phụ đã đề cao vai trò quyết định của người cha
đối với con gái. Trong đó có việc người cha có quyền quyết định hôn nhân
của con. Cơ hội người con gái lựa chọn bạn đời cho mình bị ảnh hưởng
bởi người cha. Mặt khác, trong hôn nhân, khi đã là vợ chồng thì người vợ
cũng phải phụ thuộc vào chồng. Hiện nay, mặc dù pháp luật đề ra việc hôn
nhân một vợ một chồng nhưng trên thực tế ở nhiều nơi (khu vực ngay gần
Hà Nội) vẫn có hiện tượng người đàn ông lấy nhiều vợ cùng một lúc và
các bà vợ trước phải chấp nhận điều đó. Đây là hệ lụy tiêu cực của thuyết
tam tòng còn ảnh hưởng đến ngày nay.
3.1.1.3. Thuyết tam tòng, tứ đức tạo ra tâm lý thụ động phụ thuộc
vào chồng làm cản trở sự phát triển của người phụ nữ hiện nay
14
Thứ nhất, người phụ nữ chấp nhận cách sống an phận thủ thường
Thứ hai, bản thân người phụ nữ phản ứng yếu ớt trước vấn đề bạo
lực gia đình.
Thứ ba, bản thân người phụ nữ không đánh giá đúng được vị trí và
vai trò của mình trong gia đình và xã hội nên họ ỷ lại, thụ động không chịu
cố gắng và vươn lên trong học tập và công việc xã hội, trong việc đấu
tranh đòi quyền bình đẳng về phía mình.
3.1.1.4. Thuyết tam tòng, tứ đức là một trong những nguyên nhân gây
ra vấn đề bạo lực gia đình
Mặc dù Luật bình đẳng giới được ban hành và có hiệu lực từ năm
2007, nhưng do hậu quả từ ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức
nên nước ta vẫn là quốc gia có tình trạng bạo lực gia đình cao, trong đó
chủ yếu là việc chồng đánh vợ, bố đánh đập con cái. Điều đáng nói là
trong số các vụ bạo lực gia đình từ phía người chồng đối với vợ thì có rất ít
các bà vợ đi tố cáo chồng vì họ còn e ngại dư luận “xấu chàng hổ ai”,
“vạch áo cho người xem lưng”.
3.1.2. Ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với
người phụ nữ Việt Nam ngoài xã hội hiện nay
3.1.2.1. Thuyết tam tòng, tứ đức đã hạn chế khả năng tham gia các
công việc xã hội của người phụ nữ
Người phụ nữ bị ảnh hưởng tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, “nữ nhi
an phận thủ thường” từ người chồng và những người thân trong gia đình
nên họ không được tạo điều kiện phát triển công việc xã hội từ những
thành viên này. Mặt khác, cũng có rất nhiều người phụ nữ đã ỷ lại, không
chịu cố gắng vươn lên để thay đổi hoàn cảnh mà chấp nhận cuộc sống phụ
thuộc vào chồng. Chính điều này đã làm cho họ tạo khoảng cách trong
việc tham gia các công tác xã hội.
3.1.2.2. Thuyết tam tòng, tứ đức đã hạn chế khả năng làm lãnh đạo ở
các cơ quan của người phụ nữ
Với tư tưởng chủ đạo là “trọng nam khinh nữ”, “nam tôn nữ ti”
thuyết tam tòng, tứ đức không chỉ là rào cản người phụ nữ tham gia các
công tác xã hội mà còn là rào cản người phụ nữ làm lãnh đạo.
Bị ảnh hưởng bởi tư tưởng trọng nam khinh nữ nên nam giới coi
thường vị trí, vai trò của nữ giới trong công tác xã hội. Mặt khác, không
chỉ nam giới có cái nhìn chưa đúng đối với nữ giới mà ngay chính nữ giới
15
nhiều khi cũng chưa vượt khỏi những định kiến cũ đối với bản thân mình
và người khác.
3.1.2.3. Thuyết tam tòng, tứ đức là rào cản gây bất bình đẳng giới
trong việc tiếp cận và hưởng thụ các quyền lợi xã hội
Những tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức, những định kiến về giới
là nguyên nhân gây ra sự chênh lệch về cơ hội xin việc làm, về thu nhập và
cơ hội thăng tiến giữa nam và nữ. Nguyên nhân của vấn đề này là do lao
động nữ gặp trở ngại về vấn đề sức khỏe, sinh sản, thời gian chăm sóc con
cái và gia đình nên không dành nhiều tâm huyết bằng lao động nam. Với
sự chênh lệch số năm công tác là 5 năm một mặt tạo điều kiện cho người
phụ nữ hồi phục sức khỏe nhưng mặt khác lại là yếu tố cản trở người phụ
nữ trong việc nằm trong cơ cấu cán bộ lãnh đạo nguồn.
3.2. Ảnh hưởng tích cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với
người phụ nữ Việt Nam hiện nay
3.2.1. Thuyết tam tòng, tứ đức có ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục
ý thức tôn trọng kỷ cương, nền nếp gia đình để ổn định trật tự xã hội
Hiện nay, bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực thì thuyết tam tòng, tứ
đức còn có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với đời sống xã hội. Một trong
những ảnh hưởng tích cực đó là học thuyết này có vai trò trong việc giáo
dục ý thức cho người phụ nữ tôn trong kỷ cương, nền nếp gia đình để ổn
định trật tự xã hội. Nó yêu cầu và hình thành cho người phụ nữ có cách
ứng xử hài hòa đúng mực với cha mẹ, với chồng, với con cái. Điều này rất
quan trọng khi trong nền kinh tế thị trường, nhiều giá trị truyền thống, lễ
giáo bị đảo lộn.
3.2.2 Thuyết tam tòng, tứ đức góp phần giáo dục người phụ nữ
hoàn thiện vẻ đẹp hình thức và nội dung đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội
Công
Hiện nay đức công của người phụ nữ đã có nhiều biến đổi so với
trước. Người phụ nữ không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình mà còn
được mở rộng ra xã hội. Trong gia đình, họ là lao động chính trong việc
nội trợ, nuôi dạy con cái, chăm lo việc nhà, quán xuyến kinh tế. Ngoài xã
hội, trình độ của người phụ nữ ngày càng được nâng cao, phụ nữ là lực lượng
lao động xã hội đông đảo, đội ngũ phụ nữ nắm giữ cương vị lãnh đạo cũng
ngày một tăng lên. Đây là nét mới, tiến bộ của người phụ nữ hiện nay.
16
Ngày nay, nhiều phụ nữ mải theo công việc, theo đồng tiền mà quên
nhiệm vụ của mình trong gia đình. Họ không có thời gian chăm lo cho gia
đình nên làm cho gia đình bất ổn, con cái không được giáo dục hoàn thiện
về nhân cách. Người phụ nữ phải nhận thấy rằng, thiên chức làm vợ, làm
mẹ- là người xây tổ ấm của gia đình là trách nhiệm của họ. Họ phải biết
kết hợp hài hòa về thời gian để giải quyết tốt công việc gia đình và xã hội.
Dung
Dung theo quan niệm của Nho giáo được hiểu là vẻ đẹp hình thức,
thể hiện qua dáng vẻ tự nhiên kết hợp với trang phục, trang điểm tạo nên
sự đoan trang nói chung. Hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần ngày
càng được nâng cao, người phụ nữ có điều kiện chăm lo đến vẻ đẹp bên
ngoài của mình. Họ đã tìm đến các thẩm mỹ viện, biết trang điểm, ăn mặc
sao cho đẹp hơn. Tuy nhiên, có nhiều chị em phụ nữ học theo lối ăn mặc
phương Tây lòe loẹt… không phù hợp với truyền thống của người Việt.
Chính vì vậy, quan niệm dung truyền thống của Nho giáo càng có giá trị
hơn khi nó kéo nét đẹp hiện đại của người phụ nữ về chuẩn mực truyền thống.
Ngôn
Ngôn được chú trọng về ngôn từ nhã nhặn, kín đáo, âm thanh của lời
nói nhỏ nhẹ, dễ nghe. Do tính chất công việc nên không thể lúc nào, ở đâu,
người phụ nữ hiện nay cũng khép nép, thưa, bẩm như người phụ nữ xưa.
Để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện đại, ngôn từ trong
giao tiếp đang dần được trí tuệ hóa, khoa học hóa.
Chúng ta cần phải nhìn thẳng vào phần hạn chế của việc sử dụng
ngôn ngữ của chị em phụ nữ hiện nay. Đó là ngôn ngữ chợ búa, tiếng
"nóng" văng tục, chửi bậy, những câu từ có nội dung thiếu trong sáng,
phản động. Trước tình trạng trên thì lời nói của người phụ nữ phải lễ phép,
tôn kính, có trật tự trên dưới vẫn là một nguyên tắc cần cho sự phấn đấu
của người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
Hạnh
Đây là nền tảng bên trong con người, là đạo đức con người. Đức hạnh
của người phụ nữ được biểu hiện ra bên ngoài là Công, Dung, Ngôn. Đức
hạnh thể hiện cách ứng xử của người phụ nữ với người thân trong gia đình,
với đồng nghiệp, với xóm làng, với Tổ quốc.
17
Hiện nay, dưới sự tác động của kinh tế thị trường, nhiều giá trị đạo đức
đã bị đảo lộn. Đạo đức người phụ nữ cũng bị biến đổi theo đó. Chính vì vậy
đức Hạnh của Tứ đức có vai trò giáo dục người phụ nữ trở nên hoàn thiện hơn.
3.3. Những nhân tố làm biến đổi sự ảnh hưởng của thuyết tam
tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay
Một là, Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, được Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991 Đảng ta
đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng nước ta.
Hai là, vai trò của người phụ nữ đã được thế giới và nước ta ủng hộ,
tôn vinh.
Ba là, bản thân nam giới, nữ giới đã và đang có những suy nghĩ,
đánh giá vị trí, vai trò của người phụ nữ theo chiều hướng tiến bộ hơn so
với trước.
Bốn là, phụ nữ Việt Nam là nhân tố vô cùng quan trọng đóng góp vào
sự thành công trong của cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và công
cuộc Đổi mới của đất nước từ năm 1986 đến nay.
3.4. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ
đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay
3.4.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát huy giá trị của thuyết tam
tòng, tứ đc với những tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
Nền kinh tế thị trường đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời sống xã
hội Việt Nam trên cả hai phương diện tích cực và hạn chế. Bên cạnh mặt
tích cực thì nó cũng mangl nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người dân, phát huy tính năng động sáng tạo của con người thì nó cũng
mang lại nhiều tiêu cực. Đó là sự tha hóa các giá trị đạo đức truyền thống,
trật tự phép tắc trong xã hội cũng bị đảo lộn.
Trong điều kiện mới, các giá trị đạo đức truyền thống của người phụ
nữ đang có những mâu thuẫn, đấu tranh giữa cái tiến bộ và lạc hậu; giữa
lối sống lành mạnh, trung thực, thuỷ chung với lối sống thực dụng, dối trá,
ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền. Đạo đức mới của người phụ nữ trong
xã hội mới vừa phải đấu tranh với các hệ thống đạo đức xã hội khác, vừa
18
phải đấu tranh để tự đổi mới giá trị truyền thống và khẳng định bản thân
trong điều kiện đã đổi thay.
3.4.2. Mâu thuẫn giữa những quan niệm bảo thủ, lạc hậu của
thuyết tam tòng, tứ đức với những quan điểm tiên tiến trong việc xây
dựng chuẩn mực đạo đức hiện đại của người phụ nữ Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, những quan điểm bảo thủ, lạc hậu do ảnh hưởng tiêu cực
của thuyết tam tòng, tứ đức.
Thứ hai, để phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện
đại hóa đất nước, chúng ta đã và đang đặt ra những phẩm chất tiên tiến cảu
người phụ nữ Việt Nam hiện đại.
Tuy nhiên, trong khi kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cần kiên quyết loại bỏ những truyền thống cũ lỗi thời, không còn phù hợp,
đồng thời qua thực tiễn khẳng định những giá trị mới nảy sinh phù hợp với
giai đoạn phát triển mới của đất nước. Đạo đức mới của người phụ nữ vừa
phải đấu tranh với quan điểm bảo thủ, lạc hậu của thuyết tam tòng, tứ đức,
vừa phải tự đổi mới, tự khẳng định mình trong điều kiện mới.
3.4.3. Mâu thuẫn giữa việc phát huy tính tích cực xã hội của người
phụ nữ với tâm lý đánh giá thấp vai trò của người phụ nữ ở nam giới và
tâm lý thụ động, mặc cảm, buông xuôi của chính bản thân người phụ nữ
Tính tích cực xã hội của người phụ nữ là tính chủ động sáng tạo và
lòng hăng hái nhiệt tình của họ trong những hoạt động có ý nghĩa thúc đẩy
sự tiến bộ xã hội và phụ nữ. Tuy nhiên, tính tích cực của người phụ nữ lại
bị chi phối, kìm hãm bởi những tiêu cực trong thuyết tam tòng, tứ đức đó
chính là tâm lý hạ thấp vai trò của người phụ nữ ở nam giới và tâm lý thụ
động, ỷ lại của chính bản thân người phụ nữ.
Chúng ta đã ban hành luật Bình đẳng giới nhưng thực tế vấn để bình
đẳng giới lại chưa được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi từ gia đình và xã hội.
Chúng ta phải có nhận thức và hành động đúng về vấn đề này để nâng cao
hơn vị trí và vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Mặt khác, việc làm này
phải mang tính chất đồng bộ từ gia đình và xã hội để người phụ nữ có điều
kiền phát huy tính năng động sáng tạo của mình nhằm đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tiểu kết chương 3
19
Đạo đức Nho giáo nói chung và đạo đức người phụ nữ trong Nho
giáo qua thuyết tam tòng, tứ đức có ảnh hưởng sâu sắc đến vị trí, vai trò và
đạo đức người phụ nữ Việt Nam hiện nay. Ảnh hưởng của thuyết tam tòng,
tứ đức thể hiện rõ ở cả mặt tích cực và hạn chế. Vai trò tích cực của nó là
phát huy vấn đề tu dưỡng đạo đức, lối sống vị tha, trọng nghĩa tình của
người phụ nữ. Tác động tiêu cực của nó là củng cố tư tưởng trọng nam
khinh nữ, tư tưởng gia trưởng, độc đoán trong gia đình và ngoài xã hội.
Mức độ, phạm vi, hệ quả của sự ảnh hưởng này đối với người phụ nữ Việt
Nam ngày nay cũng rất đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, bản thân người phụ
nữ Việt Nam trong thời đại mới luôn nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ, hy sinh vươn lên khẳng định bản thân trên nhiều lĩnh vực cuộc sống.
Thực trạng ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ
Việt Nam ngày nay đã đặt ra những mâu thuẫn cần phải giải quyết khi đưa
ra quan điểm và giải pháp cụ thể.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Một số quan điểm chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích
cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với
người phụ nữ Việt Nam hiện nay
4.1.1. Quán triệt quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí
Minh trong việc kế thừa các giá trị thuyết tam tòng, tứ đức đối với người
phụ nữ Việt Nam hiện nay
Hồ Chí Minh là người đề cao vị trí và vai trò của người phụ nữ trong
xã hội. Bên cạnh đó, Người cũng chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực của các
quan niệm cũ về phụ nữ. Chính vì vậy, Người đề cao sự nghiệp giải phóng
phụ nữ. Theo Người, người phụ nữ phải được giải phóng trên nhiều lĩnh vực:
Thứ nhất, về chính trị
Thứ hai, về kinh tế
Thứ ba, về văn hóa
20
Thứ tư, về lĩnh vực xã hội- gia đình
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương và chính sách đề cập
tới sự nghiệp này. Như Nghị quyết số 04/NQ-TW (12/7/1993), Chỉ thị số
28 CT-TW (19/9/1993), Chỉ thị 37/CT (16/5/1994), Chỉ thị 54/CT-TW
(22/5/2000), Chỉ thị 07/CT-TW (Ngày 25/1/2002), Nghị quyết số 11/NQ-
TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2003/NĐ-CP
(7/3/2003) và Luật bình đẳng giới được Quốc hội thông qua tháng 11/2006
đã tạo điều kiện cho Hội phụ nữ cùng cấp tham gia các hoạt động quản lý
nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ, Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) chỉ rõ: "Nâng cao trình độ mọi mặt về
đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ
nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người
thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày
càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở
các cấp".
4.1.2. Kế thừa các giá trị của thuyết tam tòng, tứ đức phải nhằm
nâng cao vai trò, vị trí của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới
Nâng cao vai trò, vị trí của người phụ nữ, yêu cầu phải kết hợp nhuần
nhuyễn giữa việc kế thừa những giá trị của thuyết tam tòng, tứ đức với
việc xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới. Trong xã hội hiện đại, những
chuẩn mực đạo đức mới của người phụ nữ được chúng ta đề ra xây dựng là:
tự trọng, tự tin, đảm đang, trung hậu. Những phẩm chất đạo đức này được
xây dựng dựa trên những giá trị tích cực của thuyết tam tòng, tứ đức.
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực
và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với
người phụ nữ Việt Nam hiện nay
4.2.1. Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đẩy mạnh đào tạo nghề
và giải quyết việc làm cho người phụ nữ Việt Nam hiện nay
Thực hiện giải pháp này, cần làm tốt một số biện pháp sau:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức cho bản thân người phụ nữ về vai trò
của việc phát triển kinh tế nhằm nâng cao địa vị, vai trò của người phụ nữ
Thứ hai, phát triển kinh tế hộ gia đình.
21
Thứ ba, ưu tiên đào tạo nghề cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn.
4.2.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục và nâng cao nhận thức về vị trí,
vai trò, chuẩn mực đạo đức của người phụ nữ nhằm phát huy ảnh
hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam
tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay
Về phía xã hội
Thứ nhất, cải cách thể chế để thiết lập quyền bình đẳng giới.
Thứ hai, đẩy nhanh phát triển kinh tế nhằm khuyến khích phụ nữ
tham gia và phân bố nguồn lực công bằng hơn.
Thứ ba, thực hiện những biện pháp thiết thực nhằm khắc phục sự
phân biệt giới trong việc làm chủ các nguồn lực và tiếng nói chính trị.
Thứ tư, các cấp, các ngành đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến
tới tất cả đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân về vai trò, vị trí
quan trọng của người phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực xã hội cũng như trong
gia đình, để từ đó góp phần thay đổi nhanh, mạnh hơn nữa những định
kiến giới vốn đã, đang tồn tại.
Thứ năm, mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu quốc tế. Điều này phù
hợp với xu hướng quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Đối với bản thân người phụ nữ
Một là, rèn luyện sức khoẻ
Thứ hai, nên quan tâm chăm sóc vẻ đẹp ngoại hình của mình
Thứ ba, có tri thức, văn hóa
Thứ tư, có nghề nghiệp ổn định.
Thứ năm, có lối sống văn hóa
Thứ sáu, năng động, sáng tạo.
4.2.3. Cải tạo các phong tục, tập quán lạc hậu, xây dựng những
phong tục tập quán mới nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực và
phát huy những ảnh hưởng tích cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với
người phụ nữ Việt Nam hiện nay
Thực hiện giải pháp này, cần làm tốt một số biện pháp sau:
Thứ nhất, phát huy bình đẳng giới tiến tới từng bước xoá bỏ hẳn tư
tưởng trọng nam khinh nữ ở trong gia đình và ngoài xã hội.
22
Thứ hai, thông qua tổ chức các lễ hội truyền thống nhằm đề cao vị
trí, vai trò của người phụ nữ
Thứ ba, hình thành phong tục tập quán mới phù hợp với yêu cầu của
xã hội hiện đại
4.2.4. Nâng cao vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ và các tổ chức xã
hội nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, phát huy những ảnh
hưởng tích cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam
hiện nay
Thực hiện giải pháp này, cần làm tốt một số biện pháp sau:
Thứ nhất, về phía các cấp uỷ Đảng và chính quyền cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến tới tất cả đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần
chúng nhân dân về vai trò, vị trí của người phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực
xã hội cũng như trong gia đình, để từ đó góp phần thay đổi nhanh, mạnh
hơn nữa những định kiến giới vốn đã, đang và tồn tại trong không ít người.
Thứ hai, các cán bộ hội viên các cấp phải không ngừng nỗ lực, phấn
đấu vươn lên trong công tác và học tập để có đủ trình độ năng lực, kinh
nghiệm, hoạt động có hiệu quả công việc của ngành, phát huy tính năng
động, sáng tạo của Hội trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện các chương
trình vì sự tiến bộ của phụ nữ.
4.2.5. Hoàn thiện về cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật,
thực hiện bình đẳng giới nhằm phát huy tính tích cực và hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ
Việt Nam hiện nay
Thực hiện giải pháp này, cần làm tốt một số biện pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về giới và vai trò quan trọng của sự
nghiệp giải phóng phụ nữ.
Thứ hai, không ngừng sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách xã hội,
hoàn thiện pháp luật về giới khoa học sao cho phù hợp với từng giai đoạn,
từng vùng miền cụ thể.
Thứ ba, thực hiện nghiêm cơ chế, luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.
Thứ tư, kinh tế là nền tảng của xã hội, phát triển kinh tế là cơ sở để
giải quyết nhiều mâu thuẫn của xã hội.
23
Thứ năm, cần xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm các chính
sách xã hội và bất bình đẳng giới đối với phụ nữ.
Tiểu kết chương 4
Hồ Chí Minh rất đề cao vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội.
Người cũng đặc biệt đề cao và đưa ra những tư tưởng tiến bộ trong sự
nghiệp giải phóng phụ nữ. Chính vì vậy, quán triệt tư tưởng của Hồ Chí
Minh về sự nghiệp giải phóng phụ nữ trong việc đề ra chính sách và
phương hướng về công tác phụ nữ là việc làm rất quan trọng. Từ đó, chúng
ta đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm phát huy nhân tố tích cực và hạn chế
nhân tố tiêu cực chúng ta cần thực hiện các phương hướng và giải pháp đã
đề ra.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, các giải pháp này cần được thực
hiện một cách đồng bộ từ các cấp chính quyền trên tất cả các lĩnh vực xã
hội mà phụ nữ tham gia. Trong đó, yếu tố quan trọng tạo nên thành công
của sự nghiệp này đó là chính bản thân người phụ nữ phải thay đổi tư duy,
phải nhận thức đúng đắn vai trò, địa vị của mình trong gia đình và xã hội
để có những hành động tự giải phóng mình nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống của bản thân mình.
KẾT LUẬN
Nho giáo với tư cách là một hệ tư tưởng xuất hiện ở Trung Quốc từ
thời Xuân Thu - Chiến Quốc và du nhập vào nhiều nước ở châu Á, trong
đó có Việt Nam.
Nho giáo là học thuyết về đạo đức các nhà Nho chủ trương "lấy đức
trị người". Chính vì vậy, Nho giáo tập trung giáo dục đạo đức cho con
người. Đối với người phụ nữ, Nho giáo chủ trương giáo dục họ theo những
chuẩn mực "tam tòng", "tứ đức".
Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Giai cấp phong
kiến Việt Nam đã tiếp thu, vận dụng thuyết tam tòng, tứ đức của Nho giáo
làm công cụ để giáo hóa về tâm lý, đạo đức nhằm xây dựng mẫu người
phụ nữ tiêu biểu cho xã hội. Sự ảnh hưởng của thuyết này được thể hiện rõ
trên hai khía cạnh tích cực và hạn chế. Giá trị tích cực của nó là giáo dục