Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

vụ việc thực tế làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.65 KB, 10 trang )

I. Vụ việc thực tế làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của nhà nước
trong hoạt động quản lý hành chính liên quan đến hoạt động quản lý
nhà nước về kinh doanh:
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 12 tháng 2 năm 2010 Hợp tác xã (HTX) Bảo Dương được Ủy Ban
nhân dân Huyện Than Uyên – Tỉnh Lai Châu cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh theo Quyết Định số 48/QĐ-UB, ngày 07 tháng 2 năm 2010. Do ông:
Nguyễn Văn Soát làm Chủ nhiệm – là người đại diện theo pháp luật. Ngành nghề
Kinh doanh: Đồ gỗ, nội thất nhà cửa. Đến ngày mùng 7 tháng 07 năm 2010 Chủ
tịch UBND Huyện Than Uyên ra Quyết định số 212/QĐ-CTUBND thu hồi Giấy
Chứng nhận đăng ký kinh doanh đã cấp cho Hợp tác xã Bảo Dương, vì lí do Quyết
định số 48/QĐ-UB, ngày mùng 7 tháng 2 năm 2010 được ban hành không đúng
thủ tục theo quy định của pháp luật.
Ngày mùng 10 tháng 7 năm 2010 Hợp tác xã Bảo Dương có đơn khởi kiện
đến Tòa án huyện Than Uyên vì cho rằng việc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh là không đúng, ảnh hưởng đến sự hoạt động kinh doanh bình thường
của Hợp tác xã. Cụ thể là Hợp tác xã phải ngừng hoạt động và HTX phải hủy 2
hợp đồng với đối tác, ngưng trệ hoạt động kinh doanh của HTX, không thể giao
kết được với khách hàng và phải bồi thường cho đối tác là 1 tỷ đồng do hủy hợp
đồng. Máy móc của HTX do không đươc đưa vào sử dụng trong một thời gian khá
dài nên có một số máy móc đã bị hư hỏng một phần và chi phí cho việc khắc phục
hư hỏng trên là 30 triệu đồng. Bên cạnh đó, theo báo cáo tài chính của HTX, việc
kinh doanh của HTX khá ổn định, trung bình mỗi tháng Hợp tác xã Bảo Dương lãi
2,5 tỷ đồng.
Sau khi xem xét, ngày mùng 7 tháng 12 năm 2010, Tòa án nhân dân huyện Than
Uyên đã ra quyết định để xác định quyết định số 212/QĐ-CTUBND của Chủ tịch
UBND huyện Than Uyên là vi phạm pháp luật, gây thiệt hại lớn cho HTX Bảo
1
Dương. Hợp tác xã Bảo Dương được tiến hành các hoạt động kinh doanh trở lại và
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bồi thường thiệt hại.
1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước


Theo Luật TNBT của Nhà nước và Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-
BTP-BTC-TTCP hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong
hoạt động quản lý hành chính; xét trong vụ việc thực tế trên đây, có thể thấy có đủ
căn cứ để HTX Bảo Dương yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại cho mình. Cụ
thể:
+ Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi
của người thi hành công vụ là trái pháp luật
Theo yêu cầu của HTX Bảo Dương, sau khi xem xét, Tòa án nhân dân
huyện Than Uyên đã ra bản án hành chính xác nhận có hành vi trái pháp luật của
Chủ tịch UBND huyện Than Uyên và bản án này đã có hiệu lực pháp luật. Theo
Điều 2 Thông tư liên tịch số 19/2010, đây chính là một trong các văn bản của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền (trường hợp này là bản án của Tòa án) xác định
hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật.
+ Hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ thuộc phạm vi
trách nhiệm bồi thường quy định tại Điều 13 Luật Trách nhiệm bồi thường
Nhà nước.
Theo Khoản 5 Điều 13 về Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động
quản lý hành chính: “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp sau đây:
…5. Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Giấy chứng nhận
đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép;…”
CTUBND huyện Than Uyên đã ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận Đăng
ký kinh doanh vì lý do Quyết định số 48/QĐ-UB, ngày mùng 7 tháng 2 năm 2010
được ban hành không đúng thủ tục theo quy định của pháp luật. Như vậy có thể
2
xác định, việc bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực
quản lý hành chính.
+ Tính có lỗi của người thi hành công vụ
Như đã nêu ở phần lý thuyết, các quy định gián tiếp về yếu tố lỗi cần phải có
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý

hành chính. Việc ra quyết định trái pháp luật của Chủ tịch UBND huyện là hành vi
thực hiện không đúng quy định pháp luật. Có thể trong trường hợp này, do hiểu sai
quy định của pháp luật, chủ tịch UBND đã theo nhận thức chủ quan của mình và
cho rằng giải quyết như vậy là đúng. Tuy nhiên, hành vi này vi phạm pháp luật và
trên thực tế đã gây thiệt hại cho HTX Bảo Dương. Ta xác định, lỗi của Chủ tịch
UBND huyện là lỗi vô ý do trình độ, năng lực chuyên môn còn kém.
+ Có thiệt hại thực tế xảy ra
Thiệt hại trên thực tế đó là thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất đó là: HTX
Bảo Dương phải bồi thường cho 2 công ty đối tác tổng cộng là 1 tỷ đồng. Theo báo
cáo tài chính của HTX, mỗi tháng Hợp tác xã Bảo Dương lãi 2,5 tỷ đồng.
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
Hành vi thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh đã tác động trực tiếp và gây
ra thiệt hại về mặt vật chất. Về mặt thời gian, hành vi trái pháp luật của Chủ tịch
UBND huyện xảy ra trước và kết quả là, khi HTX Bảo Dương bị thu hồi Giấy phép
kinh doanh tức mất quyền được kinh doanh, thì các hoạt động kinh doanh đều phải
dừng lại. Chính vì vậy, thiệt hại xảy ra là tất yếu và trên thực tế là thiệt hại lớn.
Hành vi trái pháp luật này chính là nguyên nhân dẫn đến kết quả HTX bị tổn thất
về mặt vật chất.
Từ đây, có thể thấy đã có đủ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước.
2. Xác định cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường
3
Căn cứ vào Khoản 5 Điều 3 NĐ 16/2010/NĐ-CP quy định :“Trong trường
hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là thành viên Ủy ban nhân dân cấp
huyện và người thi hành công vụ do các cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban
nhân dân cấp huyện trực tiếp quản lý thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là Ủy
ban nhân dân cấp huyện”. Như vậy, Chủ tịch UBND Huyện Than Uyên là thành
viên của UBND Huyện Than Uyên và vì vậy UBND huyện Than Uyên sẽ có thực
hiện trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này.
Và việc bồi thường sẽ được thông qua người đại diện theo quy định tại Điều

7 NĐ 16/2010/NĐ-CP“ 1. Ngay sau khi thụ lý đơn yêu cầu bồi thường, Thủ trưởng
cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải ra quyết định cử người đại diện thực hiện
việc giải quyết bồi thường (sau đây gọi chung là người đại diện)…” và người đại
diện cũng phải đáp ứng những điều kiện nhất định theo quy định tại khoản 2 Điều
7 NĐ 16/2010/NĐ-CP “2.Người đại diện phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là cán bộ lãnh đạo cấp phòng trở lên hoặc tương đương;
b) Có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực phát sinh trách nhiệm bồi
thường;
c) Không phải là người liên quan của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt
hại hoặc của người bị thiệt hại.”
3. Xác định thiệt hại được bồi thường
Do hạn chế về mặt tài liệu, thông tin nên nhóm chưa được xem quyết định
cụ thể của Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xác định quyết định
số 212/QĐ-CTUBND của Chủ tịch UBND huyện Than Uyên là vi phạm pháp luật
và Hợp tác xã Bảo Dương được bồi thường nhà nước là bao nhiêu. Tuy nhiên, trên
cơ sở những tài liệu, thông tin mà nhóm thu thập được, nhóm em xin được nêu ra
quan điểm về cách xác định bồi thường trong trường hợp này.
Thứ nhất: Thiệt hại do thu nhập thực tế của HTX bị mất.
4
- Căn cứ vào Điều 46 Khoản 1 Luật TNBTNN 2009 quy định: “cá nhân, tổ chức có
thu nhập mà xác định được thì được bồi thường theo thu nhập thực tế bị mất.”
- Căn cứ theo Điều 6 Khoản 1 Thông tư liên tịch 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP:
“1. Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của tổ chức
Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của tổ chức quy định
tại Điều 46 của Luật được xác định trên cơ sở thu nhập trung bình của 2 năm liền
kề trước thời điểm xảy ra thiệt hại. Thu nhập của tổ chức được xác định theo báo
cáo tài chính hợp pháp của tổ chức; trường hợp không có báo cáo tài chính, tổ
chức có thể chứng minh thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút bằng các tài liệu,
chứng cứ hợp pháp khác theo quy định của pháp luật có liên quan.”
Theo báo cáo tài chính của HTX, việc kinh doanh ổn định, trung bình mỗi

tháng Hợp tác xã Bảo Dương lãi 2,5 tỷ đồng/tháng. Mà thời gian ngừng việc kinh
doanh sản xuất là 5 tháng. Do vậy, tổng thiệt hại được xác định là:
2,5 (tỷ đồng) x 5 (tháng) = 12,5 (tỷ đồng)
Thứ hai: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.
- Thiệt hại do tài sản của HTX bị mất: Căn cứ vào Điều 45 Khoản 1 Luật
TNBTNN 2009 quy định “Trường hợp tài sản bị phát mại, bị mất thì thiệt hại
được xác định căn cứ vào giá trị thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có
cùng tính năng…”. Trong vụ việc trên, do quyết định trái pháp luật của Chủ tịch
UBND huyện Than Uyên nên HTX Bảo Dương đã phải hủy 2 bản hợp đồng với
đối tác và phải bồi thường cho 2 đối tác trên 1 tỷ đồng. Do vậy, tài sản mà HTX
Bảo Dương bị mất ở đây là 1 tỷ đồng và sẽ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
bồi thường.
- Thiệt hại do tài sản của HTX bị hư hỏng: Căn cứ vào Điều 45 Khoản 2 Luật
TNBTNN 2009 quy định :“ Trường hợp tài sản bị hư hỏng thì thiệt hại được xác
định là chi phí có liên quan theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường
để sửa chữa. khôi phục lại tài sản…” Như vậy, trong vụ việc trên, do có quyết
5
định sai pháp luật của Chủ tịch UBND Huyện Than Uyên nên HTX Bảo Dương đã
phải ngừng hoạt động trong thời gian là 5 tháng và máy móc của HTX không được
đem vào sử dụng trong thời gian này đã phát sinh một số hư hỏng và chi phí sửa
chữa cho hư hỏng này là 30 triệu đồng.
Như vậy, tổng thiệt hại mà HTX Bảo Dương được bồi thường là :
12,5 tỷ + 1 tỷ+ 30 triệu = 13 tỷ 530 triệu đồng.
Ý kiến bình luận của nhóm: Vụ việc này đã được Tòa án nhân dân huyện Than
Uyên, tỉnh Lai Châu giải quyết, Tòa án đã ra quyết định xác định quyết định số
212/QĐ-CTUBND của Chủ tịch UBND huyện Than Uyên là vi phạm pháp luật và
Hợp tác xã Bảo Dương được nhà nước bồi thường. Xét theo những quy định của
pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường nhà nước, nhóm em nhận thấy cách
giải quyết của Tòa án là hợp lý trong việc xác định căn cứ trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước, trong cách xác định cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường này.

II. Vụ việc thực tế làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
trong hoạt động thi hành án hình sự
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 15/8/2003, tại thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc
Giang đã xảy ra vụ án giết người, nạn nhân là chị Nguyễn Thị Hoan. Ngày
17/8/2003, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định
khởi tố vụ án giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự để tiến hành điều tra. Từ một
số thông tin ban đầu, ngày 30/8/2003, Cơ quan điều tra đã mời ông Nguyễn Thanh
Chấn (52 tuổi, trú tại thôn Me) đến trụ sở làm việc để lấy lời khai. Căn cứ tài liệu
điều tra ban đầu ngày 28/9/2003, Cơ quan điều tra đã ra lệnh tạm giữ với ông
Nguyễn Thanh Chấn; tiếp đó, ngày 29/9/2003, đã ra Quyết định khởi tố bị can và
ra lệnh tạm giam với Ông Nguyễn Thanh Chấn về tội danh giết người.
6
Ngày 3/12/2003, cơ quan điều tra đã ra bản kết luận điều tra vụ án và chuyển
hồ sơ để nghị Viện kiểm sát truy tố bị can Nguyễn Thanh Chấn về tội giết người.
Ngày 10/2/2004, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang ra bản Cáo trạng – quyết
định truy tố bị can Nguyễn Thanh Chấn về tội giết người theo quy định tại điểm n,
khoản 1, điều 93 Bộ Luật Hình sự.
Đến ngày 26/3/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã mở phiên tòa xét xử
bị cáo Nguyễn Thanh Chấn và đã ra bản án tuyên bị cáo phạm tội giết người với
mức án tù chung thân; bị cáo Chấn kêu oan và làm đơn kháng cáo. Ngày 26 và
27/7/2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà nội xét xử phúc thẩm vụ
án, tuyên y án sơ thẩm.
Trong quá trình ở trại giam, phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn đã có một số lần
kêu oan. Ban giám thị trại giam đã gửi đến các cơ quan liên quan, trong đó có viện
KSND tối cao và TAND tối cao xem xét. Bà Nguyễn Thị Chiến, vợ của phạm nhân
Nguyễn Thanh Chấn cũng có đơn kêu oan cho chồng. Ngày 4/11/2013, viện trưởng
viện KSND tối cao Nguyễn Hoà Bình đã ký quyết định số 01/QĐKNTT-
VKSNDTC kháng nghị tái thẩm bản án đối với ông Nguyễn Thanh Chấn. Cùng
ngày, phó viện trưởng viện KSND tối cao Lê Hữu Thể ký quyết định số

04/QĐTĐCTHA tạm đình chỉ thi hành án đối với phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn.
Ngày 25/1/2014, Cơ quan điều tra Bộ Công an đã đọc quyết định đình chỉ điều tra
đối với ông Nguyễn Thanh Chấn. Sau 10 năm ngồi tù oan, ông Chấn đã chính thức
được minh oan.
1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong vụ việc này có phát sinh trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước, cụ thể là:
- Có bản án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp
7
được bồi thường theo quy định tại Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường
Nhà nước.
Cụ thể là: “Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành
hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi
hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội” Theo
như vụ việc này, ông Chấn được xác định không thực hiện hành vi phạm tội. Cơ
quan điều tra Bộ Công an đã đọc quyết định đình chỉ điều tra đối với ông Chấn.
Như vậy, đây được xác định là cơ sở để ông Chấn được Nhà nước bồi thường do bị
phạt tù oan sai.
- Có thiệt hại thực tế xảy ra
Tính đến thời điểm nhận được quyết định đình chỉ điều tra bị can, ông Nguyễn
Thanh Chấn đã bị bắt tạm giữ, tạm giam với thời gian là 10 năm 01 tháng 06 ngày
(Từ 28/9/2003 đến ngày 4/11/2013, tạm tính bằng 3.685 ngày), thời gian ông Chấn
bị khởi tố bị can nhưng không bị tạm giam là 02 tháng 20 ngày (Từ 04/11/2013
đến 25/01/2014, tạm tính bằng 80 ngày). Đây là thiệt hại thực tế do bị án oan sai
mà các cơ quan tố tụng đã áp dụng đối với ông Chấn.
Tính đến thời điểm hiện nay, ông Nguyễn Thanh Chấn vẫn chưa có đơn yêu
cầu bồi thường thiệt hại. Trong dư luận cũng xuất hiện rất nhiều ý kiến trái chiều
xung quanh việc bồi thường thiệt hại cho ông Chấn do cơ quan nào chịu trách

nhiệm, chịu trách nhiệm ra sao. Theo tìm hiểu của nhóm, chúng em xin có một số ý
kiến như sau:
2. Xác định cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường
Sau khi đã được xác định là oan sai, nếu ông Nguyễn Thanh Chấn có đơn yêu
cầu bồi thường thiệt hại thì việc giải quyết bồi thường sẽ được thực hiện căn cứ
vào Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Xét diễn biến giải quyết vụ án của
8
ông Nguyễn Thanh Chấn, chúng ta nhận thấy: Vụ án đã được Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Giang xét xử sơ thẩm,sau đó ông Chấn kháng cáo và Tòa phúc thẩm tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét xử theo thủ tục phúc phẩm. Sau khi xét xử, Tòa
án cấp phúc thẩm vẫn giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm và tuyên ông
Chấn là có tội. Điều 32 khoản 2 điểm b Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước
quy định như sau: “2/ Tòa án cấp phúc thẩm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong các trường hợp sau đây b/ Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng
Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hủy bản án phúc thẩm để điều
tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không thực hiện
hành vi phạm tội”.
Căn cứ theo quy định trên thì trong trường hợp ông Chấn có đơn yêu cầu thì
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội sẽ là cơ quan có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại.
3. Xác định thiệt hại được bồi thường.
Theo quy định tại Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; Căn cứ qui định
của Chính phủ về mức lương tối thiểu tại thời điểm hiện nay; Căn cứ hướng dẫn tại
Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC- BCA-BTP-BQP-
BTC-BNN&PTNT ngày 02/11/2012, thì cơ quan tố tụng đã gây ra oan sai sẽ phải
có trách nhiệm bồi thường cho ông Chấn các khoản thiệt hại sau:
Thứ nhất, khoản thiệt hại về vật chất (Tạm thời chỉ tính về khoản thiệt hại do
thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút) sẽ được tính theo phương thức, cách thức
cụ thể là: Thời gian thực tế mà người được xác định là bị oan, sai đã bị tạm giữ,
tạm giam nhân với mức thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút (Tạm thời xác

định theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết
bồi thường). Như vậy khoản thu nhập thực tế bị mất trong thời giam bị tạm giam
tính ở mức tối thiểu, cụ thể sẽ là:
3.685 ngày x 52.272đồng/ngày = 192.622.320 đồng.
9
Thứ hai, khoản thiệt hại do tổn thất về tinh thần (Bao gồm thiệt hại do tổn
thất về tinh thần trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù và
thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành
án mà không bị tạm giữ, tạm giam) sẽ được tính cụ thể là là:
(3.685 x 3 + 80 ngày) x 52.272đồng/ngày = 582.048.720 đồng.
Thứ ba, cơ quan tiến hành tố tụng đã gây ra oan sai có thể được xem xét và
có thể sẽ phải bồi thường cho ông Chấn các khoản thiệt hại khác như: Thiệt hại
do tài sản bị xâm phạm; Thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khỏe; Chi phí
thực tế người bị thiệt hại đã bỏ ra trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; Thiệt hại
do tổn thất về tinh thần trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm …v.v, nếu như
ông Chấn đưa ra căn cứ để chứng minh các khoản thiệt hại này và có yêu cầu bồi
thường.
Như vậy, tổng thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần mà cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra oan sai cần phải bồi thường ngay cho ông Chấn tạm tính
là:
192.622.320 đồng + 582.048.720 đồng = 774.671.040 đồng.
Trên đây là hai vụ việc mà nhóm em đã tham khảo và tìm hiểu được. Dựa trên
những thông tin mà nhóm thu thập được, chúng em đã nêu ra một số quan điểm, ý
kiến của nhóm đối với mỗi vụ việc. Bài làm của chúng em có thể còn nhiều thiếu
sót, mong các thầy, cô bổ sung để bài của nhóm em được hoàn thiện hơn. Chúng
em xin cảm ơn.
10
11

×