HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN KIấN
THựC HIệN PHáP LUậT Về TRáCH NHIệM
BồI THƯờNG CủA NHà NƯớC DO CÔNG CHứC CƠ QUAN
HàNH CHíNH NHà NƯớC GÂY RA ở VIệT NAM
LUN N TIN S LUT HC
H NI - 2014
HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN KIấN
THựC HIệN PHáP LUậT Về TRáCH NHIệM
BồI THƯờNG CủA NHà NƯớC DO CÔNG CHứC CƠ QUAN
HàNH CHíNH NHà NƯớC GÂY RA ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh : Lý lun v lch s Nh nc
v phỏp lut
Mó s : 62 38 01 01
LUN N TIN S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: 1. TS INH TRUNG
TNG
2. TS
HONG NGC THNH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung
thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Đỗ Kiên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN TRONG NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI . .10
1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN TỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC GÂY RA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC TẬP
TRUNG NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN 33
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM 44
2.1. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA 44
2.2. NỘI DUNG, YÊU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO
CÔNG CHỨC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA . . .84
2.3. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA
NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
GÂY RA Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ
VIỆT NAM CÓ THỂ THAM KHẢO 108
Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM 126
3.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH VÀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM 127
3.2. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC ĐỐI VỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM VÀ
NGUYÊN NHÂN 140
3.3. NHỮNG HẠN CHẾ ĐỐI VỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM VÀ NGUYÊN
NHÂN 156
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM 177
4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM 177
4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM 188
KẾT LUẬN 218
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 222
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 223
PHỤ LỤC 243
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BLDS : Bộ luật Dân sự
BTTH : Bồi thường thiệt hại
CQHCNN : Cơ quan hành chính Nhà nước
HĐND : Hội đồng nhân dân
KS : Kiểm sát
TA : Tòa án
TAND : Tòa án nhân dân
TNBT : Trách nhiệm bồi thường
TNBTCNN : Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước
TNDS : Trách nhiệm dân sự
TNPL : Trách nhiệm pháp lý
UBND : Ủy ban nhân dân
UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
Μ ΥỞ ĐẦ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi đất nước ta giành được độc lập đến nay, Nhà
nước luôn coi việc xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy
và hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân hiện nay, việc bảo đảm lợi ích
của Nhà nước và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức cần được tôn trọng và thực hiện công bằng
giữa các chủ thể trong xã hội. Mối quan hệ giữa Nhà
nước với cá nhân và tổ chức trong xã hội là mối quan hệ
đặc biệt, trong đó, vấn đề công bằng giữa một bên chủ
thể là Nhà nước và một bên chủ thể là cá nhân, tổ chức
được xác định thông qua các quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm đối với nhau và được thực hiện trên cơ sở nguyên
tắc “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” [93,
tr.3] và “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường
về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy
định của pháp luật” [93, tr.5]. Với nguyên tắc hiến
định trên, Nhà nước Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu,
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước.
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là trách nhiệm
bắt buộc khi cơ quan Nhà nước xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, đây không chỉ là vấn đề dân
sự mà còn là vấn đề chính trị - pháp lý - xã hội, phản
ánh trình độ phát triển và dân chủ của chế độ nhà nước,
phản ánh một Nhà nước do dân làm chủ. Nhà nước với tư
cách là một chủ thể công quyền trong chế độ chính trị -
1
xã hội, được hình thành từ nhân dân và được nhân dân uỷ
thác cho trách nhiệm điều hành, quản lý xã hội, trong
đó có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ lợi ích Nhà nước,
lợi ích tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân trong quốc gia mình. Với tinh thần đó, trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước là một trong những yếu tố góp
phần nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao hiệu quả
hoạt động công vụ, mở rộng dân chủ xã hội, tạo lập sự
công bằng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
Những năm qua, mặc dù trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước đã được ghi nhận từ rất sớm trong Hiến pháp,
từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001). Những nguyên tắc hiến định về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước được quy định trong các bản Hiến
pháp nêu trên được thể chế hóa thành các quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 (sửa đổi, bổ sung năm
2003), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật Dân sự
năm 1995 (sửa đổi, bổ sung năm 2005), Nghị định số
47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc
giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên
chức, người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra, Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17
tháng 3 năm 2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc
bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra… Tuy nhiên,
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chưa được đánh giá
đúng mức, quan niệm về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước tương đối mờ nhạt và đến ngày 18 tháng 6 năm 2009,
tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XII mới thông qua một
2
đạo luật riêng biệt - Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước.
Do hoạt động quản lý hành chính, đặc biệt là hoạt
động của các cơ quan hành chính Nhà nước từ trung ương
đến địa phương là hoạt động mang tính quyền lực tác
động tới các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực trong đời
sống xã hội, liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp
chân chính của cá nhân, tổ chức. Một mặt nó thừa nhận,
bảo vệ, bảo đảm sự phát triển kinh tế xã hội vì dân
giàu, nước mạnh, mặt khác do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan từ phía Nhà nước xâm phạm đến quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động của cơ quan
hành chính Nhà nước liên quan đến nhiều người, nhiều
lĩnh vực, nhiều mối quan hệ đan xen, có sự tham gia của
nhiều chủ thể trong xã hội, chịu sự điều chỉnh của
nhiều loại quy phạm của cả luật nội dung lẫn hình thức
và phải tuân theo những trình tự, thủ tục khác nhau.
Việc giải quyết bồi thường thiệt hại giữa cơ quan hành
chính Nhà nước và người bị gây thiệt hại được đặt trong
mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và công dân khi thực
thi quyền hành pháp. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường
trong lĩnh vực quản lý hành chính, hay nói cách khác
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ
quan hành chính Nhà nước gây ra cần được xác định trong
các đạo luật. Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
đã quy định phạm vi trách nhiệm bồi thường trong lĩnh
vực quản lý hành chính nhà nước, lĩnh vực thi hành án,
hoạt động tố tụng Đây là bước phát triển đáng kể
trong hoạt động lập pháp, đáp ứng đòi hỏi khách quan
trong một xã hội dân chủ, thể hiện trách nhiệm của Nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
3
ở Việt Nam. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2010, vì vậy, vấn đề thực hiện Luật này
nói chung và thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính
Nhà nước gây ra nói riêng là vấn đề có tính cấp thiết.
Bồi thường nhà nước là vấn đề hết sức phức tạp, nó thể
hiện quan hệ đặc biệt giữa một bên chủ thể là Nhà nước
- với tư cách là chủ thể thực thi và duy trì quyền lực
công theo pháp luật - với một bên là cá nhân, tổ chức
bị thiệt hại do chính hành vi trái pháp luật của người
thi hành công vụ gây ra. Bảo đảm sự bình đẳng trước
pháp luật trong mối quan hệ này là không hề đơn giản.
Trong bối cảnh đó, việc thực hiện trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính
Nhà nước gây ra đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn,
thực hiện nghiêm minh theo trình tự luật định.
Những vấn đề nêu trên đặt ra yêu cầu phải nghiên
cứu một cách toàn diện, sâu rộng, có hệ thống đối với
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở
Việt Nam. Đồng thời, cần nghiên cứu thủ tục tố tụng
trong việc xác định trách nhiệm của Nhà nước và yêu cầu
chính đáng của công dân theo những mô hình và pháp luật
tố tụng phù hợp. Do đó, cần tổng kết từ thực tiễn thực
hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
nhằm tìm kiếm các giải pháp bảo đảm cho việc thực hiện
và các vấn đề cần hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Trên cơ sở nhận thức và với mong muốn làm sáng tỏ
những vấn đề cấp thiết về lý luận và thực tiễn việc
thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, đánh giá
những điểm tích cực và hạn chế nhằm đưa ra quan điểm và
4
giải pháp về lĩnh vực này, nghiên cứu sinh đã chọn vấn
đề: “Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây
ra ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật thực định, phân
tích, đánh giá các quan điểm trong khoa học pháp lý
hiện nay, luận án nghiên cứu toàn diện, có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật
về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ
quan hành chính Nhà nước gây ra. Luận án tìm ra những
nguyên nhân, đề xuất các quan điểm, giải pháp có căn cứ
khoa học nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành
chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên
cứu, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích khái niệm, hình thức, vai trò thực hiện
pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do
công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra.
- Phân tích nội dung, yêu cầu và các yếu tố bảo đảm
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra,
trong đó tập trung phân tích sâu, làm rõ các nội dung
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra và
các bảo đảm đặc trưng đối với hoạt động này.
- Nghiên cứu thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà
5
nước gây ra ở một số nước trên thế giới, từ đó rút ra
những giá trị Việt Nam có thể tham khảo.
- Phân tích khái quát tình hình và hệ thống tổ chức
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước ở Việt Nam.
- Đánh giá đúng những kết quả đạt được và hạn chế
đối với thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính
Nhà nước gây ra ở Việt Nam, phân tích rõ các nguyên
nhân khách quan, chủ quan của những kết quả đạt được và
hạn chế đó.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, xác định những
quan điểm và đề xuất những giải pháp cụ thể, phù hợp,
có tính khả thi nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ
quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn
đối với thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước
gây ra ở Việt Nam dưới góc độ khoa học lý luận và lịch
sử nhà nước và pháp luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây
ra ở Việt Nam là đề tài rộng, chứa đựng nhiều vấn đề
phức tạp về lý luận và thực tiễn. Luận án nghiên cứu
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước trong phạm vi các cơ quan hành chính Nhà nước,
công chức của cơ quan này và các cá nhân, tổ chức có
liên quan ở Việt Nam.
6
Về mặt thời gian, luận án nghiên cứu thực hiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công
chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra từ năm 1945 tới
nay. Tình hình và số liệu thống kê liên quan tới vấn đề
này được trích dẫn, viện dẫn từ các báo cáo chính thức
từ năm 1997 tới năm 2013 của Chính phủ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ, ngành
và Ủy ban nhân dân các cấp.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với thực hiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công
chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra trong bối cảnh
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận án còn
căn cứ vào các văn bản pháp luật Việt Nam quy định về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ
quan hành chính Nhà nước gây ra và tài liệu của một số
nước trên thế giới về lĩnh vực này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả lựa chọn
phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung luận
án.
- Chương 1, tác giả coi trọng phương pháp tổng hợp,
phân tích và hệ thống hóa để đánh giá các công trình
nghiên cứu có liên quan tới thực hiện pháp luật về
7
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ
quan hành chính Nhà nước gây ra.
- Chương 2, tác giả sử dụng nhiều phương pháp để
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của luận án. Cụ thể
là, tác giả chủ yếu dùng phương pháp quy nạp để xây
dựng các khái niệm. Phương pháp tổng hợp, phân tích
dùng để nghiên cứu các hình thức, vai trò, nội dung,
yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ
quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam. Phương pháp
so sánh được áp dụng khi tìm hiểu vấn đề này ở một số
nước trên thế giới và những giá trị Việt Nam có thể
tham khảo.
- Chương 3, tác giả đã sử dụng phương pháp nổi bật
là thống kê, báo cáo kết hợp với khảo sát thực tiễn
nhằm phân tích, lý giải các số liệu về thực trạng; tọa
đàm, hội thảo trao đổi với các chuyên gia về thực trạng
để đánh giá, tổng hợp và chọn lọc tri thức khoa học,
kinh nghiệm thực tiễn có liên quan tới thực hiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công
chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam, từ
đó, tác giả làm sáng tỏ nội dung của luận án.
- Chương 4, về cơ bản tác giả sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp để đưa ra các quan điểm, giải pháp
có căn cứ khoa học, góp phần bảo đảm thực hiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công
chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
8
Thông qua việc nghiên cứu toàn diện, có hệ thống đề
tài này, nội dung luận án có một số điểm mới, đó là:
- Xây dựng khái niệm, xác định các đặc điểm và pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công
chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. Đặc biệt, luận
án đã xây dựng khái niệm, phân tích rõ các hình thức và
nội dung thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước
gây ra.
- Xác định yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện
pháp luật về trách nhiệm bồi thường Nhà nước do công
chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra.
- Nghiên cứu thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà
nước gây ra ở một số nước trên thế giới, luận án xác
định những giá trị Việt Nam có thể tham khảo.
- Đánh giá kết quả, hạn chế trong việc thực hiện
pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do
công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam
và nguyên nhân của những kết quả, hạn chế đó.
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp bảo đảm thực
hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt
Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận
án góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra.
Vì vậy, luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham
9
khảo cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy về thực
hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành
chính Nhà nước gây ra nói riêng trong các trường đại
học, cao đẳng chuyên hoặc không chuyên ngành luật.
Về thực tiễn, những kết luận, đề xuất của luận án
được nghiên cứu trên cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và
thực tiễn. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền có thể
khai thác vận dụng để nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động, góp phần thực hiện pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính
Nhà nước gây ra ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
Χη νγ 1ươ
Τ ΝΓ ΘΥΑΝ ΧℑΧ ΧΝΓ ΤΡ⊂ΝΗ ΝΓΗΙ⊇Ν Χ ΥỔ Ứ
Χ ΛΙ⊇Ν ΘΥΑΝ Τ Ι Ớ ΤℵΙ ΛΥ Ν ℑΝĐỀ Ậ
1.1. Τ ΝΓ ΘΥΑΝ ΧℑΧ ΧΝΓ ΤΡ⊂ΝΗ ΝΓΗΙ⊇Ν Χ Υ Χ ΛΙ⊇ΝỔ Ứ
ΘΥΑΝ Τ Ι Ớ ΤℵΙ ΛΥ Ν ℑΝ ĐỀ Ậ ΤΡΟΝΓ Ν Χ ƯỚ ςℵ ΤΡ⊇Ν ΤΗ ΓΙ Ι Ế Ớ
1.1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan
tới thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây
ra ở Việt Nam
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra là một nội dung
của pháp luật nói chung, pháp luật bồi thường của Nhà
nước nói riêng. Do vậy, nghiên cứu về lĩnh vực này phải
10
đặt trong mối quan hệ với tổng thể các quy định của
pháp luật, đặc biệt là các quy định của pháp luật có
liên quan tới trách nhiệm bồi thường, công chức, công
vụ. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề
liên quan tới thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công
chức CQHCNN gây ra đã được công bố ở các mức độ và phạm
vi khác nhau, điển hình gồm hai nhóm chính sau:
Nhóm thứ nhất, các công trình tiêu biểu liên quan
tới trách nhiệm bồi thường:
- Dự án “Nghiên cứu, đánh giá vấn đề bồi thường
thiệt hại trong hoạt động tố tụng”, Bộ Tư pháp [14]. Dự
án đã nghiên cứu, khảo sát và đánh giá tổng quan thực
trạng thực hiện pháp luật về bồi thường theo nội dung
Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17 tháng 3 năm
2003 của UBTVQH, bồi thường theo nội dung Nghị định số
47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ và BTTH
ngoài hợp đồng theo quy định của BLDS. Qua khảo sát,
điều tra, phân tích số liệu bồi thường tại năm tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và phỏng vấn trực tiếp
các chủ thể liên quan của các CQHCNN, cơ quan tố tụng,
luật sư, người bị thiệt hại, Dự án đã phân tích làm
sáng tỏ những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế
và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật
về BTTH. Mặc dù số liệu điều tra cơ bản chỉ trong phạm
vi ở năm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với đối
tượng khảo sát chủ yếu là những người có liên quan
hoạt động tố tụng, nhưng Dự án đã khái quát được một
số thực trạng của pháp luật BTTH Việt Nam trong giai
đoạn từ năm 1997 đến năm 2007. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu của Dự án, một số kiến nghị đã được cơ quan
11
có thẩm quyền tiếp thu, thể hiện trong nội dung của
Luật TNBTCNN ban hành năm 2009. Với việc thực hiện nội
dung quy định của pháp luật TNBTCNN mới, những kết
luận, nhận định của Dự án đã lạc hậu, không còn phù
hợp và chỉ có các số liệu có giá trị tham khảo cho
việc nghiên cứu luận án.
- Sách chuyên khảo “Bồi thường thiệt hại do người
có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra”,
tác giả Lê Mai Anh [1]. Công trình nghiên cứu này đã
phân tích đặc điểm, bản chất của trách nhiệm nhà nước
trong việc BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra. Một số khái niệm, trình tự, thủ
tục, cách thức giải quyết, thực trạng pháp luật, thực
tiễn giải quyết BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra đã được nêu ra. Đồng thời, tác
giả cũng đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật và
các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc khắc phục thiệt hại cho
công dân. Tuy nhiên, cuốn sách mới phân tích BTTH với
chủ thể gây ra là người có thẩm quyền của cơ quan tiến
hành tố tụng và trong bối cảnh Việt Nam chưa ban hành
Luật TNBTCNN. Công trình này chủ yếu tiếp cận vấn đề
BTTH dưới góc độ pháp luật dân sự, chưa đề cập tới
TNBTCNN với chủ thể gây ra thiệt hại là công chức
CQHCNN. Do vậy, cuốn sách chưa giải quyết vấn đề thực
hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra,
nhưng một số số liệu của công trình nghiên cứu này có
giá trị tham khảo trong quá trình tác giả viết luận án.
- Sách chuyên khảo “Những vấn đề cơ bản của Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009”, tác giả
12
Tiến sĩ Đinh Trung Tụng chủ biên [152]. Cuốn sách đã đề
cập các quy định pháp luật về TNBTCNN nói chung và giới
thiệu Luật TNBTCNN nói riêng, trong đó tập trung nêu ra
sự cần thiết, mục tiêu ban hành và quan điểm chỉ đạo
xây dựng Luật TNBTCNN dựa trên số liệu phân tích khái
quát tình hình thực hiện TNBT của các cơ quan Nhà nước
theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH. Đồng thời, công
trình này đã giới thiệu khái quát pháp luật một số nước
trên thế giới về TNBTCNN như phạm vi, cách thức xác
định, thủ tục, cơ quan giải quyết, trách nhiệm hoàn
trả Tuy nhiên, cuốn sách mới giới thiệu dưới góc độ
các quy định của pháp luật TNBTCNN Việt Nam và một số
nước trên thế giới, chưa đề cập tới việc thực hiện pháp
luật về lĩnh vực này trong thực tế. Do vậy, cuốn sách
có giá trị cung cấp một số thông tin về pháp luật
TNBTCNN tác giả có thể tham khảo trong quá trình viết
luận án.
- Sách chuyên khảo “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng”, tác giả Tiến
sĩ Phùng Trung Tập [117]. Cuốn sách đã phân tích có hệ
thống về các căn cứ phát sinh TNBT, BTTH trong những
trường hợp cụ thể, phân loại TNBT và chủ thể bồi
thường, những trường hợp không phải bồi thường, thời
hạn hưởng BTTH do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm. Công
trình nghiên cứu này đã phân tích BTTH về tài sản, sức
khỏe, tính mạng của cá nhân, tổ chức dưới góc độ pháp
luật dân sự, chưa đề cập sâu ở khía cạnh TNBTCNN do
công chức CQHCNN gây ra thiệt hại về tài sản, sức khỏe,
tính mạng đối với cá nhân, tổ chức trong thi hành công
vụ. Do vậy, một số nội dung của công trình nghiên cứu
này cũng có giá trị tham khảo đối với luận án.
13
- Sách chuyên khảo “Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam”,
tác giả Tiến sĩ Trần Thị Huệ chủ biên [70]. Nội dung
cuốn sách đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản,
thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam và định
hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về BTTH do tài
sản gây ra. Cuốn sách cũng trình bày một số nội dung về
chế định BTTH ngoài hợp đồng trong BLDS, với ý nghĩa
nhằm bảo vệ tài sản của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, giáo dục mọi người nâng cao
ý thức pháp luật, đồng thời sử dụng các biện pháp pháp
luật một cách đầy đủ và chặt chẽ để tăng cường hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực này. Cuốn sách
đã đề xuất các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của
cá nhân, tổ chức trong cộng đồng dân cư về trách nhiệm
BTTH do tài sản gây ra trong bối cảnh nước ta đang
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Đây
là công trình nghiên cứu về một loại TNDS được áp dụng
cho chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản -
những người có nghĩa vụ trong việc quản lý tài sản,
khác với nội dung của TNBTCNN do công chức CQHCNN gây
ra. Do vậy, cuốn sách có nhiều thông tin giá trị, có
thể dùng làm tài liệu nghiên cứu đối với luận án.
- Sách chuyên khảo “Tìm hiểu pháp luật về Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước”, tác giả Thạc sĩ Nguyễn
Thanh Tịnh chủ biên [128]. Cuốn sách đã cung cấp một số
thông tin, kiến thức pháp luật về TNBTCNN dưới góc độ
phổ biến để cho cán bộ, công chức nói chung, cán bộ,
công chức làm công tác bồi thường nói riêng nắm bắt,
hiểu biết để thực hiện công việc trong thực tế. Ngoài
ra, công trình nghiên cứu này đã tập trung lý giải tại
14
sao phải xác lập chế độ TNBTNN: 1) Thiết lập cơ chế
thuận lợi, khả thi để người bị thiệt hại do cán bộ, công
chức gây ra thực hiện quyền yêu cầu bồi thường; 2) Là cơ
chế pháp lý hiệu quả ngăn ngừa lạm dụng quyền lực nhà
nước, nâng cao trách nhiệm công vụ; 3) Chế định TNBTCNN
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Với mục đích trên, các
tác giả đã nêu khái niệm thiệt hại và BTTH, khái niệm và
đặc điểm của TNBT thiệt hại của nhà nước nói chung và đã
phân tích một cách khái quát những quy định pháp luật
thực định về TNBTCNN để giúp người đọc hiểu, dễ vận dụng
vào thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, cuốn sách chưa nêu ra
khái niệm TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra, pháp luật
về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra, thực hiện pháp
luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra… Mặc dù chưa
đề cập sâu những vấn đề này, nhưng cuốn sách cũng có
nhiều nội dung có giá trị tham khảo đối với luận án.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Các biện pháp
bảo đảm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước”, chủ nhiệm đề tài Thạc sĩ Nguyễn Thanh Tịnh [27].
Công trình này đã phân tích một số nội dung về mặt lý
luận và thực tiễn các biện pháp bảo đảm như xây dựng,
hoàn thiện pháp luật, công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật, về tổ chức bộ máy, con người, kinh phí để
các quy định của Luật TNBTCNN phát sinh được hiệu quả
trong đời sống thực tiễn. Đề tài cũng cung cấp khá
nhiều thông tin mới mang tính cập nhật, nêu ra và làm
rõ một số khái niệm liên quan các biện pháp bảo đảm thi
hành Luật TNBTCNN. Tuy nhiên, nội dung mang tính chuyên
sâu liên quan tới thực hiện pháp luật về TNBTCNN do
công chức CQHCNN gây ra trong công trình nghiên cứu nêu
trên chưa đề cập hoặc đã đề cập nhưng chưa được phân
15
tích thỏa đáng. Do vậy, một số nhận định của Đề tài này
được tác giả thừa nhận hoặc có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo có giá trị cho luận án.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường “Trách
nhiệm dân sự của cơ quan tổ chức về thiệt hại do hành
vi của cán bộ, công chức gây ra - vấn đề lý luận và
thực tiễn”, chủ nhiệm đề tài Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn
[151]. Đề tài phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về TNDS theo quy định của BLDS, đưa ra kiến nghị
với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc hướng
dẫn áp dụng và hoàn thiện Điều 619, 620 BLDS, qua đó
tác giả đã phân biệt TNDS theo quy định của BLDS và
TNBTCNN. Đề tài đã khẳng định Nhà nước và các tổ chức
thành viên của mình thực hiện nhiệm vụ theo quy định
của pháp luật phải thông qua hành vi của cán bộ, công
chức. Khi thực thi công vụ, cơ quan nhà nước có thể có
nhiều tư cách - tư cách pháp nhân, tư cách cơ quan nhà
nước hoặc với tư cách của cơ quan tiến hành tố tụng. Đề
tài cũng đề cập thực trạng khó khăn trong thi hành án
liên quan tới tài sản của các vụ, việc BTTH, trên cơ
sở đó đã đề xuất cơ chế thi hành án đặc thù với loại
vụ việc này. Ngoài ra, các tác giả đã đề xuất, kiến
nghị nhiều nội dung quan trọng trong việc xây dựng
Luật TNBTCNN. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của Đề tài
chủ yếu dưới góc độ TNDS, mặc dù đã đánh giá được một
phần của thực trạng việc thực hiện BTTH và đề xuất một
số kiến nghị có giá trị trong việc xây dựng Luật
TNBTCNN, nhưng những nội dung đó được đề cập trước khi
Việt Nam ban hành Luật TNBTCNN, do vậy, Đề tài chỉ
cung cấp một số thông tin, tài liệu có thể tham khảo
cho luận án.
16
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
nhà nước”, tác giả Lê Thái Phương [87]. Luận văn đã
khái quát một số nội dung về TNBT thiệt hại của nhà
nước, thực trạng pháp luật Việt Nam về BTTH, trong đó
tác giả đã so sánh một số chế định cụ thể của pháp luật
BTTH Việt Nam với chế định tương ứng của một số nước
trên thế giới.
Luận văn thạc sĩ Luật học “Một số vấn đề trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước trong hoạt động
quản lý hành chính”, tác giả Nguyễn Khả Phúc [86]. Luận
văn này chủ yếu nêu, phân tích khái niệm về trách nhiệm
BTTH, trách nhiệm BTTH của nhà nước, cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, căn cứ phát sinh và các đặc điểm của trách nhiệm
BTTH của nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính.
Tác giả cũng đã nêu khái quát quy định pháp luật về
trách nhiệm BTTH của nhà nước trong hoạt động quản lý
hành chính, trên cơ sở đó đã đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN.
Mặc dù hai luận văn thạc sĩ Luật học nêu trên ít
nhiều đã đề cập tới vấn đề lý luận cũng như thực tiễn
về một hoặc một số khía cạnh trong pháp luật về
TNBTCNN, nhưng các số liệu phân tích trong các công
trình nghiên cứu này từ trước năm 2010 nên tương đối
lạc hậu và các tác giả chưa đề cập một cách toàn diện
tới việc thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra ở trình độ Tiến sĩ.
- Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đã có hai
chuyên đề xuất bản dưới dạng thông tin khoa học pháp
lý là “Trách nhiệm vật chất của Nhà nước đối với thiệt
17
hại gây ra cho doanh nghiệp - thực tiễn và kinh nghiệm
ở Liên bang Nga” [163] và “Trách nhiệm bồi thường nhà
nước - thực tiễn thi hành và giải pháp” [164]. Các số
chuyên đề trên đã so sánh căn cứ phát sinh, cách thức
áp dụng pháp luật và kinh nghiệm thi hành pháp luật
của Liên bang Nga về trách nhiệm vật chất của nhà nước
đối với doanh nghiệp; đã khái quát tổng quan pháp
luật, thực tiễn thi hành TNBTCNN của Liên bang Nga,
trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị những vấn đề lý luận
và thực tiễn có giá trị tham khảo trong việc nghiên
cứu, xây dựng Luật TNBTCNN.
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp có hai số
chuyên đề “Pháp luật bồi thường nhà nước”, Hà Nội -
2008 và “Pháp luật về Trách nhiệm bồi thường của nhà
nước”, Hà Nội - 2011. Hai số chuyên đề này do nhiều tác
giả viết, trong đó có các bài viết về những vấn đề cụ
thể nghiên cứu, phân tích, so sánh và cung cấp các số
liệu, thông tin về các chế định pháp luật TNBT, kiến
nghị các nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về
TNBTCNN của Việt Nam. Các tác giả kiến nghị một số giải
pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN và
đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả áp dụng pháp luật về TNBTCNN vào thực tiễn cuộc
sống.
Nội dung các số chuyên đề của Viện Khoa học pháp
lý, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật nêu trên mặc dù chưa
giải quyết các vấn đề chuyên sâu đối với thực hiện pháp
luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra ở Việt Nam,
nhưng cũng tổng kết một số số liệu chính xác, có giá
18