HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN KIấN
THựC HIệN PHáP LUậT Về TRáCH NHIệM
BồI THƯờNG CủA NHà NƯớC DO CÔNG CHứC CƠ QUAN
HàNH CHíNH NHà NƯớC GÂY RA ở VIệT NAM
Chuyờn nganh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Ma sụ : 62 38 01 01
TểM TT LUN N TIN S LUT HC
H NI - 2014
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS Đinh Trung Tụng
1. TS Hoàng Ngọc Thỉnh
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi đất nước ta giành được độc lập đến nay, Nhà nước luôn coi việc xây
dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy và hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân hiện nay, việc bảo
đảm lợi ích của Nhà nước và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức cần
được tôn trọng và thực hiện công bằng giữa các chủ thể trong xã hội. Mối quan hệ
giữa Nhà nước với cá nhân và tổ chức trong xã hội là mối quan hệ đặc biệt, trong
đó, vấn đề công bằng giữa một bên chủ thể là Nhà nước và một bên chủ thể là cá
nhân, tổ chức được xác định thông qua các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với
nhau và được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc được ghi nhận tại Hiến pháp năm
2013: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” và “Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp
luật”. Với nguyên tắc hiến định trên, Nhà nước Việt Nam đã không ngừng nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là trách nhiệm bắt buộc khi cơ quan
Nhà nước xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đây không chỉ là
vấn đề dân sự mà còn là vấn đề chính trị - pháp lý - xã hội, phản ánh trình độ phát
triển và dân chủ của chế độ nhà nước, phản ánh một Nhà nước do dân làm chủ. Nhà
nước với tư cách là một chủ thể công quyền trong chế độ chính trị - xã hội, được
hình thành từ nhân dân và được nhân dân uỷ thác cho trách nhiệm điều hành, quản
lý xã hội, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích tập
thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong quốc gia mình. Với tinh thần
đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một trong những yếu tố góp phần nâng
cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ, mở rộng dân chủ
xã hội, tạo lập sự công bằng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
Những năm qua, mặc dù trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được ghi
nhận từ rất sớm trong Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Những
nguyên tắc hiến định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định trong
các bản Hiến pháp nêu trên được thể chế hóa thành các quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 1988 (sửa đổi, bổ sung năm 2003), Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004, Bộ luật Dân sự năm 1995 (sửa đổi, bổ sung năm 2005), Nghị định số 47/CP
ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do
công chức, viên chức, người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng gây
1
ra, Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội về việc bồi thường cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra… Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước chưa được đánh giá đúng mức, quan niệm về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước tương đối mờ nhạt và đến ngày 18 tháng 6 năm 2009, tại kỳ họp thứ
5 Quốc hội khoá XII mới thông qua một đạo luật riêng biệt - Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước.
Do hoạt động quản lý hành chính, đặc biệt là hoạt động của các cơ quan hành
chính Nhà nước từ trung ương đến địa phương là hoạt động mang tính quyền lực tác
động tới các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực trong đời sống xã hội, liên quan đến
quyền và lợi ích hợp pháp chân chính của cá nhân, tổ chức. Một mặt nó thừa nhận,
bảo vệ, bảo đảm sự phát triển kinh tế xã hội vì dân giàu, nước mạnh, mặt khác do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan từ phía Nhà nước xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước liên
quan đến nhiều người, nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ đan xen, có sự tham gia
của nhiều chủ thể trong xã hội, chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm của cả
luật nội dung lẫn hình thức và phải tuân theo những trình tự, thủ tục khác nhau.
Việc giải quyết bồi thường thiệt hại giữa cơ quan hành chính Nhà nước và người bị
gây thiệt hại được đặt trong mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và công dân khi
thực thi quyền hành pháp. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường trong lĩnh vực quản lý
hành chính, hay nói cách khác trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức
cơ quan hành chính Nhà nước gây ra cần được xác định trong các đạo luật. Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định phạm vi trách nhiệm bồi thường
trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, lĩnh vực thi hành án, hoạt động tố
tụng Đây là bước phát triển đáng kể trong hoạt động lập pháp, đáp ứng đòi hỏi
khách quan trong một xã hội dân chủ, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam. Luật này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, vì vậy, vấn đề thực hiện Luật này nói chung và
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan
hành chính Nhà nước gây ra nói riêng là vấn đề có tính cấp thiết. Bồi thường nhà
nước là vấn đề hết sức phức tạp, nó thể hiện quan hệ đặc biệt giữa một bên chủ thể
là Nhà nước - với tư cách là chủ thể thực thi và duy trì quyền lực công theo pháp
luật - với một bên là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do chính hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ gây ra. Bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật trong mối
quan hệ này là không hề đơn giản. Trong bối cảnh đó, việc thực hiện trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra đòi
hỏi phải có nhận thức đúng đắn, thực hiện nghiêm minh theo trình tự luật định.
2
Những vấn đề nêu trên đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu một cách toàn diện,
sâu rộng, có hệ thống đối với thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam. Đồng
thời, cần nghiên cứu thủ tục tố tụng trong việc xác định trách nhiệm của Nhà nước
và yêu cầu chính đáng của công dân theo những mô hình và pháp luật tố tụng phù
hợp. Do đó, cần tổng kết từ thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước nhằm tìm kiếm các giải pháp bảo đảm cho việc thực hiện và các vấn
đề cần hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Trên cơ sở nhận thức và với mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề cấp thiết
về lý luận và thực tiễn việc thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, đánh
giá những điểm tích cực và hạn chế nhằm đưa ra quan điểm và giải pháp về lĩnh
vực này, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề: “Thực hiện pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra
ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật thực định, phân tích, đánh giá các quan điểm
trong khoa học pháp lý hiện nay, luận án nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những
vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. Luận án tìm ra những
nguyên nhân, đề xuất các quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học nhằm bảo đảm
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan
hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu, luận án giải quyết
những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích khái niệm, hình thức, vai trò thực hiện pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra.
- Phân tích nội dung, yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước
gây ra, trong đó tập trung phân tích sâu, làm rõ các nội dung thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước
gây ra và các bảo đảm đặc trưng đối với hoạt động này. 5
- Nghiên cứu thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do
công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở một số nước trên thế giới, từ đó
rút ra những giá trị Việt Nam có thể tham khảo.
3
- Phân tích khái quát tình hình và hệ thống tổ chức thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam.
- Đánh giá đúng những kết quả đạt được và hạn chế đối với thực trạng thực
hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành
chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam, phân tích rõ các nguyên nhân khách quan, chủ
quan của những kết quả đạt được và hạn chế đó.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, xác định những quan điểm và đề xuất những
giải pháp cụ thể, phù hợp, có tính khả thi nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước
gây ra ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn đối với thực hiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính
Nhà nước gây ra ở Việt Nam dưới góc độ khoa học lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức
cơ quan hành chính nhà nước gây ra ở Việt Nam là đề tài rộng, chứa đựng nhiều
vấn đề phức tạp về lý luận và thực tiễn. Luận án nghiên cứu thực hiện pháp luật
về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong phạm vi các cơ quan hành chính
Nhà nước, công chức của cơ quan này và các cá nhân, tổ chức có liên quan ở
Việt Nam.
Về mặt thời gian, luận án nghiên cứu thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra từ năm
1945 tới nay. Tình hình và số liệu thống kê liên quan tới vấn đề này được trích dẫn,
viện dẫn từ các báo cáo chính thức từ năm 1997 tới năm 2013 của Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân
dân các cấp.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với thực
hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan
hành chính Nhà nước gây ra trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
4
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận án còn căn cứ vào các văn bản
pháp luật Việt Nam quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công
chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra và tài liệu của một số nước trên thế giới
về lĩnh vực này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tác giả lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội
dung luận án.
- Chương 1, tác giả coi trọng phương pháp tổng hợp, phân tích và hệ thống
hóa để đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan tới thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước
gây ra.
- Chương 2, tác giả sử dụng nhiều phương pháp để làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận của luận án. Cụ thể là, tác giả chủ yếu dùng phương pháp quy nạp để xây
dựng các khái niệm. Phương pháp tổng hợp, phân tích dùng để nghiên cứu các hình
thức, vai trò, nội dung, yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra
ở Việt Nam. Phương pháp so sánh được áp dụng khi tìm hiểu vấn đề này ở một số
nước trên thế giới và những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam.
- Chương 3, tác giả đã sử dụng phương pháp nổi bật là thống kê, báo cáo kết
hợp với khảo sát thực tiễn nhằm phân tích, lý giải các số liệu về thực trạng; tọa đàm,
hội thảo trao đổi với các chuyên gia về thực trạng để đánh giá, tổng hợp và chọn lọc
tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn có liên quan tới thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước
gây ra ở Việt Nam, từ đó, tác giả làm sáng tỏ nội dung của luận án.
- Chương 4, về cơ bản tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để
đưa ra các quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học, góp phần bảo đảm thực hiện
pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành
chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
Thông qua việc nghiên cứu toàn diện, có hệ thống đề tài này, nội dung luận án
có một số điểm mới, đó là:
- Xây dựng khái niệm, xác định các đặc điểm và pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. Đặc biệt,
luận án đã xây dựng khái niệm, phân tích rõ các hình thức và nội dung thực hiện pháp
5
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà
nước gây ra.
- Xác định yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về trách nhiệm
bồi thường Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra.
- Nghiên cứu thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do
công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở một số nước trên thế giới, luận án
xác định những giá trị Việt Nam có thể tham khảo.
- Đánh giá kết quả, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam
và nguyên nhân của những kết quả, hạn chế đó.
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra
ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn thiện
cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. Vì vậy, luận án có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy về
thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra nói riêng trong các
trường đại học, cao đẳng chuyên hoặc không chuyên ngành luật.
Về thực tiễn, những kết luận, đề xuất của luận án được nghiên cứu trên cơ sở
lý luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền có thể khai
thác vận dụng để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, góp phần thực hiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà
nước gây ra ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN TỚI
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN TRONG NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra là một nội dung của pháp luật nói
chung, pháp luật bồi thường của Nhà nước nói riêng. Do vậy, nghiên cứu về lĩnh vực
này phải đặt trong mối quan hệ với tổng thể các quy định của pháp luật, đặc biệt là
các quy định của pháp luật có liên quan tới trách nhiệm bồi thường, công chức, công
vụ. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề liên quan tới thực hiện pháp
luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra đã được công bố ở trong nước và
trên thế giới với các mức độ và phạm vi khác nhau, điển hình gồm hai nhóm chính
sau: 1) Các công trình tiêu biểu liên quan tới TNBT; 2) Các công trình tiêu biểu liên
quan tới công chức, công vụ và thực hiện pháp luật…
- Tại Việt Nam, vấn đề này được nghiên cứu ở nhiều cấp độ như đề tài, đề án
khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các sách chuyên
khảo, giáo trình, bài viết hay các tham luận, báo cáo trong hội thảo khoa học:
+ Các công trình trên đã bàn về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra ở
nhiều góc độ, phạm vi nghiên cứu có tính chất liên ngành và liên quan tới nhiều lĩnh
vực pháp luật như Hiến pháp, lý luận chung về nhà nước và pháp luật, luật dân sự,
luật hành chính, pháp luật về cán bộ, công chức
+ Phân tích lý luận và thực trạng TNBT ở Việt Nam, tìm ra nguyên nhân hạn
chế, so sánh với quốc tế và đưa ra quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả, hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này là hướng nghiên cứu truyền thống của hầu hết các
công trình trên.
+ Các công trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề thực hiện pháp luật về
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra gắn với pháp luật thực định của Việt
Nam là hướng nghiên cứu chủ yếu. Các khái niệm công cụ liên quan tới TNBTCNN
như cán bộ, công chức, hoạt động công vụ, cơ quan nhà nước, CQHCNN, trách
nhiệm vật chất được đề cập cụ thể.
+ Phạm vi nghiên cứu tại Việt Nam, thời gian chủ yếu từ năm 1945 đến nay,
đặc biệt các số liệu, viện dẫn chủ yếu được thực hiện trong giai đoạn từ năm 1997
đến năm 2013 gắn liền với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, lịch sử và pháp luật cụ
thể ở Việt Nam. Do vậy, các công trình này không chỉ giải quyết những vấn đề lý
luận mà còn có giá trị thực tiễn, cung cấp những luận cứ khoa học nhằm giải quyết
các vấn đề thiết thực liên quan tới thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra.
7
- Trên bình diện quốc tế, các công trình liên quan tới thực hiện pháp luật về
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có vị trí quan trọng trong nhiều ấn phẩm
của các quốc gia và nhiều nhà khoa học. Những công trình phổ biến là các sách
chuyên khảo chủ yếu được xuất bản tại Trung Quốc được nghiên cứu, tổng hợp tình
hình từ nhiều nước trên thế giới, các giáo trình giảng dạy trong các trường đại học
luật danh tiếng, các bài viết của nhiều nhà khoa học:
+ Phạm vi nghiên cứu tập trung vào các nhóm vấn đề cơ bản là nền hành chính
công, chế độ công chức, công vụ, TNDS, trách nhiệm ngoài hợp đồng, trách nhiệm
của công chức trong thi hành công vụ và trách nhiệm cụ thể của nhà nước đối với các
chủ thể khác trong xã hội Với phạm vi nghiên cứu này, một số khái niệm như
TNBTCNN, pháp luật về TNBTCNN không được các công trình trên đi sâu phân
tích, so sánh.
+ Các công trình khảo sát phân tích, so sánh các điều kiện về lịch sử, văn
hóa, chính trị, xã hội, truyền thống lập pháp, trên cơ sở đó, khẳng định việc thực
hiện TNBTCNN là khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển trong một xã hội
dân chủ.
+ Nghiên cứu thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây
ra, các công trình trên chỉ đề cập tới những vấn đề chung mang tính nguyên tắc về
trách nhiệm của cơ quan công quyền hoặc nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phương
diện khác nhau do nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện, nhưng đều bị chi phối bởi các
quan điểm, trường phái về TNBTCNN của tác giả.
+ Các công trình trên được nghiên cứu ở nước ngoài, điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội, pháp luật của các nước đó khác Việt Nam. Cho nên, cách đánh giá, giải
quyết vấn đề thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra cũng
khác với Việt Nam.
Tóm lại, trên cả bình diện Việt Nam và quốc tế, chưa có công trình khoa học
nào đi sâu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống vấn đề thực hiện pháp luật về
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra ở Việt Nam. Do vậy, nhiều vấn đề lý
luận cơ bản liên quan tới thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN
gây ra chưa được xây dựng, nhất là lý luận đối với pháp luật về TNBTCNN do công
chức CQHCNN gây ra, các kinh nghiệm quốc tế về lĩnh vực này chưa được nghiên
cứu, áp dụng nhiều ở Việt Nam. Thực trạng thực hiện pháp luật về TNBTCNN do
công chức CQHCNN gây ra chưa được tổng kết theo quan điểm khách quan, toàn
diện, lịch sử cụ thể, chưa tìm ra nguyên nhân của hạn chế và đề ra các giải pháp khắc
phục có luận cứ khoa học và thực tiễn. Đặc biệt, ở cấp độ nghiên cứu của luận án tiến
sĩ luật học, chưa có một công trình nào nghiên cứu thực hiện pháp luật về
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra ở Việt Nam. Vì vậy, vấn đề này cần
được tiếp tục nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay.
8
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN
Thứ nhất, về mặt lý luận, luận án tiếp tục nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
- Trên cơ sở khái niệm, đặc điểm TNBTCNN nói chung trong pháp luật Việt
Nam và pháp luật quốc tế, làm rõ được những đặc trưng về bản chất, đối tượng và
hình thức pháp lý đối với TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra ở Việt Nam.
Với nền tảng lý luận về nhà nước và pháp luật, lý luận về TNBTCNN, tác giả xây
dựng khái niệm pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra. Luận án
cũng nghiên cứu làm rõ các đặc điểm về đối tượng, tính chất, nội dung, hình thức
pháp luật của dạng TNPL này.
- Trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học nghiên cứu về thực hiện pháp
luật, đặc biệt là các công trình ở Việt Nam, đồng thời căn cứ vào những vấn đề thực
tiễn, luận án làm rõ về mục đích, chủ thể, lĩnh vực, tính chất thực hiện pháp luật về
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra. Nhằm đạt được tính toàn diện của vấn
đề nghiên cứu, luận án cũng phân tích rõ hình thức, vai trò và nội dung thực hiện
pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra, làm rõ các yêu cầu và các
yếu tố bảo đảm thực hiện hoạt động này. Luận án luận giải khoa học mối quan hệ
giữa các yêu cầu và phân tích sâu, có trọng tâm các bảo đảm đặc trưng đối với thực
hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra. Ngoài ra, để bảo đảm
tính thống nhất, logic của vấn đề nghiên cứu, luận án làm rõ hơn về nhận thức mối
quan hệ giữa các nội dung TNBTCNN với thực hiện pháp luật trong đội ngũ công
chức CQHCNN như phần lý luận đã trình bày.
- Trong quá trình tìm hiểu thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra của một số nước trên thế giới, luận án tiếp tục khảo sát kinh
nghiệm trong thực hiện pháp luật về vấn đề này của một số nước tiêu biểu trên thế
giới. Khác với các công trình trước đó, luận án nêu rõ những nội dung liên quan tới
xây dựng, hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra Việt
Nam có thể tham khảo.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, luận án tập trung làm rõ những nội dung sau đây:
- Phân tích khái quát tình hình yêu cầu và giải quyết yêu cầu bồi thường nhà
nước, khái quát thực trạng hệ thống tổ chức thực hiện pháp luật về TNBTCNN ở Việt
Nam hiện nay.
- Luận án đánh giá toàn diện, khách quan thực trạng và trong quá trình đánh
giá, tác giả đã làm rõ các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng
pháp luật, áp dụng pháp luật đối với thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra ở Việt Nam. Vấn đề này trên bình diện quốc tế và ở Việt Nam,
nhiều công trình khoa học chưa khảo sát cụ thể. Luận án cũng nghiên cứu, rút ra
những nguyên nhân khách quan, chủ quan trong các kết quả đạt được và hạn chế đối
với thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra. Vấn đề này
được nghiên cứu sâu sắc vì các công trình khoa học khác chưa tìm hiểu cụ thể.
9
- Các công trình khoa học đã khảo sát mới chỉ đưa ra một số giải pháp liên
quan tới khía cạnh cụ thể đối với thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra. Khác với các công trình đó, luận án đưa ra một hệ thống các giải
pháp có tính tổng thể nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về vấn đề này. Ngoài ra,
luận án còn đưa ra những luận cứ khoa học cho việc thực hiện đồng bộ những giải
pháp này. Đây là vấn đề hết sức cơ bản được nghiên cứu và cũng phù hợp với phạm
vi nghiên cứu của luận án.
Tóm lại, trên cơ sở đánh giá phạm vi, kết quả đạt được và nội dung các công
trình đã khảo sát có thể khẳng định, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn
diện, có hệ thống đối với thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN
gây ra ở Việt Nam. Những vấn đề lý luận, thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu trong
luận án rất đa dạng, cần có sơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu đúng đắn nhằm
làm rõ nội dung của những vấn đề trên.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA
2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra
2.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ
quan hành chính nhà nước gây ra
CQHCNN là một bộ phận của bộ máy nhà nước, do Nhà nước lập ra để thực
hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Các CQHCNN ở nước ta bao gồm
Chính phủ và UBND các cấp. Các cơ quan này, dựa trên thẩm quyền được luật định
có chức năng quản lý thống nhất, toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
hành chính, an ninh quốc phòng, đối ngoại của nhà nước. CQHCNN có vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Tổ chức
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của CQHCNN chính là đội ngũ công chức. Hiệu quả
hoạt động của CQHCNN phụ thuộc vào năng lực, trình độ, phẩm chất của đội ngũ
công chức này.
Công chức là khái niệm mang tính chính trị - pháp lý, mỗi quốc gia, hay ở mỗi
thời kỳ phát triển của một quốc gia nhất định cũng có quan niệm khác nhau về công
chức. Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã đưa ra
khái niệm công chức. Luận án chỉ đề cập đến công chức CQHCNN, nghĩa là công
10
chức trong cơ quan của Chính phủ và UBND các cấp, không bao gồm công chức
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội hay các cơ
quan Nhà nước khác không phải CQHCNN. Luận án cũng chỉ đề cập TNBTCNN do
công chức CQHCNN gây ra theo nghĩa hẹp thuộc loại TNPL mà chủ thể là
CQHCNN phải bồi thường bằng vật chất hay tinh thần cho cá nhân, tổ chức do hành vi
trái pháp luật gây ra trong thi hành công vụ. Đây là loại TNBT đặc biệt, phát sinh trên
cơ sở hành vi trái pháp luật trong thi hành công vụ với hậu quả là có thiệt hại (vật chất
hay tinh thần) mà nguyên nhân do vi phạm pháp luật gây ra. Trên cơ sở nghiên cứu
trên bình diện quốc tế và quốc gia, có thể đưa ra khái niệm TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra: “Trách nhiệm bồi thường của nhà nước do công chức cơ quan
hành chính nhà nước gây ra là hậu quả pháp lý bất lợi về vật chất, tinh thần mà Nhà
nước phải gánh chịu do công chức cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trái pháp
luật trong thi hành công vụ, gây thiệt hại vật chất, tinh thần cho tổ chức, cá nhân”.
2.1.1.2. Khái niệm pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do
công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra
Pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có một số đặc điểm
sau:
- Đối tượng điều chỉnh pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây
ra là những quan hệ xã hội phát sinh để tổ chức thực hiện TNBTCNN trong quá trình
quản lý, điều hành của CQHCNN nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại.
- Pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có tính chất liên ngành.
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra đòi hỏi phải được nhiều ngành
khoa học nghiên cứu. Tính liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra cho thấy sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh
hưởng tiêu cực tới quyền khác và ngược lại.
- Pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có thể hiểu theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra liên
quan đến quy định của toàn bộ hệ thống pháp luật, phụ thuộc vào chất lượng của hệ
thống pháp luật, gồm pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Theo nghĩa hẹp, pháp
luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra bao gồm những quy định trực
tiếp, cụ thể về cá nhân, tổ chức và Nhà nước trong chế độ bồi thường của nhà nước.
- Hình thức pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra tương đối
đa dạng.
Trên bình diện quốc tế, hình thức pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra gồm ba loại là tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp
luật. Tại Việt Nam, pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có hình
11
thức chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật. Tập quán pháp, tiền lệ pháp về
nguyên tắc không được áp dụng ở nước ta, nhưng những giá trị của hình thức tập
quán pháp, tiền lệ pháp đang được Việt Nam nghiên cứu, tham khảo.
Căn cứ những đặc điểm trên, có thể đưa ra khái niệm: “Pháp luật về trách
nhiệm bồi thường của nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây
ra là tổng thể các quy phạm pháp luật, điều chỉnh những quan hệ xã hội nhằm tổ
chức thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong quá trình cơ quan
hành chính nhà nước bồi thường thiệt hại vật chất hay tinh thần cho cá nhân, tổ
chức do hành vi trái pháp luật của công chức cơ quan này gây ra”.
2.1.1.3. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra
Pháp luật và thực hiện pháp luật là hai mặt của một chỉnh thể thống nhất, có
mối quan hệ gắn bó không thể tách rời. Pháp luật chỉ có ý nghĩa đích thực khi được
thực hiện, các quy định của pháp luật trở thành những hành vi hoạt động thực tế của
các chủ thể pháp luật. Các tài liệu nghiên cứu đã đưa ra hoặc thừa nhận khái niệm
chung, đã phân tích các đặc điểm, đặc trưng về thực hiện pháp luật, theo đó: “Thực
hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định pháp
luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật”.
Các đặc điểm cơ bản của thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra như sau:
Thứ nhất, mục đích thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra là làm cho các quy định pháp luật về TNBTCNN đi vào cuộc
sống, trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được tôn trọng, thực hiện trên thực tế.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây
ra thể hiện rõ nét ý chí nhà nước, tính khoa học cao, tính nhân văn sâu sắc.
Thứ ba, chủ thể thực hiện pháp luật về TNBTCNN là Nhà nước (công
chức CQHCNN) và cá nhân, tổ chức.
Thứ tư, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra
là một lĩnh vực đặc thù, chủ yếu được tiến hành giữa các CQHCNN với cá nhân,
tổ chức bị thiệt hại.
Trên cơ sở phân tích các đặc điểm trên, có thể nêu ra khái niệm: “Thực
hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường do công chức cơ quan hành chính nhà
nước gây ra là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp
luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà
12
nước gây ra được thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn, tạo cơ sở thực tế cho hoạt
động của các chủ thể theo quy định của pháp luật”.
2.1.2. Hình thức thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra
- Tuân thủ pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra: Là một
hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến
hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Những quy phạm pháp luật cấm trong Luật
TNBTCNN, Luật Cán bộ, công chức, Luật Khiếu nại, Luật Tố tụng hành chính,
BLDS, Luật Tố tụng dân sự được thực hiện dưới hình thức này. Đây là hình thức
thực hiện pháp luật có tính bị động, không liên quan nhiều đến các quy định chủ động
được làm những gì ngoài quy định của pháp luật.
- Thi hành (chấp hành) pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây
ra: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện
nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Đối với công chức CQHCNN
thì thi hành pháp luật thể hiện thông qua việc thi hành công vụ. Việc thực hiện chính
xác, đầy đủ pháp luật là mối quan tâm không chỉ từ phía Nhà nước mà từ cả mỗi
người dân trong xã hội. Họ tự giác thực hiện pháp luật và đòi hỏi pháp luật phải được
các tổ chức, các cá nhân khác tôn trọng, thực hiện chính xác và đầy đủ.
- Sử dụng pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra: Là một
hình thức thực hiện pháp luật, trong đó, các chủ thể pháp luật sử dụng quyền của
mình để thực hiện những hành vi pháp luật cho phép nhằm bảo đảm TNBTCNN do
công chức CQHCNN gây ra. Khác với hình thức thi hành pháp luật, ở hình thức này,
chủ thể là người bị thiệt hại có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp
luật cho phép theo ý chí của mình, có quyền lựa chọn phương thức thực hiện quyền
đó chứ không bị bắt buộc thực hiện.
- Áp dụng pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra: Là một hình
thức thực hiện pháp luật, trong đó, Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền tổ
chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào
các quy định của pháp luật để ban hành quyết định làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
các quan hệ pháp luật cụ thể. Khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng
pháp luật luôn có sự tham gia của Nhà nước với các mức độ khác nhau. Đây là hoạt
động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước với thủ tục chặt chẽ.
Các hình thức thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây
ra đều quan trọng, có tính độc lập tương đối, không tách biệt rõ ràng mà đan xen lẫn
nhau, có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ. Việc xem xét các hình thức thực hiện
pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra được đặt trong những mối
quan hệ cụ thể.
2.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra
13
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra
góp phần nâng cao nhận thức, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và phòng ngừa,
đấu tranh các hành vi trái pháp luật của công chức gây thiệt hại tới quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành công vụ của công chức CQHCNN.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra
góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
Tóm lại, nghiên cứu thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra đòi hỏi làm rõ khái niệm, hình thức, vai trò của vấn đề này. Mối
quan hệ của ba phương diện này thể hiện ở chỗ: thực hiện pháp luật về TNBTCNN
do công chức CQHCNN gây ra có những đặc trưng riêng, là nhân tố cốt lõi, xuyên
suốt với các hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này tương đối đa dạng.
2.2. NỘI DUNG, YÊU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG
CHỨC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA
2.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra
Nội dung thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra
có thể nghiên cứu theo nhiều góc độ. Nghiên cứu đầy đủ vấn đề trên đòi hỏi phải tìm
hiểu trực diện, cụ thể TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra và làm rõ những
cách thức làm cho pháp luật về lĩnh vực này đi vào cuộc sống. Trên quan điểm đó,
luận án kết hợp làm rõ từng nội dung với việc bám sát lý luận về các hình thức thực
hiện pháp luật để đánh giá, nhận xét về hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong quá trình thực hiện TNBTCNN do
công chức CQHCNN gây ra. Đây cũng là cách tiếp cận luận án sử dụng để đánh giá
thực trạng thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra trong
chương 3.
Khi đề cập đến TNBTCNN, Hiến pháp năm 2013 đã quy định trách nhiệm của
Nhà nước trong BTTH về vật chất, tinh thần đối với các chủ thể. Phù hợp với nguyên
tắc hiến định, trong nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam đã trực tiếp hoặc gián tiếp
quy định về TNBTCNN. Văn bản chuyên ngành quy định vấn đề này là Luật
TNBTCNN, theo đó nội dung thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra như sau:
- Về chủ thể: Các bên trong quan hệ TNBTCNN do công chức CQHCNN gây
ra, gồm bên gây thiệt hại là CQHCNN (đại diện nhân danh Nhà nước) và bên bị thiệt
hại là cá nhân, tổ chức.
14
- Về khách thể: Khách thể trong quan hệ TNBTCNN do công chức CQHCNN
gây ra là lợi ích của Nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Trên
thực tế, hoạt động công quyền gây ra thiệt hại, thì đó là những thiệt hại vật chất, thiệt
hại tinh thần của các cá nhân, tổ chức, tuy nhiên có một thiệt hại mà không thể đo, đếm
được là lòng tin của người dân vào hiệu quả hoạt động cũng như uy tín của Nhà nước.
- Về các điều kiện phát sinh TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra là tổng
hợp các yếu tố cấu thành TNBTCNN, bao gồm: 1) Có thiệt hại xảy ra; 2) Có hành vi
trái pháp luật trong thi hành công vụ; 3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái
pháp luật và thiệt hại xảy ra.
2.2.2. Yêu cầu thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra
Thứ nhất, yêu cầu từ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, trọng tâm là cải
cách hành chính, cải cách tư pháp.
Thứ hai, yêu cầu về công bằng, dân chủ trong thực hiện pháp luật.
Thứ ba, yêu cầu về sự bình đẳng, minh bạch trong thực hiện pháp luật.
2.2.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có đặc điểm riêng, đảm bảo thực
hiện pháp luật về TNBTCNN trong lĩnh vực này cũng phải có những đặc trưng cụ thể
bên cạnh các bảo đảm TNBTCNN nói chung, thể hiện tập trung ở loại đảm bảo pháp
lý. Theo đó, nó được hiểu là trách nhiệm trực tiếp của CQHCNN, công chức, người
có thẩm quyền của CQHCNN và các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại trong quá trình thực
hiện TNBTCNN, là kết quả tổng hợp của hệ thống các quy định pháp luật bảo đảm
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra và cơ chế tổ chức thực hiện các quy định
pháp luật đó trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật. Theo nghĩa này, các yếu tố
bảo đảm thực hiện pháp luật bao gồm các nội dung cụ thể sau đây:
Thứ nhất, yếu tố pháp luật bảo đảm TNBTCNN nói chung, TNBTCNN do
công chức CQHCNN gây ra nói riêng.
Thứ hai, bảo đảm về cơ cấu tổ chức, hoạt động của cơ quan tham gia bồi
thường nhà nước.
Thứ ba, bảo đảm cơ chế phối hợp nhằm thực hiện pháp luật về
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra.
Thứ tư, bảo đảm phẩm chất, trình độ của đội ngũ công chức CQHCNN và
ý thức của cá nhân, tổ chức tham gia TNBTCNN.
Thứ năm, bảo đảm bằng hoạt động giám sát, thanh tra việc thực hiện pháp
luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra.
15
Thứ sáu, bảo đảm thông qua việc xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện
pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra.
Thứ bảy, bảo đảm về kinh phí chi trả và các điều kiện về cơ sở vật chất để
thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra.
2.3. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA
NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ VIỆT NAM CÓ THỂ
THAM KHẢO
Nội dung này có thể tìm hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhằm cung cấp một
cách đánh giá tổng thể toàn diện, luận án tiếp cận nghiên cứu dựa trên cơ sở việc thực
hiện pháp luật về TNBTCNN ở một số nước điển hình trên thế giới, gồm Trung
Quốc, Pháp, Đức, Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Mặc dù liên quan tới nhiều quốc gia, với các hệ thống chính trị, hệ thống pháp
luật, vị trí địa lý khác nhau, nhưng TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra nhìn
chung được thể hiện trong quy định pháp luật của từng nước với các cấp độ khác nhau.
Ở một chừng mực nhất định, nó thể hiện sự thống nhất trong nhận thức của các quốc
gia. Nghiên cứu thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra ở
một số nước tiêu biểu cho thấy, do điều kiện cụ thể ở các nước không giống nhau nên
việc thực hiện pháp luật ở các nước cũng có những điểm khác biệt. Điều đó phản ánh
sự phức tạp và nhận thức khác nhau của các quốc gia về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra. Thậm chí, một số quốc gia có những điểm trái ngược nhau về quan
niệm, cách thức tổ chức thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN
gây ra. Tuy nhiên, điểm chung trong thực hiện pháp luật của các nước trên là:
- Mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội
trước sự lạm quyền của công chức nhà nước là vấn đề tất cả các quốc gia đều hướng
tới, vì đây là giá trị chung của nhân loại. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức là trách nhiệm của nhiều chủ thể khác nhau nhưng trước hết thuộc về
các CQHCNN.
- Bồi thường thiệt hại là chế định pháp luật truyền thống, các quốc gia đều áp
dụng phổ biến với nội dung cơ bản là bên bị thiệt hại về vật chất hay tinh thần sẽ
nhận được một giá trị bồi thường tương ứng với những thiệt hại bị gây ra. Việc thực
hiện bồi thường này liên quan tới nhiều cơ quan nhà nước khác nhau (cơ quan thuộc
lĩnh vực lập pháp hoặc cơ quan thuộc lĩnh vực tư pháp hoặc CQHCNN đơn thuần),
phản ánh rõ nét chủ quyền quốc gia trong xử lý các hành vi trái pháp luật, đặc biệt là
các hành vi xâm phạm tới quyền và lợi ích cơ bản của cá nhân, tổ chức.
- Thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra liên quan
tới nhiều lĩnh vực pháp luật, nhưng chủ yếu được ghi nhận trong Hiến pháp và thể
chế hóa thành các quy định trong pháp luật về bồi thường nhà nước, tố tụng hành
16
chính, tố tụng dân sự, dân sự, hành chính, trong đó, việc thực hiện được tiến hành với
trình tự, thủ tục chặt chẽ và cơ chế giám sát bắt buộc.
- TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra trên phương diện pháp luật
đang trong quá trình quốc tế hóa thông qua việc các nước tích cực tiếp cận những
vấn đề quốc tế, ký kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức có yếu tố nước ngoài. Xu thế chủ yếu hiện nay là
dân sự hóa hoạt động này, giảm tải gánh nặng cho nhà nước trong việc bồi thường
thiệt hại. Đây vừa là một cách thức để cân bằng, kiểm soát quyền lực nhà nước,
vừa là biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra.
Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM
3.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH VÀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1.1. Khái quát tình hình thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước ở Việt Nam
3.1.1.1. Trước khi ban hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Ngay từ rất sớm, trong bản Hiến pháp đầu tiên - tại Điều 11 Hiến pháp năm
1946 đã chú ý bảo vệ quyền công dân “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt
bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”. Đến Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980 tiếp tục ghi nhận và bảo vệ quyền công dân, trong đó chú ý tới việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước nguy cơ bị lạm quyền bởi công
chức, viên chức cơ quan nhà nước. Tuy đã được ghi nhận trong Hiến pháp, nhưng
trên thực tế các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa ban hành văn bản thực hiện
vấn đề trên. Tình hình thực hiện pháp luật về TNBTCNN còn có nhiều hạn chế, bất
cập như: hình thức văn bản quy phạm pháp luật quy định về TNBTCNN có hiệu lực
pháp lý không cao; pháp luật về TNBT thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra
chưa được xây dựng trên quan điểm coi đây là TNBTCNN nói chung mà chỉ coi là
TNBT của từng cơ quan nhà nước cụ thể, thậm chí là trách nhiệm cá nhân của công
chức với tư cách bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; cơ quan có trách nhiệm giải
quyết bồi thường trong nhiều trường hợp chưa được xác định rõ và đặc biệt là chưa
quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà nước có liên quan, nên
việc giải quyết bồi thường không đạt được kết quả như mong muốn; các loại thiệt
17
hại được bồi thường, mức bồi thường và nhiều vấn đề liên quan khác được pháp
luật quy định không thống nhất, chưa hợp lý, gây bất lợi cho cả cơ quan giải quyết
bồi thường nhà nước lẫn người bị thiệt hại; trách nhiệm hoàn trả của công chức
chưa được quy định rõ ràng.
3.1.1.2. Sau khi ban hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Năm 2009, Quốc hội đã ban hành Luật TNBTCNN và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 01 năm 2010. Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền cũng đã ban
hành một hệ thống văn bản pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy
định của Luật TNBTCNN. Với kết quả bước đầu thực hiện pháp luật về TNBTCNN,
có thể thấy, Luật TNBTCNN đã trở thành công cụ pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức khi bị thiệt hại do
hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra. Đây là một trong những văn
bản góp phần ngăn chặn tình trạng tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu người dân của
một bộ phận công chức CQHCNN. Đồng thời, những quy định nghiêm khắc của
Luật này là động lực để khắc phục tình trạng yếu kém về trình độ và năng lực chuyên
môn của một bộ phận công chức, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và đạo đức
nghề nghiệp của người thi hành công vụ, qua đó, tạo thêm lòng tin của người dân vào
các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
3.1.2. Hệ thống tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra ở Việt Nam
Hệ thống tổ chức này bao gồm các cơ quan có thẩm quyền và đội ngũ công
chức của các cơ quan đó tham gia thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra. Sự vận hành của hệ thống tổ chức này là rất cần thiết nhằm đảm
bảo thực hiện pháp luật về TNBTCNN:
- Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý về công tác bồi thường nhà nước
do công chức CQHCNN gây ra.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, trong đó Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý
công tác bồi thường nhà nước do công chức CQHCNN gây ra.
- UBND cấp tỉnh, trong đó giao Sở Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về
công tác bồi thường ở địa phương.
- UBND cấp huyện, trong đó giao Phòng Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước
về công tác bồi thường của cấp huyện và cấp xã.
- TA, VKS là cơ quan có thẩm quyền trong thực hiện pháp luật về TNBTCNN
do công chức CQHCNN gây ra.
18
Ngoài các cơ quan nêu trên, một số cơ quan khác cũng đóng vai trò nhất định
trong TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra như Bộ Nội vụ, Thanh tra Chính
phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… Vai
trò này thể hiện chủ yếu ở việc phối hợp, hỗ trợ trong thực hiện pháp luật về
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra.
3.2. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC ĐỐI VỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM VÀ NGUYÊN NHÂN
3.2.1. Những kết quả đạt được đối với thực hiện pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra ở
Việt Nam
Các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái
pháp luật của công chức CQHCNN gây ra trong thi hành công vụ được tiến hành
toàn diện với nhiều hình thức thực hiện pháp luật và đã đạt được nhiều kết quả đáng
ghi nhận.
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về bồi thường nhà nước bảo đảm quyền yêu cầu
Nhà nước bồi thường, khôi phục danh dự của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại
Thứ hai, thực hiện pháp luật về bồi thường nhà nước đảm bảo kịp thời, đúng
nguyên tắc và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có trách nhiệm bồi thường
Thứ ba, thực hiện pháp luật về bồi thường nhà nước bảo đảm đúng quyền,
nghĩa vụ của công chức CQHCNN - với tư cách người thi hành công vụ đã gây ra
thiệt hại
Thông qua các hình thức nổi bật là thi hành pháp luật, áp dụng pháp luật và
tuân theo pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong TNBTCNN
do công chức CQHCNN gây ra nhìn chung được thực hiện theo quy định của pháp
luật, kịp thời đáp ứng yêu cầu của tình hình mới cũng như sự thay đổi của chính sách
pháp luật.
Với hình thức chủ yếu là sử dụng pháp luật, thi hành pháp luật và áp dụng
pháp luật, các thiệt hại liên quan đến cá nhân, tổ chức do tài sản bị xâm phạm, do thu
nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khỏe,
thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khỏe, do tổn thất về tinh thần cơ bản được
bảo đảm. Các thiệt hại nêu trên được thực hiện kịp thời và nhìn chung bảo đảm đúng
căn cứ áp dụng, công bằng với mọi cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Những kết quả này
thể hiện rõ nét ở hình thức áp dụng pháp luật, thi hành pháp luật và tuân theo pháp
luật.
19
3.2.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được đối với thực hiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính
nhà nước gây ra ở Việt Nam
Những kết quả đạt được đối với thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công
chức CQHCNN gây ra do các nguyên nhân khách quan, chủ quan nhất định đem lại.
Các nguyên nhân khách quan, chủ quan rất đa dạng. Ở các mức độ khác nhau, các
nguyên nhân này đã làm cho pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây
ra đi vào cuộc sống.
3.3. NHỮNG HẠN CHẾ ĐỐI VỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM VÀ NGUYÊN NHÂN
3.3.1. Những hạn chế đối với thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra ở
Việt Nam
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về bồi thường nhà nước có lúc, có nơi
chưa bảo đảm quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường, khôi phục danh dự của cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại
Những quyền của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại nêu trên có lúc, có nơi
chưa thực sự được bảo đảm, thậm chí còn bị gây khó khăn trên thực tế, nhưng
cũng có trường hợp cá nhân, tổ chức lợi dụng để làm biến dạng, mất mục đích,
ý nghĩa của công tác bồi thường nhà nước.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về bồi thường nhà nước liên quan tới nhiệm
vụ, quyền hạn của CQHCNN - với tư cách là cơ quan có trách nhiệm bồi
thường còn một số bất cập
Những hạn chế trong thực hiện pháp luật đối với chủ thể là CQHCNN
được thể hiện ở nhiều khía cạnh cơ bản và thể hiện rõ nét ở hình thức thi hành
pháp luật, tuân theo pháp luật. Hình thức sử dụng pháp luật lại không thể hiện
rõ nét trong các hoạt động nêu trên. Hình thức áp dụng cũng phần nào liên quan
tới những hạn chế này vì để tiến hành các hoạt động này chủ yếu do CQHCNN
tổ chức thực hiện.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về bồi thường nhà nước liên quan tới quyền,
nghĩa vụ của công chức CQHCNN - với tư cách người thi hành công vụ đã gây
ra thiệt hại còn hạn chế
3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế đối với thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính
nhà nước gây ra ở Việt Nam
20
Những hạn chế bất cập khi thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công
chức CQHCNN gây ra không chỉ xuất phát từ các nguyên nhân khách quan mà
còn bao gồm những nguyên nhân chủ quan. Các nguyên nhân khách quan, chủ
quan được thể hiện trên nhiều phương diện đã trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn tới
những hạn chế của thực trạng. Việc làm rõ các nguyên nhân này là rất quan
trọng để tìm ra các giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra.
21
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM
4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM
Thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra là một vấn
đề phức tạp với bốn hình thức thực hiện. Vì vậy, để vấn đề này đạt được mục đích,
làm cho pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra đi vào cuộc sống
thực tế thì phải thực hiện nghiêm túc những quan điểm chỉ đạo sau đây:
4.1.1. Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do
công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra phải quán triệt các quan điểm
của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân chủ hóa đời sống xã hội, phù hợp với mục
tiêu, phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
4.1.2. Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do
công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra phải phù hợp với điều kiện cụ
thể ở Việt Nam và các cam kết quốc tế Việt Nam tham gia hoặc công nhận
4.1.3. Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do
công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra phải trên cơ sở nhận thức đúng
mối quan hệ giữa Nhà nước, pháp luật và quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức
4.1.4. Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội nhằm thực hiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính
nhà nước gây ra
4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM
Thực hiện các giải pháp này là một quá trình lâu dài, phải khắc phục những
nguyên nhân khách quan, chủ quan của hạn chế như giải quyết các vấn đề kinh tế, xã
hội, phát triển nghiên cứu lý luận về những vấn đề có liên quan đến thực hiện pháp
luật về TNBTCNN. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận án chỉ tập trung đề
xuất các giải pháp trực tiếp, cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về TNBTCNN
do công chức CQHCNN gây ra. Thực hiện đồng bộ các giải pháp này cũng là việc
tăng cường hiệu quả tiến hành bốn hình thức thực hiện pháp luật như phần lý luận và
thực trạng của đề tài luận án đã phân tích.
22
4.2.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước nói chung, pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do
công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra nói riêng
Thứ nhất, rà soát và hệ thống hóa thường xuyên, có chất lượng các văn bản
quy phạm pháp luật liên quan pháp luật về TNBTCNN
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm
bảo đảm TNBTCNN
4.2.2. Kiện toàn cơ cấu tổ chức, hoạt động cơ quan thực hiện trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước và tăng cường cơ chế phối hợp trong thực hiện trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước
4.2.3. Nâng cao phẩm chất, trình độ năng lực đội ngũ công chức tham gia
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và tăng cường
công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước cho đội ngũ công chức cơ quan hành chính nhà nước
4.2.4. Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong việc
thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ
quan hành chính nhà nước gây ra
4.2.5. Tăng cường kinh phí, các điều kiện cơ sở vật chất bảo đảm thực
hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan
hành chính nhà nước gây ra
4.2.6. Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế nhằm thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà
nước gây ra ở Việt Nam
KẾT LUẬN
Thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra là một yêu
cầu khách quan trong tiến trình đổi mới của Việt Nam hiện nay, có vai trò nổi bật
trong nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ đối với
công chức CQHCNN, đấu tranh với các hành vi trái pháp luật nhằm góp phần bảo vệ
lợi ích Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
TNBTCNN là một vấn đề chính trị - pháp lý - xã hội phức tạp, phản ánh trình
độ phát triển và dân chủ của chế độ Nhà nước, do vậy, nhiều quốc gia trên thế giới đã
ban hành pháp luật điều chỉnh và đã có một số công trình ở Việt Nam và trên thế giới
nghiên cứu một hoặc một số vấn đề có liên quan tới đề tài này. Tuy nhiên, các quốc
gia khác nhau có quy định với cách tổ chức thực hiện khác nhau và các công trình
nghiên cứu cũng chưa đầy đủ, toàn diện, nhiều vấn đề lý luận vẫn còn có ý kiến khác
nhau cần được làm sáng tỏ.
23