Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

những thành tựu trong cấy ghép mô, cơ quan và các vấn đề xã hội có liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.91 KB, 32 trang )

PHẦN ĐẶT VẤN ĐỀ
Cấy gép mô đã mỡ ra một kĩ nguyên mới cho y học thế giới nói chung, y học
Việt Nam nói riệng. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, đã
tạo ra những những thành tựu cho phép con người có thể đã và đang can thiệp rất
sâu vào các hiện tượng khác nhau của sự sống của chính bản thân con người và các
sinh vật sống xung quanh. Đặc biệt trong lĩnh vực y học đã có những thành tựu
quan trọng, làm tăng sức khỏe và kéo dài tuổi thọ cho con người. một trong những
thành tựu đó là việc cấy ghép thành công mô và cơ quan nhằm thay thế những mô,
cơ quan bị hư hỏng, khiếm khuyết trên cơ thể con người.
Từ thế kỷ X, các thầy thuốc Ấn Độ đã thành công trong việc tái tạo môi,
mũi, tai … cho người bệnh bằng chính da của người đó. Sau này cũng có nhiều thất
bại trong việc cấy ghép mô, cơ quan từ người này sang người khác. Nhưng ngày
nay, với sự hiểu biết rộng rãi về sự sinh trưởng, phát triển và sinh sản cùng với
những kiến thức của tế bào học, sinh lí học, miễn dịch học, con người đã rất thành
công trong việc cấy ghép nhiều cơ quan trên cơ thể con người như ghép da, xương,
ghép thận, tim, gan … và đang thử nghiệm ghép não. Tuy nhiên, xung quanh vấn
đề này cũng có nhiều dư luận xã hội và các vấn đề đạo lí có liên quan.
Trong phạm vi môn học sinh sản và phát triển cá thể động vật, với sự hướng
dẫn của thầy PGS.TS Ngô Đắc Chứng, tôi lựa chọn tìm hiểu vấn đề: “Những
thành tựu trong cấy ghép mô, cơ quan và các vấn đề xã hội có liên quan”.
PHẦN NỘI DUNG
1
1. LÝ THUYẾT VỀ CẤY GHÉP MÔ VÀ CƠ QUAN
Đối với một số mô, cơ quan trên cơ thể bị tổn thương, hư hỏng nghiêm trọng
không thể phục hồi hoặc bị khiếm khuyết, biến dạng do nhiều nguyên nhân, người
ta dùng phương pháp cấy ghép mô, cơ quan để sữa chữa. Có hai phương pháp cấy
ghép mô, cơ quan:
Tự ghép
Tự ghép là phương pháp lấy mô, cơ quan của cơ thể và cấy ghép lại cho chính
cơ thể đó. Ví dụ: lấy da ở vùng đùi ghép lên mặt, đầu hoặc nối lại tay, chân bị đứt
rời khỏi cơ thể …Phương pháp này thường rất dễ thành công vì không có sự loại


thải mô. Phương pháp này đã được thực hiện từ rất sớm, từ thế kỷ X, các thầy
thuốc Ấn Độ đã tái tạo lại môi, mũi, tai … cho bệnh nhân bằng chính da của họ.
Năm 1905, nhà phẫu thuật người Pháp, A.Carrel đã nối lại chân cho một con chó và
đã thành công, sau đó ông thử nghiệm với thận và cũng đạt kết quả mong muốn.
Dị ghép
Dị ghép là phương pháp lấy mô, cơ quan của cơ thể này (người cho) cấy ghép
vào cơ thể khác (người nhận). Ví dụ: lấy thận, gan … của người này ghép cho
người khác bị hỏng thận, gan hoặc lấy tim của lợn hay khỉ ghép cho người. Phương
pháp này có tỉ lệ thành công ít và sau nhiều lần thất bại, hiện nay người ta mới biết
được nguyên nhân của nó. Trên bề mặt của tất cả các tế bào cơ thể đều có những
protein gọi là kháng nguyên tương hợp tổ chức (antigen of histocompatibility). Nếu
ghép một tổ chức của cơ thể A cho cơ thể B không có cùng kháng nguyên tương
hợp tổ chức thì cơ thể B sẽ sản xuất kháng thể chống lại tế bào của cơ thể A (tế bào
lạ) và mảnh ghép sẽ bị loại thải theo cơ chế kháng nguyên – kháng thể trong miễn
dịch học. Các nghiên cứu khác cho thấy kháng nguyên tương hợp tổ chức ở người
là hệ HLA (kháng nguyên bạch cầu người – Human Leucocyste Antigen) tồn tại
trên bạch cầu của người.
Trên màng của mọi loại tế bào đều có kháng nguyên tương hợp tổ chức, nhưng
có một số tế bào có nhiều kháng nguyên tương hợp tổ chức hơn. Đó là các lymphô
bào, loại tế bào chuyên hoạt động miễn dịch chống lại các tế bào lạ và vi khuẩn
xâm nhập vào cơ thể. Mỗi khi có tế bào lạ xâm nhập vào cơ thể thì cả ba loại
lymphô bào là T, B, K đều được huy động để chống lại các tế bào lạ. Trước hết là
lymphô bào T tiếp xúc, nhận dạng và tiết kháng thể tiêu diệt tế bào lạ. Phối hợp với
lymphô bào T là các lymphô bào B, K nhận tín hiệu từ lymphô bào T và cùng tiết
kháng thể vào máu tiêu diệt tế bào lạ. Đây là cơ sở của hiện tượng loại thải mô
được cấy ghép.
2
Trở ngại lớn nhất làm hạn chế các thành tựu của cấy ghép mô, cơ quan là hệ
miễn dịch của cơ thể, tiêu diệt tất cả những kháng nguyên lạ xâm nhập.Vì thế các
các mô, cơ quan không cùng một cơ thể được cấy ghép sẽ nhanh chóng bị loại thải.

Lúc đầu để khắc phục hiện tượng này người ta dùng các biện pháp sau:
- Chiếu xạ bằng tia Rơnghen
- Dùng các loại thuốc chống phân bào
- Dùng cortizon và các chất tương tự để ngăn cản các hoạt động mạnh mẽ của
hệ miễn dịch
- Dừng huyết thanh chống lymphô bào
Các biện pháp trên mang lại một số thành công là miếng ghép tồn tại trên cơ thể
lâu hơn nhưng lại gây ra một số biến chứng cho cơ thể người nhận như làm giảm
khả năng chống các bệnh khác, làm thoái hóa tủy xương, gây thiếu máu, dễ chảy
máu … Người được cấy ghép phải uống thuốc chống thải ghép suối đời sống của
mình.
Vì vậy biện pháp hiệu quả cuối cùng là chọn bộ kháng nguyên phù hợp giữa
người cho và người nhận và bộ kháng nguyên được chú ý là hệ HLA. Điều này chỉ
có được ở những cặp sinh đôi cùng trứng, nhưng như vậy thì không phổ biến.
Các nghiên cứu của J.Dausset về kháng thể trên bạch cầu, tiểu cầu ở những
người truyền máu nhiều lần đã phát hiện những kháng nguyên tương hợp tổ chức
mà ông gọi là hệ HLA. Các gen mã hóa cho HLA nằm trong bốn locus của đôi NST
số 6 được gọi là HLA–A, HLA–B, HLA–C, HLA–D. Mỗi NST có 4 locus và trong
đôi NST số 6 có 8 locus mã hóa cho 8 kháng nguyên tương hợp tổ chức. Locus A
có 5 gen alen, locus B có 20, locus C có 6 và locus D có 6 gen alen. Nếu lấy toàn
bộ alen thì ABCD có thể kết hợp với nhau thì có hàng tỉ cách kết hợp. Như vậy về
mặt lý thuyết thì rất khó tìm được hai người có hệ HLA hoàn toàn giống nhau để
cấy ghép tổ chức cho nhau. Tuy nhiên, trên thực tế có thể cấy ghép thành công khi
có từ ba kháng nguyên phù hợp trở lên và có thể tìm thấy sự phù hợp này trong
7000 – 30000 người. Điều này có thể thực hiện được khi quản lý bộ kháng nguyên
của 30000 người tình nguyện cho các mô và cơ quan để cấy ghép cho người khác.
Có hai cách để giải quyết vấn đề này. Cách thứ nhất: khi có người cần cấy ghép,
người ta tìm trong số những người cho xem ai có kháng nguyên phù hợp thì lấy tổ
chức mang đi cấy ghép. Như vậy cần phải có ít nhất 7000 người mới có hi vọng tìm
được kháng nguyên phù hợp. Cách thứ hai: tập hợp tất cả những người nhận và khi

có người nào tình nguyện cho cơ quan thì xem người đó có kháng nguyên phù hợp
với người nào trong số những người cần cấy ghép. Cách làm này đã mang lại hiệu
3
quả rất đáng khích lệ nhờ sự ra đời của các Ngân hàng cấy ghép mô thế giới, nơi
đang quản lý hàng nghìn bệnh nhân cần cấy ghép và những người cho mà các
thông số về hệ HLA của họ được lưu trữ trên máy tính và khi cần là có thể tiến
hành cấy ghép ngay.
Hầu hết cơ quan được cấy ghép tức thời sau khi người cho cơ quan chết, để
giảm tổn thương, hư hại cơ quan. Người nhận phải sử dụng thuốc thuốc ức chế
miễn dịch một thời gia để ngăn chặn sự thải loại mô. Nếu nười cho và người nhận
cơ quan ở hai nơi xa nhau, cơ quan được bảo quản ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ cơ
thể và trên điểm đông lạnh. Cơ quan được ngập chìm trong dung dịch bảo quản
bằng cách bơm dung dịch thông qua cách mạch để làm giảm sự hư hại mạch. Dung
dịch bảo quản được đưa vào ngay lập tức và cũng có tác dụng làm lạnh cơ quan từ
37
0
C xuống 4
0
C. Sau khoảng một giờ thiếu máu, có thể tạo môi trường ẩm cho mô
hay sau 4 giờ thiếu máu, điều kiện nhiệt độ phải thấp hơn. Người ta đang nghiên
cứu các phương pháp bảo quản khác như đông lạnh và giải đông, phương pháp
thủy tinh hóa, tuy nhiên việc bảo quản cả cơ quan bằng những phương pháp này
còn gặp nhiều khó khăn.
Bảo quản tai dưới da cánh tay và trên lưng chuột đã biến đổi gen miễn dịch.
Người ta đang nghiên cứu việc bảo quản cơ quan người trong một túi phôi ở tử
cung nhân tạo, tuy nhiên vấn đề này còn có nhiều tranh cãi.
2. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VIỆC CẤY GHÉP MÔ VÀ CƠ QUAN
Nửa thế kỷ qua, bàn tay kỳ diệu của y học đã có thể ghép gần như bất kỳ cơ
quan nội tạng nào cho cơ thể người. Ít nhất 21 cơ quan nội tạng, từ thận, tim, gan
đến mô (giác mạc hoặc tủy) đã được cấy ghép thành công (riêng tại Mỹ, mỗi năm

có hơn 20.000 nội tạng được ghép với tỉ lệ thành công là 81%); và sắp tới đây,
người ta cũng có thể ghép nguyên bộ mặt người.
Truyền máu
4
Việc truyền máu thực chất cũng là cấy ghép mô, nó xuất hiện rất sớm và cũng
đã có nhiều thất bại. Mãi cho đến năm 1914, khi Landsteiner phát hiện ra các
kháng nguyên trên hồng cầu và đã căn cứ vào đó để chia làm bốn nhóm máu th́
việc truyền máu trở nên dễ dàng và phổ biến.
Khối lượng máu của cơ thể là một chỉ số sinh lý cần được duy trì ổn định. Vì
vậy khi mất máu do chấn thương, phẫu thuật, băng huyết khi sinh cần thiết phải
được tiếp máu. Trên thực tế khi truyền máu có trường hợp không thành công do
hồng cầu bị ngưng kết dẫn đến tử vong. Bởi vì máu được phân thành nhiều nhóm
khác nhau thuộc các hệ khác nhau.
Trên màng hồng cầu người, người ta đã tìm ra khoảng 30 kháng nguyên thường
gặp và hàng trăm kháng nguyên hiếm gặp khác. Hầu hết những kháng nguyên là
yếu, chỉ được dùng để nghiên cứu di truyền gen và quan hệ huyết thống. Tuy nhiên
có hai nhóm kháng nguyên đặc biệt quan trọng có thể gây phản ứng trong truyền
máu đó là hệ thống kháng nguyên ABO và Rh.
Hệ thống nhóm máu ABO
Trong hệ thống này có 2 loại kháng nguyên là A và B nằm trên màng hồng cầu.
Ngoài ra trong huyết tương còn có 2 loại kháng thể là kháng thể kháng A (kháng
thể α) và kháng thể kháng B (kháng thể β). Kháng thể α có khả năng ngưng kết
kháng nguyên A, kháng thể β có khả năng ngưng kết kháng nguyên B. Sự xuất hiện
kháng nguyên A, hoặc kháng nguyên B trên màng hồng cầu được quy định bởi gen.
Người ta dựa vào sự hiện diện kháng nguyên A, B trên màng hồng cầu để phân loại
hệ thống nhóm máu ABO.
Nguyên tắc truyền máu:
- Nguyên tắc chung: Không để kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau.
Như vậy chỉ được phép truyền máu cùng nhóm.
Bảng : Hệ thống nhóm máu ABO

Tên nhóm
máu
Tỉ lệ % KN trên
hồng cầu
KT trong huyết
tương
Da trắng Việt Nam
A 41 21,5 A β
B 9 29,5 B α
AB 3 6 A và B Không có α và β
O 47 43 Không có A và B Có α và β
5
Hệ thống nhóm máu Rhesus (Rh)
Có 6 loại kháng nguyên Rh, chúng được ký hiệu là C, D, E, c, d, e. Một người
có kháng nguyên C thì không có c và ngược lại, điều này cũng đúng đối với các cặp
D-d và E-e. Do phương thức di truyền của các yếu tố này, mỗi người chúng ta có 3
kháng nguyên thuộc 3 cặp C-c, D-d, E-e (chẳng hạn CDE; CdE; cdE; cDe ).
Kháng nguyên D là thường gặp nhất và có tính kháng nguyên mạnh nhất nên những
người mang kháng nguyên D được gọi Rh dương, những người không mang kháng
nguyên D được gọi là Rh âm.
Một điều cần lưu ý là trong hệ thống nhóm máu Rh, kháng thể kháng Rh không
có sẵn tự nhiên trong máu. Kháng thể chỉ sinh ra trong máu người Rh âm khi người
này được truyền máu Rh dương hoặc trường hợp mẹ Rh âm mang bào thai Rh
dương. Ðó là quá trình đáp ứng miễn dịch. Người nhóm máu Rh âm được truyền
máu Rh dương, lần đầu tiên hầu như không xảy ra tai biến. Tuy nhiên, cơ thể người
này bắt đầu sản xuất kháng thể kháng Rh. Nồng độ kháng thể đạt tối đa sau 2-4
tháng. Nếu sau đó người này lại được truyền máu Rh dương thì tai biến có thể xảy
ra do kháng thể kháng Rh có sẵn đó gây ngưng kết hồng cầu Rh dương được truyền
vào. Có một số người Rh âm trong lần nhận máu Rh dương đầu tiên đã sản xuất
kháng thể kháng Rh với số lượng có ý nghĩa sau 2-4 tuần. Như vậy, kháng thể đó

có thể gây ngưng kết những hồng cầu Rh dương còn lưu thông trong máu. Tuy
nhiên, phản ứng xảy ra muộn này rất nhẹ nhàng.
Hiện nay việc truyền máu đã rất phổ biến và đã cứu sống rất nhiều người trên
thế giới. Ở nước ta, hàng năm đã có hàng nghìn người tình nguyện hiến máu cứu
người và hàng nghìn đơn vị máu được bảo quản để sử dụng lúc cần thiết.
Ghép giác mạc
Ghép giác mạc là phẫu thuật ghép mô được thực hiện sớm nhất và cũng là phẫu
thuật có kết quả thành công cao nhất trong các loại ghép mô. Sau một vài phẫu
thuật thử nghiệm, năm 1824 Reisinger là người đầu tiên thực hiện phẫu thuật này
trên thỏ và mở đầu cho sự phát triển của ghép giác mạc. Năm 1893 Simanopxky là
người đầu tiên gợi ý việc sử dụng nguồn mắt tử thi như một nguồn dự trữ dồi dào
có thể cung cấp nguyên liệu ghép bất cứ khi nào cần.
6
Giác mạc là màng mỏng trong suốt che chắn 1/5 trước nhãn cầu, nó cho phép
ánh sáng, hình ảnh đi qua để hội tụ trên đáy mắt và từ đó hình ảnh được truyền lên
não bộ giúp con người có thể nhận thức được vật thể. Một số bệnh lý hoặc chấn
thương của mắt dẫn đến đục giác mạc, làm cho ánh sáng không thể xuyên qua và
khi đó người bệnh bị mờ mắt do bệnh giác mạc. Việc thay thế giác mạc bị mờ đục
đó bằng một giác mạc lành, trong suốt của người chết hiến tặng gọi là ghép giác
mạc. Ghép giác mạc được chỉ định khi người bệnh bị đục giác mạc nhưng chức
năng mắt còn tốt.
Có 2 kỹ thuật ghép cơ bản là ghép giác mạc lớp (thay thế một phần trước của
giác mạc bệnh bằng một phần tương đương của giác mạc lành khi tổn thương
không chiếm hết giác mạc) và ghép giác mạc xuyên (khi tổn thương sâu hết chiều
dày giác mạc đòi hỏi phải thay thế giác mạc toàn bộ bề dày). Khi phẫu thuật bác sỹ
sẽ dùng một cái khoan chuyên dụng lấy đi phần giác mạc bị tổn thương (có thể là
màng trắng đục như vẩy các hoặc tổ chức giác mạc bị loét…) và dùng một khoan
thứ hai lấy từ giác mạc người hiến một mảnh giác mạc với kích thước tương ứng
đặt lên giác mạc bệnh nhân và khâu cố định vào đó bằng những mũi chỉ cực nhỏ
(đường kính sợi chỉ nhỏ khoảng 1/8 sợi tóc). Hiện nay người ta đã áp dụng kỹ thuật

ghép giác mạc mới, giảm chi phí và tỉ lệ thành công cao hơn.
Ở Việt nam, ghép giác mạc được tiến hành từ những năm 1950 với công bố đầu
tiên của Nguyễn Đình Cát, Nguyễn Ngọc Kính, Nguyễn Duy Hòa. Hàng năm tại
Mỹ có trên 40.000 ca ghép giác mạc được tiến hành đem lại ánh sáng cho ít nhất
50% người trong số đó. Tuy nhiên ở nước ta do nguồn giác mạc có được khá hiếm
hoi (khoảng 150 ca/năm từ các nguồn khác nhau chủ yếu là viện trợ từ nước ngoài)
trong khi số bệnh nhân có nhu cầu ghép giác mạc ước tính trên 300.000 người và
hàng năm lại cộng thêm những người mắc mới. Ngân hàng giác mạc là nơi thu
nhận giác mạc từ người hiến sau khi qua đời, bảo quản và phân phối đến nơi có nhu
cầu. Vì giác mạc được tiếp nhận chỉ sau khi người hiến qua đời nên để thu nhận
được giác mạc nhân viên ngân hàng mắt phải được sự hỗ trợ của mọi người trong
xã hội. Chỉ với 15-30 phút thao tác nhẹ nhàng là giác mạc đã được lấy mà không
làm thay đổi gì đến khuôn mặt người chết, nhãn cầu vẫn còn nguyên trong hốc mắt
và kế hoạch tang lễ không bị ảnh hưởng gì. Giác mạc sau khi lấy sẽ được bảo quản
trong lọ dung dịch đặc biệt để có thể giữ nguyên chất lượng. Một lượng nhỏ máu
của người hiến sẽ được lấy để làm các xét nghiệm cần thiết bảo đảm an toàn cho
người nhận ghép.
7
Gần đây nhờ sự tuyên truyền rộng rãi nên nhiều người đã tự đến hoặc gửi thư
đến ngân hàng mắt để tình nguyện hiến giác mạc sau khi qua đời. Đó là nghĩa cử
cao đẹp đã giúp đem lại ánh sáng cho nhiều bệnh nhân.
Ghép da và xương
Ghép da và xương rất phổ biến và dễ thực hiện vì miếng ghép dễ kiếm, có thể
lấy ngay trên người đó hoặc từ mội người khác có hệ HLA phù hợp. Ngoài nhưng
cấy ghép ở những bộ phận thông thường như tái tạo tai, môi, mũi bằng da của
chính cơ thể mình hay lấy da ở những vùng không bị tổn thương để thay thế vùng
da bị tổn thương do bỏng nặng. Hiện nay đã ghép thành công một số bộ phận quan
trọng như ghép da mặt, nối lại cánh tay bị đứt lìa.
Nữ bệnh nhân này đã bị mất cả 2 tay cách đây 28 năm do một vụ nổ hoá chất. Đôi
bàn tay được cấy ghép cũng là của một phụ nữ, người mà chỉ cách đó vài giờ đồng

hồ đã bị tử vong do tai nạn ô tô. Bác sĩ Pedro Cavadas đã ghi lại tiến trình công
việc như sau: “Trước tiên là phải cắt gọt sao cho chúng vừa khít với nhau. Xương
phải được ghép chặt chẽ vào nhau bằng ốc vít. Các động mạch,
Ngày 27 tháng 4 năm 2008, các bác sỹ Italia vừa tuyên bố đã tiến hành ca cấy
ghép vai đầu tiên trên thế giới. Bệnh nhân là một người đàn ông 47 tuổi, bị viêm
khớp vai do hậu quả của chấn thương. Kĩ thuật cấy ghép mới nhất này được cho là
đầy hứa hẹn, vì nó giúp cho bộ phận được ghép tránh bị thoái hóa trong nhiều năm.
Việc cấy ghép da mặt được thử nghiệm thành công trên động vật và đang thử
nghiệm trên người. Kỹ thuật ghép mặt yêu cầu phải lấy được toàn bộ phần mặt của
người hiến tặng trong vòng 6-8 giờ sau khi chết. Phẫu thuật ghép mặt ngoài quá
trình cấy ghép ra, việc đầu tiên cần giải quyết là vấn đề "lấy nguyên liệu", cần phải
lấy được hoàn chỉnh da mặt có đủ phần mỡ dưới da, động mạch, tĩnh mạch, thậm
chí cả dây thần kinh, đồng thời phải bảo đảm được cung cấp máu, hiện tại, kỹ thuật
này đã hoàn toàn có thể thực hiện ðýợc. Khuôn mặt mới sau phẫu thuật sẽ giữ ðýợc
60% dung mạo của ngýời bệnh và có 40% là dung mạo của ngýời hiến tặng. Với
những bệnh nhân bị bỏng thông thýờng không nên mạo hiểm thực hiện cuộc phẫu
thuật lớn này. Phýõng pháp phẫu thuật này chỉ nên áp dụng ðối với những bệnh
8
nhân bị tai nạn xe, bị bỏng nặng, bị ðộng vật cắn hoặc phần mặt có những khối u ác
tính.
Ghép gan
Những bệnh suy giảm chức năng gan đe dọa tính mạng của người bệnh. Phần
lớn những bệnh nầy đều được trị bằng ghép gan. Có thể ghép gan “tạm thời” hoặc
ghép “vĩnh viễn”. Gan có thể lấy từ người bị chết não, lấy càng nhanh càng tốt , để
vào dung dịch bảo quản , làm đông và đưa đến nơi sử dụng càng sớm càng tốt. Gan
có thể lấy từ người còn sống: một mẫu gan được lấy từ người khỏe mạnh. Điều này
có thể làm được vì gan là cơ quan duy nhất có thể tái sinh. Cả mảnh gan được cho
và mảnh gan còn lại sẽ phát triển thành gan bình thường trong vòng vài tuần. Đòi
hỏi quan trọng là gan của người cho phải có kích thước thích hợp với người nhận
và máu của người cho và người nhận phải phù hợp với nhau.

Khó khăn phổ biến của ghép gan là thuật lấy đi gan bệnh và thay vào gan
mới, gan to, mềm và khó bảo quản. Khó khăn nữa là bệnh nhân không đủ khả năng
duy trì sự làm việc của gan trong thời gian chờ có gan ghép. Ngay sau khi ghép
gan, biến chứng chảy máu, gan ghép chưa làm việc được, biến chứng nhiễm trùng
là những nguy cơ làm tử vong cho bệnh nhân. Hiện nay có hai cách bảo quản gan.
Gan được lấy từ người hiến tặng được giữ tươi cho đến 15 tiếng đồng hồ nếu được
để trong hộp nước đá. Tuy nhiên, theo một phương pháp mới được nghiên cứu, gan
được nối với các linh kiện phụ trợ để tiếp tục vận hành bên ngoài cơ thể con người,
bộ phận này có thể tồn tại trong trạng thái tươi tới 72 tiếng đồng hồ. Với thời gian
gia tăng đó, số gan tươi bệnh viện có thể dùng để tiến hành ngay các ca lắp ghép sẽ
tăng gấp đôi.
Chỉ định ghép gan:
- Bệnh nhi: teo đường mật, rối loạn chuyển hóa, viêm gan mạn, suy gan cấp, u lành
tính và u ác tính ở gan, xơ gan.
- Người lớn: xơ gan hoại tử, bệnh lý gan ứ mật, bệnh lý gan do rượu, rối loạn
chuyển hóa, suy gan tối cấp, u lành và u ác ở gan
Kể từ năm 1963, các ca ghép gan đầu tiên trên người được thực hiện, nhưng hầu
hết bệnh nhân tử vong sớm sau khi ghép. Vào những năm đầu của thập niên 1980,
kết quả ghép gan được cải thiện đáng kể nhờ có thuốc ức chế miễn dịch, kỹ thuật
mổ và điều kiện gây mê tốt hơn, cũng như việc chọn lọc bệnh nhân tốt hơn. Đến
thập niên 1990, những tiến bộ trong việc bảo quản mô và thuốc ức chế miễn dịch
đã làm tăng tỷ lệ sống còn và cải thiện bệnh trạng của người được ghép. Tỷ lệ sống
9
được 5 năm tăng đến 80 - 85%. Từ năm 1993 đến nay, tại Trung Quốc đã có
khoảng 6000 ca ghép gan. Ở Mỹ mỗi năm có gần 5000 ca ghép gan.
Ở Việt Nam cũng đã ghép gan thành công cho trẻ em, hầu hết các em bị teo
đường mật bẩm sinh. Hiện nay nhu cầu ghép gan ở trẻ em nước ta là 40 ca/năm.
28/11/2007, các bác sĩ Bệnh viện Việt Đức đã phối hợp với các chuyên gia hàng
đầu của Đài Loan thực hiện ca ghép gan đầu tiên cho người lớn. So với ghép gan
cho trẻ em thì ca ghép cho người lớn sẽ khó khăn hơn và nhiều rủi ro. Với ghép

gan cho trẻ em, chỉ cần tách một phần, khoảng 30% thùy trái của người cho gan.
Nhưng ghép gan ở người lớn đòi hỏi phải lấy thùy phải của người cho gan (khoảng
50 - 60%).
2.4.1. Thành tựu cấy gép gan ở việt Nam.
a. Ca gép gan đầu của Việt Nam
Các bác sĩ Việt Nam đã sẵn sàng cho ca ghép gan đầu tiên
"Công tác chuẩn bị cho việc thực hiện hai ca ghép gan đầu tiên ở Việt
Nam đã sẵn sàng", giáo sư Lê Thế Trung, Chủ tịch Hội đồng ghép gan, khẳng
định. Và ca phẫu thuật đầu tiên sẽ được thực hiện vào 31-1-2004 với sự sự hỗ
trợ của các bác sĩ Bệnh viện Nhi Trung ươn
Các bác sĩ tham gia ca phẫu thuật này là các bác sỹ đã thực hiện nhiều ca mổ
tách trẻ dính liền nên có nhiều kinh nghiệm tách gan cũng như gây mê hồi sức,
chăm sóc hậu phẫu. Hiện có khoảng 70 cán bộ y tế đang chuẩn bị để tham gia
các ca ghép gan này.
10
Để chuẩn bị máu cho ca ghép gan này, Hội đồng ghép gan đã huy động hàng
trăm sinh viên Học viện quân y 103 hiến máu tình nguyện. Và để đảm bảo cho
thành công của các ca phẫu thuật, một số bác sĩ đã được cử sang Nhật Bản, Đài
Loan để học tập kinh nghiệm ghép gan.
Khu phẫu thuật tạo hình của Viện bỏng quốc gia với các phòng mổ có
trang thiết bị hiện đại được chọn làm địa điểm tiến hành ghép gan.
Giáo sư Trung cho biết hai bệnh nhân được ghép gan đầu tiên là cháu Vũ
Thành Long, 12 tuổi, ở Quảng Ninh, bị cường lách, viêm gan B, suy gan và đã
điều trị 8 năm liên tục ở Bệnh viện Nhi Trung ương nhưng không khỏi bệnh.
Trường hợp thứ 2 là cháu Nguyễn Thị Diệp, 9 tuổi, ở Hải Hậu, Nam Định, bị teo
đường mật bẩm sinh, đã được phẫu thuật nối ruột từ lúc 3 tháng tuổi, gan xơ,
đang bị chảy máu đường tiêu hoá.
Hiện Hội đồng ghép gan cũng đang xem xét 4 trường hợp ghép gan cho người
lớn và sẽ có quyết định cuối cùng vào đầu tháng 1-2004.
b. ca gép gan cho bệnh nhân nhỏ tuổi nhất:

Các bác sĩ Việt Nam đã sẵn sàng cho ca ghép gan đầu tiên
"Công tác chuẩn bị cho việc thực hiện hai ca ghép gan đầu tiên ở Việt Nam đã sẵn sàng", giáo sư
Lê Thế Trung, Chủ tịch Hội đồng ghép gan, khẳng định. Và ca phẫu thuật đầu tiên sẽ được thực
hiện vào 31-1-2004 với sự sự hỗ trợ của các bác sĩ Bệnh viện Nhi Trung ương.
11
Các bác sĩ tham gia ca phẫu thuật này là các bác sỹ đã thực hiện nhiều ca mổ
tách trẻ dính liền nên có nhiều kinh nghiệm tách gan cũng như gây mê hồi sức,
chăm sóc hậu phẫu. Hiện có khoảng 70 cán bộ y tế đang chuẩn bị để tham gia
các ca ghép gan này.
Để chuẩn bị máu cho ca ghép gan này, Hội đồng ghép gan đã huy động hàng
trăm sinh viên Học viện quân y 103 hiến máu tình nguyện. Và để đảm bảo cho
thành công của các ca phẫu thuật, một số bác sĩ đã được cử sang Nhật Bản, Đài
Loan để học tập kinh nghiệm ghép gan.
Khu phẫu thuật tạo hình của Viện bỏng quốc gia với các phòng mổ có
trang thiết bị hiện đại được chọn làm địa điểm tiến hành ghép gan.
Giáo sư Trung cho biết hai bệnh nhân được ghép gan đầu tiên là cháu Vũ
Thành Long, 12 tuổi, ở Quảng Ninh, bị cường lách, viêm gan B, suy gan và đã
điều trị 8 năm liên tục ở Bệnh viện Nhi Trung ương nhưng không khỏi bệnh.
Trường hợp thứ 2 là cháu Nguyễn Thị Diệp, 9 tuổi, ở Hải Hậu, Nam Định, bị teo
đường mật bẩm sinh, đã được phẫu thuật nối ruột từ lúc 3 tháng tuổi, gan xơ,
đang bị chảy máu đường tiêu hoá.
Hiện Hội đồng ghép gan cũng đang xem xét 4 trường hợp ghép gan cho người
lớn và sẽ có quyết định cuối cùng vào đầu tháng 1-2004.
c. Hiện trạng
Đến năm 2009, Việt Nam có thể đáp ứng được yêu cầu ghép gan cho 80 ca mỗi năm
ở trẻ em và tiếp theo là ở người lớn.
Với sự trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài, ca phẫu thuật ghép gan thứ năm ở trẻ em
tại Bệnh viện Nhi đồng 2 ngày 25-2 đã thành công không ngoài dự kiến.
Hoãn khẩn cấp
Khoảng một tháng nữa là tròn một năm bé Nguyễn Trịnh Chỉ Hiền, 16 tháng tuổi

(TP.HCM), nhập viện điều trị và chuẩn bị cho ca phẫu thuật ghép gan. Theo bệnh sử, lúc
bốn tháng tuổi, bé Hiền bị vàng da sau sinh, tiêu phân bạc màu, được chẩn đoán là teo
12
đường mật bẩm sinh và cần mổ nối mật ruột kết hợp làm sinh thiết gan tại Bệnh viện Nhi
đồng 1. Kết quả cho thấy bé bị xơ gan sơ sinh. Sau mổ, bé nhiều lần bị nhiễm trùng
đường mật và xuất huyết tiêu hóa. Bé Hiền nhập viện Bệnh viện Nhi đồng 2 vào tháng 4-
2007 và được chỉ định ghép gan.
Giáo sư Trần Đông A, nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng 2, cho biết trước
ca ghép gan có rất nhiều việc phải chuẩn bị: thực hiện các xét nghiệm sinh hóa, huyết học
và hình ảnh học ở bé Hiền và cả người cho (cha bé Hiền), nâng tổng trạng bệnh nhân,
ngăn ngừa và điều trị các biến chứng của bệnh suy gan giai đoạn cuối
Sau nhiều lần chẩn đoán qua hình ảnh từ xa trên Internet, ngày 4-11-2007, các
chuyên gia Bỉ đã có mặt tại TP.HCM để dự họp hội đồng ghép gan (do phó chủ tịch
UBND TP.HCM làm chủ tịch hội đồng) lần cuối cùng trước khi phẫu thuật ghép gan cho
bé Hiền vào ngày 5-11. Mọi sự chuẩn bị đã hoàn tất. Đến cận giờ “G”, trưa ngày 4-11,
bác sĩ Hà Mạnh Tuấn, Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng 2, thông báo dừng khẩn cấp ca ghép
gan với lý do bé Hiền đột ngột lên cơn suyễn và kèm theo viêm phổi.
Mọi sự chuẩn bị sáu tháng trước đã trở thành công cốc. Các chuyên gia trở về Bỉ,
còn bé Hiền được tiếp tục theo dõi và được chỉ định phẫu thuật tiếp vào tháng 2-2008.
Chạy đua với tử thần
Trước giờ phẫu thuật ngày 25-2, bé Hiền đang trong tình trạng biến chứng suy gan
nặng, ói máu, viêm phổi, suy dinh dưỡng. Theo giáo sư Trần Đông A, lần này bắt buộc
phải mổ để cứu cháu bé. Cuộc chạy đua với tử thần bắt đầu. 7 giờ sáng ngày 25-2, anh
Trịnh Vạn Thành, cha của bé Hiền, vào phòng phẫu thuật. 9 giờ, các bác sĩ tiến hành lấy
gan. việc này kéo dài ba tiếng đồng hồ. Trong khi người cha đang được cắt gan, bé Hiền
cũng vào phòng phẫu thuật. 13 giờ, các bác sĩ tiến hành ghép gan cho bé và ca ghép kéo
dài bảy tiếng, công việc ghép hoàn thành vào lúc 18 giờ. Các bác sĩ thở phào.
Bé Hiền đang được gây mê.
Theo các bác sĩ, ca ghép gan lần này có ba điểm đặc biệt. Thứ nhất, cha bé là
người Hong Kong, vì có yếu tố nước ngoài nên phải có ý kiến của Sở Y tế mới tiến hành

được. Thứ hai, bé là người duy nhất trong năm ca vừa qua nhận gan từ cha (bốn bé trước
nhận gan từ mẹ). Và cuối cùng, bé Hiền không phải tạo lồng ngực nhân tạo để đủ không
gian cho gan. Các bác sĩ nhận định, ca ghép gan này ngoài yếu tố chuyển giao kỹ thuật
13
còn là vì sự nhân đạo. Bởi nếu không phẫu thuật, khoảng một tháng nữa bé Hiền khó tồn
tại vì bé đã ở tình trạng xơ gan giai đoạn cuối. Để bảo đảm cuộc phẫu thuật thành công,
Bệnh viện Nhi đồng 2 đã chuẩn bị trang thiết bị tốt nhất từ cả tháng trước. Trong một tuần
trở lại đây, phòng mổ được thanh trùng, lau đi lau lại hàng chục lần. Song song đó, bệnh
viện còn cấy trùng xem còn chỗ nào trong phòng có vi trùng xâm nhập hay không.
Vào lúc 21 giờ ngày 17/11, Giáo sư
Trần Đông A, nguyên Phó Giám đốc bệnh
viện Nhi Đồng 2, người trực tiếp tham gia
trong êkíp ghép gan cho bệnh nhi nhỏ tuổi
nhất ở Việt Nam (10 tháng tuổi) Lê Anh
Minh Khuê cho biết ca ghép gan này đã
thành công.
Ca phẫu thuật bắt đầu từ lúc 9 giờ và
kết thúc vào 21 giờ cùng ngày, trong khi phẫu
thuật ghép gan cho bé gặp một số khó khăn
do mẹ của bé chị Lê Thị Vân Anh có những
mạch máu thuộc loại khó, khác biệt mạch máu gan giữa mẹ và bé rất nhiều (đây cũng là
trường hợp thường gặp trong các ca ghép gan).
Việc lấy gan phải tiến hành trong 8 giờ vì phải thận trọng trong việc giữ các mạch
máu ở gan. Bé được mổ để ghép gan vào khoảng 12 giờ.
Đến 5 giờ chiều chị Vân Anh mẹ bé đã mổ xong và đưa vào phòng hồi sức của bệnh viện,
hiện chị đã tính táo, không còn thở nội khí quản, tiếp xúc tốt.
21 giờ, Bé Khuê đã phẫu thuật xong và được đưa vào phòng hồi sức tích cực của
bệnh viện, bé vẫn phải hỗ trợ thở oxy, sau khi siêu âm thấy mạch máu qua gan tốt. Đây là
dấu hiệu tốt trong các ca phẫu thuật ghép gan.
Đoàn chuyên gia Bỉ gồm 2 bác sĩ và 1 điều dưỡng đã trực tiếp tham gia vào êkip

phẫu thuật.
Các bác sĩ sẽ tiến hành khám lại cho bé vào 9 giờ ngày 18/11. Đây là ca ghép gan
thứ 6 thành công tại Bệnh viện Nhi Đồng 2.
Theo hồ sơ bệnh án, Khuê bị teo đường mật bẩm sinh, đã được mổ can thiệp lúc 2,5 tháng
tuổi nhưng không hiệu quả. Đến nay, bé Khuê nặng 8,7kg và đang ở tình trạng suy gan
mãn giai đoạn cuối./.
Việt Nam có thể tự ghép gan!
Giáo sư Reding (Bỉ) khẳng định rằng sau khi kết thúc chương trình hợp tác ghép gan với
Bỉ (vào năm 2009), các bác sĩ Bệnh viện Nhi đồng 2 có thể tự ghép gan được. Theo vị
giáo sư Bỉ này, Bỉ sẽ giúp Việt Nam đào tạo bác sĩ để có thể đáp ứng được yêu cầu ghép
gan cho 80 ca mỗi năm ở trẻ em và tiếp theo là ở người lớn. Giáo sư Reding nói để có thể
tự ghép gan, các bác sĩ Việt Nam phải cần phẫu thuật thực nghiệm trên động vật. Hiện tại,
mỗi tuần có thể thực nghiệm một lần, sau đó tăng lên hai lần. Trong phẫu thuật ghép gan
đòi hỏi những kỹ thuật nghiêm ngặt và chuẩn xác nên phải thực nghiệm trên động vật
càng nhiều càng tốt.
14
Ghép gan thành công.
Theo giáo sư Trần Đông A, một ca ghép gan trẻ em trên thế giới chi phí đến 100 ngàn
USD, còn ở Việt Nam hiện tại chỉ tính tiền thuốc men đã là 200 triệu đồng, đó là chưa kể
tiền công Việc ghép gan rất tốn kém, nhất là khâu hậu phẫu phải tiếp tục theo dõi biến
chứng vài ba tháng. “Sau ca ghép gan thứ năm này, kỹ thuật của chúng ta đã dần hoàn
thiện và tương lai không xa chúng ta hoàn toàn có thể tự làm được” - giáo sư A khẳng
định.
“Cái khó nhất của việc ghép gan là phải bảo đảm phẫu thuật thành công lấy gan ở người
cho và ghép cho người nhận. Trên thế giới chỉ mới có 300 ca lấy gan từ người sống, riêng
Bỉ là 100 ca. Bởi vậy, trước khi ghép phải tốn nhiều tháng liền theo dõi, chụp hình, phân
tích, tính toán kích cỡ, đường kính của gan người cho và người nhận để khi ghép vào
chính xác Chỉ cần một sơ suất nhỏ là có thể gây chết bệnh nhân ngay trên bàn mổ” -
giáo sư A cho biết.
2.5. Gép tuỷ ở Việt Nam

Ghép tủy ở Việt Nam thành tựu thần kỳ
Lấy máu cuống rốn để
tách tế bào gốc.
15
Có lẽ trong suốt cuộc đời mình, anh Dương Lý Bảo không bao giờ quên
được buổi sáng ngày 15/7/1995 – buổi sáng mà anh là người đầu tiên trong
lịch sử y học Việt Nam, được đưa vào phòng ghép tủy tại Bệnh viện Truyền
máu, huyết học TP HCM (BVTMHH). Trước đó, anh bị bệnh bạch cầu kinh
dòng hạt – một dạng ung thư máu ác tính, sự sống chỉ còn tính được từng
ngày.
Đúng 9h, êkíp ghép tủy gồm Phó giáo sư – bác sĩ Trần Văn Bé, Giám đốc
BVTMHH, bác sĩ Bỉnh (nay là Giám đốc BVTMHH), bác sĩ Huỳnh Nghĩa (nay
là tiến sĩ), bác sĩ Tuấn cùng một số kỹ thuật viên, điều dưỡng và chuyên gia Đài
Loan bắt đầu tiến hành những thao tác phức tạp.
Phó giáo sư - bác sĩ Trần Văn Bé giải thích: “Trường hợp anh Bảo chúng tôi gọi
là dị ghép, nghĩa là lấy tế bào gốc từ tủy xương của người anh ruột Bảo, ghép
vào. Còn nếu lấy tế bào gốc của anh Bảo để ghép cho anh Bảo, thì gọi là tự
ghép”.
Để thực hiện ca ghép tủy đầu tiên tại Việt Nam, BVTMHH đã chuẩn bị từ năm…
1992, bằng cách cử cán bộ đi tham quan, tìm hiểu tại một số bệnh viện chuyên
ngành về cấy ghép nội tạng ở Pháp, Mỹ, Đức, Hồng Công, Đài Loan, đồng thời
với việc chuẩn bị cơ sở vật chất.
Êkíp đầu tiên ghép tế bào gốc tại Bệnh viện
truyền máu, huyết học.
Bên cạnh đó, lãnh đạo ngành y tế thành phố đã nhiệt tình ủng hộ, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho BVTMHH thành lập Khoa Ghép tủy xương.
Phó giáo sư - bác sĩ Trần Văn Bé cho biết: “Cuối cùng, chúng tôi chọn Đài Loan
làm nơi gửi người đến học tập vì ở đây có nhiều điều kiện tương tự như Việt
Nam”.
Tuy nhiên, việc cấy ghép chưa hẳn là đã suôn sẻ bởi lẽ theo nhận xét của một số

chuyên gia Pháp, thì “nhanh nhất phải 10 năm nữa, Việt Nam mới có thể thực
hiện được kỹ thuật này”.
Vì thế, ngay trong nội bộ BVTMHH, cũng có những ý kiến tỏ ra nghi ngờ về sự
thành công của việc cấy ghép. Tiến sĩ – bác sĩ Huỳnh Nghĩa cười: “Hồi ấy, đã có
tin truyền miệng, rằng nếu thất bại thì thầy Bé sẽ… ra đi” bởi trước khi ghép,
anh Dương Lý Bảo đã được cho dùng thuốc để diệt sạch tủy xương.
Tiếp theo, êkíp cấy ghép đặt một đường truyền theo tĩnh mạch trung tâm, rồi tế
bào gốc lấy từ tủy xương của người anh ruột Bảo, được đưa vào. Nguy cơ lớn
nhất ở đây là tế bào gốc không “bám” được - mà từ chuyên môn gọi là “thải
ghép”, chưa kể đến nhiễm trùng tủy xương.
Đến đây, xin được nói một chút về chuyện cấy ghép. Hiểu một cách nôm na, tế
bào máu - bao gồm hồng huyết cầu, bạch huyết cầu và tiểu cầu được hình thành
từ tủy xương rồi sau một thời gian sống nhất định, những tế bào ấy chết đi và
được cơ thể tự thay mới.
16
Tuy nhiên, nếu tủy xương chỉ sản sinh ra một dòng hồng cầu, bạch cầu hay tiểu
cầu - hoặc nếu có sinh ra nhưng giảm nhiều dòng kết hợp, thì y học gọi đó là suy
tủy.
Hiện tượng suy tủy dẫn đến các dòng máu thiếu tế bào máu và hậu quả là người
ta mắc phải những chứng bệnh tương ứng với chức năng của từng loại tế bào,
chẳng hạn như thiếu hồng cầu thì da dẻ xanh xao, khó thở, suy nhược…, thiếu
bạch cầu thì sức đề kháng kém, dễ mắc các bệnh nhiễm trùng, còn thiếu tiểu cầu
thì dễ bị chảy máu…
Ngay từ năm 1898, bác sĩ Paul Ehrlich đã mô tả bệnh suy tủy, và bác sĩ
Charffard là người đầu tiên đặt tên cho nó là bệnh “thiếu máu ác tính giảm sinh”.
Đến đầu thế kỷ XX, y học chia bệnh suy tủy làm hai nhóm: Nhóm bẩm sinh và
nhóm mắc phải.
Nhóm bẩm sinh thường ít gặp, điển hình là bệnh thiếu máu Fanconi. Riêng suy
tủy mắc phải hầu hết do virút, do hóa chất mà cụ thể là một số thuốc trị bệnh như
Chloramphenicol (bệnh thương hàn, một vài bệnh đường ruột), nếu sử dụng liều

4gr/lần thì tỉ lệ suy tủy là 1/20 nghìn người, Quinacrin (trị bệnh sốt rét) tỉ lệ 1/40
nghìn người, Phenybutazone (bệnh viêm khớp) tỉ lệ 1/100 nghìn người. Với hóa
chất, Benzen là một chất dung môi được dùng rộng rãi trong sản xuất đồ da, cao
su… mà khi tiếp xúc, nó sẽ gây suy tủy.
Lịch sử ghép tủy được khởi đầu bởi nghiên cứu của Tiến sĩ Jacobson khi chiếu
xạ cho chuột với liều gây tử vong, nhưng vẫn có thể cứu sống bằng cách truyền
cho nó tế bào lá lách của chuột đồng chủng. Tuy nhiên, mãi đến năm 1960, ca
ghép tủy đầu tiên trên chó mới được tiến hành, đồng thời với việc tìm ra các chất
ức chế miễn dịch như Cyclophosphamide, Busulfan nên vào giai đoạn 1970 -
1980, người ta mới chính thức thực hiện việc ghép tủy - nhưng chỉ dừng lại ở
những cặp sinh đôi, hoặc đồng gien HLA (hệ kháng nguyên tương đồng tổ chức).
Đến năm 1985, phương pháp loại bỏ lympo T trong dịch tủy trước khi ghép đã
giúp kéo dài tuổi thọ tủy ghép, hạn chế việc đào thải. Nhất là khi y học phát hiện
ra tế bào nguồn ở máu ngoại vi thì từ đây, việc ghép tủy bắt đầu được tiến hành
đại trà.
Quay lại ca ghép tủy cho bệnh nhân Dương Lý Bảo, suốt những ngày sau đó,
không riêng gì êkíp cấy ghép, mà hầu như cả BVTMHH đều hồi hộp theo dõi
từng diễn tiến. Đã thế, 3 ngày sau khi cấy ghép cho Dương Lý Bảo, Phó giáo sư
– bác sĩ Trần Văn Bé cùng các cộng sự lại mạnh dạn tiến hành ghép tủy cho 2
cháu – một 9 tuổi và một 7 tuổi, cả hai đều mắc bệnh thiếu máu bẩm sinh
(thalasemie) PageBreak
Kết quả không phụ lòng mong đợi, anh Dương Lý Bảo đã khỏi bệnh hoàn toàn;
còn 2 cháu bé, bệnh thiếu máu từ thể nặng đã chuyển sang thể nhẹ. Phó giáo sư -
bác sĩ Trần Văn Bé cho biết: “Các ca đầu tiên, chúng tôi miễn phí hoàn toàn và
hiện nay, anh Bảo vẫn sống khỏe mạnh ở Đồng Nai. Riêng 2 cháu, mỗi năm chỉ
cần truyền máu một lần thay vì phải truyền hàng tuần như trước khi cấy ghép”.
17
Phó giáo sư Trần Văn Bé và tiến sĩ Huỳnh
nghĩa đang trao đổi về một trường hợp bệnh
nhi chuẩn bị ghép tế bào gốc.

Không chỉ dừng lại ở việc cấy ghép tủy xương, ngày 1/1/2002, BVTMHH đã
tiến hành ghép tế bào gốc lấy từ máu cuống rốn – và đây cũng chính là ca cấy
ghép đầu tiên ở Việt Nam bằng hình thức này. Hiện tại, trong kỹ thuật cấy ghép,
BVTMHH có 3 loại sản phẩm: Một là, tế bào gốc từ tủy xương. Dịch tủy xương
được chọc hút tại tủy xương của chính người bệnh - hoặc của người cho tủy rồi
qua quá trình xử lý, được truyền lại cho người bệnh.
Hai là, tế bào gốc máu ngoại vi. Tiến sĩ - bác sĩ Huỳnh Nghĩa giải thích: “Máu
được lấy từ tĩnh mạch của người cho rồi qua hệ thống máy móc xử lý để thu tế
bào gốc, truyền cho bệnh nhân. Còn hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, thì trả lại
người cho…”.
Sản phẩm thứ ba là, tế bào gốc từ máu cuống rốn. Cũng vẫn với phương pháp xử
lý để thu tế bào gốc, đây là một sản phẩm có nguồn cung ứng dồi dào từ các
bệnh viện sản khoa nhưng nhược điểm của nó là trong máu cuống rốn, số lượng
tế bào gốc ít. Vì thế, nếu bệnh nhân có cân nặng trên 50kg sẽ khó ghép. Tuy
nhiên, theo lời bác sĩ Bỉnh: “Nếu cùng một lúc có 2 hoặc 3 mảnh ghép phù hợp,
thì vẫn làm được như thường”.
Cho đến nay, theo bác sĩ Bỉnh cho biết thì, BVTMHH đã thực hiện thành công
60 ca cấy ghép – trong đó gần một nửa là trẻ em, đồng thời Ngân hàng máu
cuống rốn của BVTMHH được Tổ chức Y tế thế giới công nhận là 1 trong 7
ngân hàng máu cuống rốn châu Á.
Bên cạnh đó, BVTMHH còn chuyển giao kỹ thuật cho Bệnh viện Trung ương
Huế, Viện Quân y 108 và hai nơi này, đã ghép thành công cho bệnh nhân.
Đến tháng 7/2006, Bệnh viện Nhi Trung ương ở Hà Nội cũng thực hiện ca cấy
ghép tủy xương và tế bào gốc đầu tiên. Điều khích lệ nhất là sau khi cấy ghép,
bệnh nhân chỉ cần uống thuốc chống thải ghép từ 6 tháng đến 1 năm, thay vì phải
uống suốt đời như trong các trường hợp ghép gan, ghép thận.
Phó giáo sư - bác sĩ Trần Văn Bé nói: “Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn trăn trở là
18
chi phí cấy ghép khá cao. Nếu là dị ghép, phải mất khoảng 350 triệu đồng; còn
nếu tự ghép, thì khoảng 170 triệu” bởi lẽ sau cấy ghép, bệnh nhân phải cần đến

những loại kháng sinh đặc trị chống nhiễm trùng và thuốc chống thải ghép, giá
rất đắt.
Nhưng nếu so sánh với một số nước trong khu vực như Singapore, một ca dị
ghép có giá 80 nghìn USD, tự ghép là 60 nghìn USD hay như Trung Quốc, dị
ghép 60 nghìn, tự ghép 40 nghìn USD, thì chi phí của BVTMHH vẫn được coi là
thấp nhất.
Vào thời điểm chúng tôi viết bài này, BVTMHH hiện còn gần 10 bệnh nhân
đang chờ được cấy ghép tế bào gốc. Chị Nguyễn Thị Bích Thủy ở Kiên Giang,
nói: “Lúc bác sĩ dưới tỉnh cho biết con tôi bị ung thư máu, cả nhà tôi khóc ròng
vì cứ nghĩ ung thư là chết. Sau đó, bệnh viện chuyể120
n con tôi lên đây. Mấy ngày vừa rồi, cháu đã được làm các xét nghiệm và sắp tới,
cháu được “vô tủy”, tôi mừng lắm”.
Ở một giường bệnh khác, anh Trần Văn Lâm, bị suy tủy, đầu trọc lóc, cười:
“Khỏe rồi anh ơi. Bây giờ chỉ mong cho mau xuất viện, về đi mần tiếp kiếm tiền
nuôi con, nuôi vợ”.
Tất cả những thành công đã khẳng định rằng, mặc dù ngành cấy ghép tế bào gốc
ở nước ta vẫn còn non trẻ với những bước đi chập chững, nhưng nó đã là hy
vọng và niềm tin lớn cho những người chẳng may mắc phải bệnh hiểm nghèo
Ngày 22/8, tin Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết mặc dù còn sốt nhưng cơ
thể bệnh nhi Đặng Gia Hùng đã sinh tủy mới.
Bệnh nhi Đặng Gia Hùng
trong phòng chăm sóc đặc
biệt.
Mặc dù bệnh nhi Đặng Gia Hùng bị sốt cả tuần nay phải dùng kháng sinh liều
cao do nhiễm trùng nhưng hiện đã tỉnh táo. Việc sinh tủy mới này diễn ra thì ca
ghép mới được coi là thành công.
Theo dự kiến phải 2 tuần sau ca ghép tủy mới được sinh ra nhưng đến nay mới
được 10 ngày cơ thể bệnh nhi đã sinh tủy. Thời gian tới, bệnh nhi Đặng Gia
Hùng tiếp tục được theo dõi sức khỏe nghiêm ngặt.
Từ sau ca ghép tủy diễn ra, bệnh nhi đã phải trải qua một số ‘’sự cố’’ như tắc

mạch gan, sốt kéo dài do nhiễm trùng. Đến nay, chức năng gan của bệnh nhi đã
trả lại bình thường. Người cho tuỷ là cháu Đặng Thu Thảo, 13 tuổi - chị gái bệnh
19
nhi Hùng - cũng đã bình phục trở lại nhưng vẫn đang phải ở trong phòng vô
trùng với Đặng Gia Hùng.
Dự kiến, nếu tủy sau ghép thích ứng với cơ thể và bệnh nhi Hùng phục hồi tốt thì
thì phải sau 9 tháng bệnh nhi mới có thể cho xuất viện.
Bệnh nhi Hùng sẽ chỉ phải uống thuốc chống thải ghép trong 9 tháng. Chi phí
phẫu thuật và thuốc đều được miễn phí hoàn toàn.
2.6. Cấy ghép tế bào gốc: Những triển vọng trong điều trị
[02/04/2005 - Sinh học Việt Nam]
Trên thế giới, cứ 1.000 người thì có 4 người bị mắc bệnh ung thư máu. Để điều
trị căn bệnh hiểm ác này, đáng chú ý hiện nay là phương pháp cấy ghép tế bào
gốc tạo huyết. Không chỉ có vậy, phương pháp này còn mở ra nhiều triển vọng
mới cho việc điều trị nhiều bệnh khác, ngoài các bệnh lý về máu.
Tế bào gốc và lịch sử nghiên cứu tế bào gốc
Nhóm một gồm các tế bào lăng kính mắt, tế bào thần kinh, tế bào cơ tim. Nếu
các loại tế bào này bị tổn thương, thì phần bị khuyết tổn này không thể có những
tế bào gốc sinh ra chúng nữa và những tế bào đã biệt hóa lành còn lại cũng
không có khả năng tự phân ra thành các tế bào biệt hoá mới để bù đắp, khôi phục
phần khuyết tổn mô tế bào.
Nhóm hai gồm các tế bào như nguyên bào sợi của da, tế bào cơ trơn, tế bào nội
mạc thuộc hệ mạch máu, tế bào biểu mô của đa số các nội tạng như gan, tuỵ,
thận, phổi, tuyến tiền liệt, tuyến vú. Các tế bào này ở trạng thái G0 của chu kỳ
phân chia tế bào. Khi mô tạng bị tổn thất, các tế bào nhóm này có khả năng tự
phân chia, sinh ra các tế bào biệt hoá mới để thay thế các tế bào bị tổn thất. Ví dụ
khi bị thương ở da, sẽ có sự tăng sinh của các tế bào nguyên bào sợi, các tế bào
nội mạc mạch máu để hình thành mô hạt lành, làm liền sẹo vết thương; hoặc khi
phẫu thuật cắt bỏ một phần gan bị tổn thương, các tế bào gan lành sẽ phân chia
tăng sinh nhằm bù lại phần mô gan bị mất.

Nhóm ba gồm các tế bào như các tế bào biểu bì, các tế bào biểu mô ống tiêu hóa.
Đây là các tế bào có thời gian sống rất ngắn nên chúng sẽ liên tục được một lớp
tế bào gốc phân chia thành các tế bào mới để thay thế liên tục. Các tế bào gốc
(stem cells) của người trưởng thành có khả năng phân chia tế bào, sinh ra một
cặp tế bào chị - em (daughter cells), trong đó một tế bào sẽ phát triển để biệt hóa,
còn một tế bào thì vẫn là tế bào gốc. Như vậy, các tế bào gốc này sẽ là nguồn
sinh sản liên tục trong suốt cuộc đời một con người. Trong nhóm tế bào biệt hóa
này còn có một loại tế bào gốc đặc biệt, đó là các tế bào gốc của tủy xương (stem
cells in the bone marrow). Đây là các tế bào gốc sinh ra nhiều loại tế bào biệt hóa
của hệ máu - các tế bào gốc tạo huyết khi biệt hóa đã trở thành nhiều dòng tế bào
máu: Hồng cầu, bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu ái toan, ái kiềm, bạch cầu
đơn nhân, lympho bào, tiểu cầu. Thời gian tồn tại của các tế bào máu đã biệt hóa
này rất ngắn, từ vài ngày đến vài tháng.
Vào giữa thế kỷ XIX, các nhà khoa học đã nhận ra rằng, tế bào là những khối
20
kiến tạo cơ bản của sự sống và chính tế bào hình thành nên các tế bào khác. Đầu
thế kỷ XX, giới khoa học châu Âu phát hiện thấy mọi tế bào máu đều bắt nguồn
từ một ''tế bào gốc'' đặc thù, riêng các tế bào phôi gốc ở chuột lại được phát hiện
vào năm 1981. Sau nhiều năm nghiên cứu về sinh học của tế bào gốc phôi chuột,
vào năm 1998, các chuyên gia thuộc Đại học Wisconsin (Mỹ) do James
Thomson đứng đầu, đã phân lập và nuôi tế bào gốc từ phôi người. Các nhà
nghiên cứu thuộc Đại học Johns Hopskins do John Gearhart làm trưởng nhóm
cũng đã phân lập được tế bào mầm (tế bào sinh dục) của người. Năm 1999 và
2000, các nhà khoa học phát hiện rằng, việc điều khiển các mô của chuột trưởng
thành có thể khiến chúng cung cấp những loại tế bào nhất định. Trong những
điều kiện thích hợp, tế bào gốc có thể biến thành các loại tế bào chuyên biệt
khác, chẳng hạn: Tế bào thần kinh, cơ, da, gan
Trong quá trình nghiên cứu tế bào gốc, các nhà khoa học đã ứng dụng những kỹ
thuật nhân bản phôi tương tự như cách làm của nhóm nghiên cứu do TS Ivan
Wilmut phụ trách trong việc tạo ra phôi nhân bản vô tính để sinh ra cừu Dolly.

Tuy nhiên, điểm khác cơ bản là họ sử dụng một tế bào biệt hóa của con người và
noãn bào (trứng) người để tạo ra nang nguyên bào và sẽ lấy các tế bào phôi gốc
ra để nuôi ở các môi trường nuôi cấy tế bào phôi gốc (ES). Nguyên tắc cơ bản
cũng vẫn là ghép nhân của một tế bào cơ thể đã biệt hóa (như tế bào da) vào
noãn bào mà trước đó nhân của nó đã được hút ra. Các tế bào phôi gốc này được
sử dụng để nghiên cứu quá trình phát triển về sinh học, về phôi học, đặc biệt là
sự phát triển của chúng thành các tế bào biệt hóa hoặc các tế bào gốc ở người
trưởng thành. Hiện nay, thế giới đã có một chương trình nghiên cứu về sinh học
các tế bào gốc ở người (human stem cell biology), trong đó tập trung nghiên cứu
các điều kiện sinh học và môi trường nhất định cho sự phát triển từ tế bào phôi
gốc thành các dòng tế bào biệt hóa nhất định để ứng dụng trong công nghệ sinh
học kiến tạo các loại mô (tissue engineering), từ đó tạo ra được một số bộ phận
hoặc cơ quan của cơ thể con người, nhằm mục đích chữa bệnh. Ví dụ như kiến
tạo mô tụy để chữa bệnh tiểu đường, mô da để cấy vào các phần khuyết da, các
tế bào thần kinh, các tế bào cơ tim để bổ sung vào các tổn thương thực thể của
một số bộ phận hoặc cơ quan của cơ thể
Tế bào gốc hiện được phân lập theo ba cách: Lấy chúng từ mô trong bào thai bị
sẩy, phôi thai còn thừa trong các chương trình thụ tinh ống nghiệm và một số mô
trưởng thành trong cơ thể sinh vật sống. Mỗi nguồn dường như đều có những lợi
thế và hạn chế riêng. Có thể tránh được hiện tượng đào thải nếu lấy tế bào gốc từ
mô trưởng thành của một người mắc một chứng bệnh nào đó rồi nuôi chúng để
tái
tạo cơ quan hoặc mô. Đương nhiên, nếu đó là bệnh di truyền, cơ quan và mô
được tái tạo cũng sẽ mắc chính bệnh đó. Hạn chế của việc phân lập tế bào gốc
trưởng thành là dường như chúng không có khả năng phát triển thành nhiều loại
tế bào khác nhau như tế bào gốc phôi thai và không thể phân chia trong một thời
gian dài. Vai trò chính của tế bào gốc trưởng thành trong một sinh vật sống là
duy trì và sửa chữa mô mà trong đó chúng được tìm thấy.
21
Các nhà khoa học cũng hy vọng rằng, những kết quả nghiên cứu sinh học các tế

bào gốc sẽ được ứng dụng vào công nghệ sinh học kiến tạo mô, trong tương lai
có thế chế tạo được một số tạng như thận, tim, tụy… để thay thế các tạng bị suy
hỏng ở các giai đoạn cuối, cứu sống tính mạng của nhiều bệnh nhân.
Ngày 20.5.2004, Chính phủ Anh đã thành lập Ngân hàng tế bào gốc, thuộc sự
quản lý của Viện Kiểm soát và Tiêu chuẩn Sinh học quốc gia (NIBSC). Ngân
hàng tế bào gốc đầu tiên trên thế giới này sẽ có vai trò lưu giữ, mô tả đặc điểm
và cung cấp các dòng tế bào gốc được kiểm soát về chất lượng, phục vụ cho
công tác nghiên cứu và điều trị. Đây là một sự kiện khoa học quan trọng, vì tế
bào gốc là những tế bào nguồn để sinh ra các tế bào biệt hóa của trên 200 loại tế
bào biệt hóa của cơ thể con người từ thời kỳ nang nguyên bào. Ở thời điểm này,
loại tế bào gốc này được gọi là tế bào phôi gốc. Tuy nhiên, cũng có nhiều người
phản đối thành lập Ngân hàng tế bào gốc này, họ cho rằng việc sử dụng tế bào
gốc từ phôi người là vô đạo đức. Ngay cả những người ủng hộ cũng thừa nhận
rằng, cần phải tiến hành nhiều nghiên cứu hơn nữa để hiểu chính xác cơ chế hoạt
động của tế bào gốc và tiềm năng của chúng trong việc điều trị những chứng
bệnh như tiểu đường, ung thư, Parkinson và Alzheimer. Ngày 11.8.2004, ở Anh,
lần đầu tiên Cơ quan về phôi thai và thụ tinh ở con người đã cấp giấy phép cho
Trung tâm Vì sự sống thuộc Viện Đại học Newcaste để nghiên cứu phát triển
công nghệ nhân bản vô tính trong điều trị (license for therapeutic cloning), cho
phép các nhà khoa học thực hiện việc chế tạo phôi người và từ đó thu nhận được
tế bào phôi gốc dùng cho công tác điều trị một số bệnh. Ngân sách sử dụng cho
Ngân hàng tế bào gốc và nghiên cứu thu chế được các dòng tế bào phôi gốc là từ
2,6 đến 4,7 triệu bảng Anh. Với sự đầu tư và cho phép của chính quyền, các nhà
khoa học Anh đang đi đầu trong một lĩnh vực công nghệ sinh học hiện đại, đó là
nghiên cứu về tế bào gốc (stem cell research)… Mặc dù vậy, tất cả những vấn đề
nêu trên vẫn phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc về y đức và phải được sự
đồng tình của dư luận, cộng đồng xã hội. Tuyệt đối không được thương mại hóa
và không được phép sử dụng các thành quả nghiên cứu cho các mục đích có hại
cho xã hội, cộng đồng và nhân loại.
Cấy ghép tế bào gốc tạo huyết (cấy ghép tủy xương)

Tế bào gốc tạo huyết hay còn gọi là tế bào gốc tạo máu (blood stem cell) là các
tế bào nguyên sinh của tủy xương (phần mô mềm nằm ở giữa các ống xương).
Các tế bào gốc loại này luôn tự đổi sinh mới, biệt hóa và tạo ra hồng cầu, tiểu
cầu, các loại bạch cầu, các lympho bào, các tế bào sát thủ tự nhiên Các tế bào
này lưu hành trong máu và có những chức năng riêng: Hồng cầu có chức năng
vận chuyển ôxy từ các phế nang tới các tế bào, các mô toàn cơ thể và mang CO2
từ các tế bào tới các phế nang để thải ra ngoài. Cơ thể con người luôn có khoảng
30 tỷ hồng cầu. Các tiểu cầu có nhiệm vụ tạo ra các cục máu đông để cầm máu.
Các bạch cầu là đội quân bảo vệ cơ thể chống nhiễm trùng các loại. Các lympho
bào là các tế bào miễn dịch bảo vệ cơ thể. Ở cơ thể khỏe mạnh, các tế bào máu
hoạt động bình thường về số lượng và chất lượng; còn trong trường hợp có rối
loạn về các yếu tố của máu sẽ gây ra các bệnh lý như ung thư máu (bạch cầu
22
mạn dòng tủy, bạch cầu cấp dòng lympho), u tủy xương…
Trên thế giới, ca cấy ghép tuỷ xương đầu tiên đã được thực hiện năm 1958. Ở
Hoa Kỳ, hiện mỗi năm đã tiến hành cấy ghép tuỷ xương cho hơn 4.000 trường
hợp. Hiệu quả điều trị của phương pháp này sau khi điều trị bằng hóa chất thông
thường có tỷ lệ sống 5 năm không bệnh là 72%, trong khi tỷ lệ này ở các bệnh
nhân chỉ dùng hoá chất là 49%. Cấy ghép tuỷ xương chủ yếu được sử dụng để
điều trị ung thư, nhưng hiện nay phương pháp này cũng được sử dụng để chống
lại một số bệnh liên quan tới hệ miễn dịch và máu, chẳng hạn như bệnh thiếu
máu tế bào hình liềm hoặc đa xơ.
Tháng 9.2004, tôi có dịp dự một hội nghị quốc tế về điều trị ung thư ở Singapo
và tham quan một số cơ sở điều trị ung thư, trong đó có Trung tâm Huyết học và
Cấy tế bào gốc thuộc Nhóm Công ty tư nhân Chăm sóc sức khỏe Parkway. Tại
đây, các nhà khoa học đang nghiên cứu ứng dụng việc cấy tế bào gốc nhằm điều
trị ung thư tuyến tụy, ung thư tế bào thận, ung thư buồng trứng, di căn ung thư
đại tràng. Họ đã sử dụng cấy tế bào gốc từ tủy xương, từ máu ngoại vi, từ cuống
rốn và cả từ gan bào thai. Người cho tế bào gốc có thể là người cùng huyết
thống, anh chị em sinh đôi cùng trứng, hoặc cũng có thể là từ người không cùng

huyết thống. Tế bào gốc còn có thể lấy ở chính bản thân người bệnh từ trước và
được bảo quản đông lạnh sâu, khi cần dùng sẽ sử dụng lại cho người đó (tế bào
gốc tự thân). Để điều trị một số bệnh máu ác tính, việc truyền các tế bào gốc tạo
huyết đã đưa lại hiệu quả tốt với các dạng bạch cầu cấp dòng lympho, bạch cầu
mạn dòng tủy, u tủy xương và suy tủy. Kỹ thuật này trước đây thường được gọi
là ghép tủy xương (bone marrow transplant), nay được gọi thống nhất là cấy
23
ghép tế bào gốc tạo huyết (hematopoetic stem cell transplant).
Ở nước ta, việc cấy ghép tế bào gốc tạo huyết từ tuỷ xương đã được ứng dụng
trong điều trị các bệnh lý ác tính về máu từ năm 1995 tại Bệnh viện Huyết học
và Truyền máu Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1996, tại đây đã thực hiện tự ghép
tế bào gốc tạo máu ngoại vi và năm 2002 đã tiến hành dị ghép tế bào gốc tạo
máu từ máu cuống rốn để điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho. Bệnh viện
Trung ương Huế là cơ sở thứ hai trong cả nước đã thực hiện được kỹ thuật cấy
ghép tế bào gốc tạo huyết trong điều trị (từ đầu năm 2003). Mới đây, Bệnh viện
Trung ương Quân đội 108 cũng đã bắt đầu triển khai kỹ thuật này để điều trị cho
bệnh nhân u lympho không Hodgkin giai đoạn IIA (WF6). Đây là một loại ung
thư tế bào trong hệ bạch huyết, có thể lan sang hầu hết các bộ phận cơ thể. Sau
khi tiến hành hút tuỷ xương và tách lấy tế bào gốc (bảo quản trong nitơ lỏng,
nhiệt độ từ -196 đến -800C), bệnh nhân sẽ được điều trị bằng hoá trị liệu để diệt
hết các khối u và tế bào ung thư, cuối cùng là việc ghép lại tế bào gốc cho bệnh
nhân. Nếu sau vài tháng có thể phục hồi được các dòng tế bào máu ở tuỷ xương,
có nghĩa là đã cấy ghép thành công. Tuy nhiên, tỷ lệ rủi ro của phương pháp này
vào khoảng 10-20%. Bên cạnh đó, việc điều trị sau ghép cũng có vai trò sống
còn, bởi bệnh nhân có thể chết vì nhiễm khuẩn hoặc xuất huyết (lúc này tuỷ đã
được làm sạch, không còn bạch cầu để chống đỡ với các tác nhân gây bệnh)
Từ giữa tháng 3.2001, nước ta đã trở thành một trong bảy ngân hàng máu cuống
rốn của vùng châu Á, được Hiệp hội Máu cuống rốn Quốc tế kết nạp làm thành
viên. Kỹ thuật ghép tế bào gốc tạo huyết của ta cũng đã chính thức được thế giới
công nhận. Điều này mang một ý nghĩa hết sức quan trọng bởi việc mở rộng cơ

hội điều trị cho những bệnh nhân bị ung thư máu ác tính.
2.5. Ghép thận
Năm 1952, là một năm đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc trong kỹ thuật ghép
thận với việc hai bác sĩ Jean Hamburger và Louis Michon đã ghép thận thành công,
quả thận này được lấy từ người sống là mẹ của một bệnh nhân nam người Pháp.
Tuy nhiên, những quả thận này thường bị loại bỏ khỏi cơ thể người cho sau vài ba
tuần vì vấn đề miễn dịch. Nhờ những phát minh mới trong lĩnh vực miễn dịch, ghép
thận nhanh chóng trở thành một phương pháp chữa suy thận mạn tính. Phẫu thuật
24
này là kết quả của sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều chuyên khoa: niệu học, thận
học, phẫu thuật mạch máu, miễn dịch học, thận nhân tạo
Việc ghép thận hiện nay cũng đã qua giai đoạn thử nghiệm. Ghép thận có nhiều
thuận lợi hơn ghép gan. Bệnh nhân có thể chờ ghép thận nhờ chạy thận nhân tạo.
Thận được lấy từ người cho và việc bảo quản cũng dễ dàng hơn. Hiện nay trên thế
giới có hàng trăm trung tâm ghép thận và hàng vạn người được ghép với tỉ lệ sống
rất cao. Có thể lấy thận từ người chết để ghép với tỉ lệ thành công đạt 54%.
Hằng năm tại Mỹ có khoảng 200.000 bệnh nhân được chạy thận nhân tạo trong
khi chờ đợi được ghép thận. Có gần 11.000 trường hợp được ghép thận mỗi năm,
trong đó có 4.000 bệnh nhân được ghép thận từ người sống, còn lại là tặng vật của
những người bị chết. Ghép thận, mặc dù có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh sau khi
ghép như: việc gia tăng tần số ung thư của bệnh nhân, việc sử dụng thuốc ức chế
miễn dịch thường xuyên sẽ làm nảy sinh các rối loạn trong cơ thể, vấn đề ký ức tế
bào của cơ quan người cho mà một số công trình nghiên cứu đã nhắc đến Nhưng,
cho đến ngày hôm nay, ghép thận vẫn là một phương pháp điều trị hiệu quả cho
những bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối, nhất là những người trẻ tuổi.
Năm 1992, ca ghép thận đầu tiên tại Việt Nam do bệnh viện quân y thực hiện đã
thành công. Đến nay đã có trên 160 bệnh nhân được ghép thận, 8 bệnh viện đã thực
hiện được kỹ thuật này. Hiện nay nước ta đã ghép thận thàng công bằng kỹ thuật
nội soi ổ bụng. Từ năm 1993 đến nay, tại Trung Quốc đã có khoảng 60 000 ca ghép
thận.

2.6. Ghép tim
Ca ghép tim được thực hiện đầu tiên vào ngày 3/12/1967 do C.Bernard thực hiện ở
Anh. Một người đàn ông 50 tuổi nhận một quả tim trẻ, khỏe của một cô gai 20 tuổi.
Quả tim đã hoạt động trong cơ thể người nhận được 18 ngày. Sau đó có nhiều ca
ghép tim khác được thực hiện nhưng hầu hết bệnh nhân tồn tại được trong vòng 60
ngày, chỉ có một trường sống được 19 tháng. Cũng có nhiều thí nghiệm ghép tim
của tinh tinh và khỉ đầu chó cho người nhưng đều thất bại do cơ quan ghép quá nhỏ
so với cơ thể người. Ca ghép tim khỉ đầu chó được xem thành công đầu tiên là năm
1984, khi người ta đưa tim khỉ đầu chó vào một bé sơ sinh hai tuần tuổi. Em bé chỉ
sống được 20 ngày. Một trong những động vật được nghiên cứu nhiều nhất gần đây
là lợn - do nhiều nội tạng lợn có kích thước tương đương nội tạng người. Cơ thể
người không thải loại một số mô lợn - chẳng hạn van tim (hiện có khoảng 60.000
ca ghép van tim lợn cho người tại Mỹ mỗi năm).
25

×