Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

quá trình đổi mới tư duy của đảng về kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.77 KB, 34 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN
NHÓM 04
ĐỀ
TÀI
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
TƯ DUYCỦA ĐẢNG VỀ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Giáo viên hướng dẫn:
Thầy Trần Ngọc Anh
TP. Hồ Chí Minh,
Tháng 11 năm 2012
MỤC LỤC
Trang
1. Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trƣớc đổi mới 03
1.1. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp 03
1.2. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế 07
2. Sự hình thành tƣ duy của Đảng về kinh tế thị trƣờng thời kì đổi mới 10
2.1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII 10
2.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XI 16
Kết luận 23
Phụ lục 1 24
Phụ lục 2 26
Phụ lục 3 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
Trang 2
1. Cơ chế quản lí kinh tế thời kỳ trƣớc đổi mới
1.1. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp
Năm 1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi, hiệp định
Genève về Đông Dương được kí kết. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam


– Bắc. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và tiến bước lên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Sau khi hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa1 (XHCN), từ năm 1960 miền
Bắc bắt đầu áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Năm 1975, lúc này đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước bước vào thời kì xây dựng
và phát triển kinh tế – xã hội. Định hướng của Đảng và Nhà nước ta tại thời điểm đó đối
với việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước vẫn theo mô hình kế hoạch hoá tập trung
và được duy trì cho đến năm 1986.2
1.1.1. Những đặc điểm chủ yếu của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp ở
nước ta thời kì trước đổi mới
• Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, bằng
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh mang tính áp đặt từ trên xuống dưới.
– Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư,
tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có
thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh
nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà
nước thu.3
– Các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến một vấn đề duy nhất đó là hoàn thành chỉ tiêu, dù
cho chỉ tiêu đó có phi lý đến đâu. Bởi vì, doanh nghiệp không phải là người định giá bán
sản phẩm, không quan tâm đến cái gọi là lỗ hay lãi. Chế độ tài chính của Nhà nước thực
hiện theo nguyên tắc thu đủ, chi đủ. Nghĩa là Nhà nước sẽ thu lợi nhuận khi có lãi và
ngược lại cũng sẽ phải bù khi bị lỗ và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp này lỗ thì nhiều mà lãi thì ít do không có sự gắn liền giữa quyền lợi và trách nhiệm của
các cấp thực hiện.
• Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp rất sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp (can thiệp từ khâu cấp phát vốn, sản xuất đến khâu phân phối
sản phẩm) nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết
định của mình.
– Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước
phải gánh chịu. Hậu quả là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc vì không có quyền tự
Daitudien.net, Cải tạo xã hội
Tham khảo trực tuyến tại: />Tailieu.vn, Tiểu luận: “Cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam thời kì trước đổi mới”
Tham khảo trực tuyến tại: – tai – lieu/tieu – luan – co – che – ke – hoach – hoa – tap – trung – o – viet – nam –
thoi – ky – truoc – doi – moi – .1206810.html
PGS. TS. Nguyễn Viết Thông (Tổng chủ biên) (2010), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt
Nam, trang 142, 143.
Trang 3
chủ sản xuất kinh doanh, vừa ỷ lại vào cấp trên vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với
kết quả sản xuất, kinh doanh.4
– Giữa cơ quan hành chính – trực tiếp tham gia vào quá trình lên chỉ tiêu kế hoạch và
các doanh nghiệp – thực hiện chỉ tiêu, thì lại không có bất kỳ sự ràng buộc pháp lý nào với
hành động của mình tức là dù có làm sai đi chăng nữa thì họ cũng không phải chịu trách
nhiệm. Do đó, họ không có động lực để thực hiện kế hoạch một cách tối ưu nhất. Mà vấn
đề cả hai bên quan tâm đó là chạy theo và chạy đua với chỉ tiêu được ấn từ trên xuống, làm
thế nào cho thật đẹp sổ sách báo cáo, và cuối cùng là nhận được tấm bằng khen vì đã hoàn
thành xuất sắc chỉ tiêu đề ra. Khi mà chỉ tiêu không được hoàn thành đồng nghĩa với việc
số phận chính trị của ban lãnh đạo doanh nghiệp, tiền lương của cán bộ công nhân viên và
thành tích của doanh nghiệp cũng bị đe doạ theo.
• Thứ ba, quan hệ hàng hoá – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức. Quan hệ hiện vật là
chủ yếu.
– Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch toán kinh tế
chỉ là hình thức.
– Các công cụ như giá cả, lãi suất, tiền lương chỉ áp dụng để tính toán một cách hình
thức. Vì vậy nhiều hàng hoá quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản
xuất quan trọng, không được coi là hàng hoá về mặt pháp lý.
– Giá cả không phản ánh quan hệ cung cầu mà do Nhà nước đặt ra dùng để tính toán
cho việc cấp phát và giao nộp giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
– Tiền lương được quy định theo cấp bậc hành chính và thâm niên, tính theo chủ nghĩa
bình quân chứ không phải là được tính theo hiệu quả lao động của mỗi người. Các doanh

nghiệp khi không có tiền trả lương cho công nhân thì trả bằng sản phẩm. Đơn vị có cao su
trả bằng cao su, xí nghiệp có mũ cứng thì trả lương bằng mũ cứng, hay sản xuất sứ tích
điện thì trả bằng sứ tích điện… Những lúc như vậy, lĩnh lương xong cũng không biết đem
về đâu, làm gì?
– Tình trạng tranh mua, tranh bán làm cho giá của hàng hoá bị đẩy lên cao. Chi ngân
sách nhà nước cho tiền lương tăng vọt nhưng thu ngân sách lại không tăng bao nhiêu do
giá vật tư không tăng bằng mức Ban Chỉ đạo đề nghị. Lạm phát bùng nổ. Thứ tư, bộ máy
quản lý cồng kềnh và hoạt động kém hiệu quả.
– Trong bộ máy quản lý, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ
quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi
cao hơn người lao động. Hoạt động quản lý kém hiệu quả. Trong thực tế, bộ máy nhà nước
và doanh nghiệp quốc doanh còn xuất hiện tham ô và lãng phí (tuy phạm vi và mức độ
khác với ngày nay).5
1.1.2. Các hình thức của chế độ bao cấp
a) Bao cấp qua giá:
Thư viện khoa học, Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tham khảo trực tuyến tại:
/>ội_chủ_nghĩa
Giáo viên hướng dẫn Vũ Hải Hà , Phân tích các đặt trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
Tham khảo trực tuyến tại: – tai – lieu/de – tai – phan – tich – cac – dac – trung – cua – co – che – ke – hoach –
hoa – tap – trung – quan – lieu – bao – cap – .543911.html
Trang 4
– Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hoá thấp hơn giá trị thực của
chúng nhiều lần so với giá trị thị trường. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những
thứ đó được cho không. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
– Dưới thời bao cấp mua như cướp và bán như cho là cảnh thường thấy. Nhà nước quy
định mỗi gia đình được giữ 60% sản lượng lúa, số dư phải bán cho nhà nước. Sau đó phải
khổ sở đi mua gạo theo chế độ tem phiếu. Nhất là giá bán thấp hơn tiền vốn bỏ ra nên mới
có chuyện người dân tìm cách giấu lúa và nhiều chuyện dở khóc dở cười. Có chuyện người
dân giấu gạo cất đi, đến khi mở ra thì chuột đã ăn mất quá nửa, hay người nhà nước đến đo

bồ thóc để bắt bán ngay thóc thừa hay phạt vì không chịu nộp đủ.
b) Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật):
– Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên,
công nhân theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa
so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật thủ tiêu động lực kích
thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
– Thời bao cấp ai mua thứ gì cũng phải đến hợp tác xã mua bán hay cửa hàng mậu dịch
quốc doanh. Nhà nước bán hàng dưới giá thành và thấp hơn giá chợ. Để mua được thì rất
khó khăn vì hàng hoá không đủ để cung cấp. Các cửa hàng mậu dịch luôn ở tình trạng
thiếu hàng, mọi người xếp hàng chầu chực chờ hàng về để mua được đầu tiên.
c) Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn:
– Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, tuy dùng vốn ngân sách nhưng
không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó
vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy
sinh cơ chế “xin cho”.
– Người cho có thể cho ít, có thể cho nhiều và cũng có thể không cho. Bên xin thì phải
phụ thuộc vào bên cho và không thể tự quyết, tự tìm ra giải pháp để đáp ứng nhu cầu của
mình mà phải trông chờ vào bên cho. Nhiều thủ tục hành chính rườm rà hành dân để thể
hiện quyền lực nhà nước. Không dựa trên sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức, cá
nhân trong xã hội trong việc tiếp cận những dịch vụ nhà nước cung cấp; không dựa trên
những tiêu chí, biểu mẫu và quy trình cụ thể có thể theo dõi được để những cá nhân, tổ
chức xã hội có nhu cầu có thể đăng ký với cơ quan để thực hiện quyền của mình.
1.1.3 Những ưu và nhược điểm của kinh tế kế hoạch hoá tập trung
a) Ưu điểm
Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa vào sự tăng đầu tư, khai
thác tài nguyên, sức lao động giá rẻ và một số lợi thế khác, cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp có tác dụng nhất định.
– Nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của
cả nước vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong
quá trình công nghiệp hoá theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ chế này tạo

sự thống nhất trong thực hiện các mục tiêu.
– Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập
trung đã đáp ứng được yêu cầu của thời chiến, bởi vì do đất nước bị xâm lược, mục tiêu
của cả nước là giải phóng dân tộc. Bởi vậy thực hiện kế hoạch hoá tập trung sẽ huy động
được tối đa sức lực của nhân dân xây dựng và phát triển kinh tế để thực hiện mục tiêu đó,
đây là nhiệm vụ chung chứ không phải của riêng ai.
Trang 5
– Nhà nước thực hiện bao cấp hoàn toàn, giúp cho người chiến sĩ ra chiến trường cũng
yên tâm phục vụ chiến đấu hơn, bởi họ không phải lo nghĩ đến chuyện gia đình, vợ con ở
nhà, vì mọi thứ đã được nhà nước bao cấp.
b) Nhược điểm
Bên cạnh ưu điểm, cơ chế này còn mang rất nhiều hạn chế, khuyết tật ngay cả trong thời
chiến ở nước ta nhưng nó chưa bộc lộ một cách gay gắt. Cơ chế này chỉ thực sự bộc lộ
những khuyết điểm của nó sau năm 1975 khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng
và phát triển kinh tế. Một số nhược điểm của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung
như:
– Thủ tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ, triệt tiêu động lực kinh
tế, lao động sáng tạo đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo
của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
– Cơ chế này hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất,
làm giảm năng suất, chất lượng, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và gây ra nhiều
hiện tượng tiêu cực trong xã hội như tham ô, lãng phí.
– Đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính nhà nước trở nên quan liêu,
lộng quyền, hách dịch.
– Về mặt văn hoá trong nền kinh tế tập trung bao cấp, giáo dục trở thành độc quyền của
Nhà nước; nhà trường chỉ là nơi thực hiện mọi kế hoạch và chỉ tiêu, pháp lệnh mà Nhà
nước giao, không cần quan tâm nhiều đến đầu ra. Chúng ta không phủ nhận những thành
tựu của giáo dục do cơ chế tập trung bao cấp tạo ra, song cũng cần thấy rằng, cơ chế quản
lý đó đã làm cho hệ thống giáo dục thiếu tính cạnh tranh, kém năng động, sáng tạo, là
mảnh đất cho căn bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức tồn tại.

– Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên việc
áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại thì cơ chế quản
lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho nền kinh tế các nước XHCN,
trong đó có nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.6
Tóm lại, ở nước ta Đảng và nhà nước đã thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá
tập trung từ năm 1954 đến năm 1986, trong giai đoạn đầu, đất nước có chiến tranh cơ chế
này đã thể hiện sự phù hợp và đúng đắn, đáp ứng được những yêu cầu của thời chiến,
chính vì vậy nó đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Nhưng sau năm 1975 khi đất nước ta hoàn toàn thống nhất, thì
cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã không còn phù hợp nữa. Chính vì lí do
duy trì quá lâu nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung từ năm 1954 – 1986 đã làm cho đất nước
ta lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng nghiêm trọng nhất là trong thập niên 80 của thế
kỉ XX và đến năm 1986 Đảng và Nhà nước ta đã phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện nền kinh tế – xã hội.7
Giáo viên hướng dẫn Vũ Hải Hà , Phân tích các đặt trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
Tham khảo trực tuyến tại: – tai – lieu/de – tai – phan – tich – cac – dac – trung – cua – co – che – ke – hoach –
hoa – tap – trung – quan – lieu – bao – cap – .543911.html
Tailieu.vn, Phân tích các đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
Tham khảo trực tuyến tại: />hoa–tap–trung–quan–lieu–bao–cap.1248349.html
Trang 6
1.2. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
1.2.1. Hoàn cảnh
Xuất phát từ áp lực của tình thế khách quan: nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế– xã
hội. Do đó, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.
a) Thực trạng
Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lương công nhân không có. Vật tư, hàng hoá
khan hiếm. Giá bán lương thực dù tăng 10 lần vẫn không đủ bù đắp chi phí. Sản xuất nông
nghiệp sa sút. Đầu tư trong công nghiệp giảm. Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm
1986 tăng 587, 2% so với năm 1985. Do đồng tiền mất giá, người ta chuyển sang lấy vàng
làm bản vị 8, khiến giá vàng tăng vọt, còn nhanh hơn cả tăng giá hàng hoá. Tình trạng khan

hiếm hàng hoá khiến cuộc sống chật vật không những về số lượng mà cả về phẩm chất của
nhiều mặt hàng.
Thời bao cấp, một nhà thơ đã viết đại ý: “Khi sinh con ra, bố phải chạy xin mười mấy
con dấu vuông, tròn. Đầu tiên là xin giấy chứng sinh ở trạm xá, rồi làm giấy khai sinh.
Tiếp đó, xin thêm mấy cái giấy giới thiệu của cơ quan người mẹ, rồi mang từng ấy thứ
giấy lên công an huyện và các phòng Thương nghiệp, phòng Lương thực… để nhập hộ
khẩu và xin cấp tiêu chuẩn lương thực. Việc chạy xin các loại giấy tờ bao giờ cũng được
ưu tiên làm trước vì để chậm, mất tiểu chuẩn một tháng gạo và thực phẩm, dù là tiêu chuẩn
của trẻ em cũng tiếc đứt ruột”.9
Năm 1978 giá thành 1 m2 vải caliot sản xuất tại Công ty Dệt Thành Công là 1,5 đồng,
nhưng phải bán cho Nhà nước với giá 1,2 đ/m2. Hơn nữa, 1m2 vải dệt kiểu oxford hết 10
đồng, phải bán cho Nhà nước với giá 9 đ/m2. Trong khi giá trên thị trường cao gấp 10 –12
lần.
Sau hơn 10 năm tiến hành công nghiệp hóa trong điều kiện đất nước thống nhất, nền
kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong trạng thái trì trệ: sản xuất nông nghiệp thấp kém không
đáp ứng được nhu cầu trong nước; công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng hiệu quả thấp;
nhiều mặt hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng, dấu hiệu của suy thoái và khủng hoảng kinh tế
– xã hội đã dần dần xuất hiện và bộc lộ rõ nét vào cuối những năm 1970 và suốt những
năm tiếp theo.
 Nghị quyết Trung ương khóa IV tháng 8 – 1979 đã nhận định tổng quát về thực
trạng kinh tế nước ta trong những năm cuối thập kỷ 70 như sau: “Chúng ta đang đứng
trước nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống; sản xuất phát triển chậm (tốc độ tăng tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới 1% / năm); năng suất lao động quá thấp; đời
sống nhân dân thiếu thốn, nhiều hiện tượng trong xã hội có tính tiêu cực nghiêm trọng.
b) Tính cần thiết và cấp bách
Gafin, Vì sao bản vị vàng là chính sách kinh tế tồi tệ nhất thế giới?
Tham khảo trực tuyến tại: />toi–te–nhat–the–gioi.htm
Ngọc Hà (2009), Chuyện thời bao cấp, Đài truyền hình VTV Việt Nam
Tham khảo trực tuyến tại: />Trang 7
Tình trạng trên xuất phát từ những hạn chế của cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan

liêu bao cấp, sau đây là những dẫn chứng cho thấy điều đó:
– Sau khi giải phóng Sài Gòn, Nhà nước tiếp quản Hãng dệt Tái Thành và đổi tên là Dệt
Thành Công. Hàng năm, nhà nước sẽ cung cấp nguyên vật liệu và vốn lưu động. Dệt
Thành Công được giao chỉ tiêu sản xuất 3 triệu m2 vải/ năm. Năm 1978, giá thành 1 m2 vải
calicot sản xuất tại xưởng của công ty Dệt Thành Công là 1,5 đồng/m2. Thế nhưng tất cả
lượng sản phẩm có được, công ty đều phải bán cho Nhà nước với giá 1,2 đồng / m2. Trong
khi đó giá ở thị trường tự do thì cao gấp 10 – 12 lần.
– Có thể lấy trường hợp một công ty khai thác than ở Thái Nguyên làm ví dụ. Năm
1979, công ty này được giao chỉ tiêu 150 000 tấn trong khi các công ty khách hàng đang
gặp khó khăn, không cần nhiều đến than. Kho bãi công ty không thể chứa hết nhưng vẫn
phải hoàn thành chỉ tiêu được giao nên công ty đã chọn giải pháp là vừa khai thác vừa đem
than đổ đi. Cuối cùng, đơn vị vẫn nhận được bằng khen vì đã hoàn thành chỉ tiêu cấp trên
giao.
– Một cán bộ hay công nhân vào giai đoạn này có 70% thu nhập là tem phiếu, 30% còn
lại là lương. Khi công ty không có tiền, công nhân được trả lương bằng sản phẩm: sứ tích
điện, cao su, mũ cứng…Hoặc một trường hợp khác, vào năm 1978, An Giang thành lập
hợp tác xã Hòa Bình Thạnh, toàn bộ hơn 70 cỗ máy cày, bừa, bơm, xới… đều được công
hữu hóa. Các xã viên sẽ làm việc cùng nhau. Sau mỗi buổi, cán bộ hợp tác xã ghi điểm
từng người. Điểm này sau đó sẽ được quy ra thóc.
– Các cửa hàng lương thực, hệ thống tem phiếu và quầy hàng tết, cán bộ cao cấp có cửa
hàng phục vụ riêng tại phố Tôn Đản, cán bộ trung cấp đến phố Nhà Thờ, Vân Hồ, Đặng
Dung và Kim Liên; còn cán bộ, công nhân, viên chức bình thường và nhân dân mua ở các
cửa hàng rải rác trong thành phố.
Từ đó, dẫn đến các hệ quả:
– Các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước can thiệp sâu vào phạm vi vi mô đã đẩy
các đơn vị kinh tế vào tình trạng thụ động, mất quyền tự chủ. Cơ chế đó không ràng buộc
trách nhiệm của doanh nghiệp đối với hiệu quả sử dụng vốn, tài sản, vật tư, lao động. Điều
đó gây nên tình trạng lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước, tạo tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm,
lười biếng, triệt tiêu động lực sáng tạo của người lao động.
– Chế độ phân phối bình quân và bao cấp đã không gắn được kết quả sản xuất với năng

suất và hiệu quả lao động, triệt tiêu động lực của người lao động. Mục tiêu của việc phân
phối bình quân qua bao cấp là đảm bảo công bằng trong khâu phân phối kết quả sản xuất,
nhưng việc tạo nên một hệ thống thương nghiệp Nhà nước độc quyền mua và bán, đã tạo
nên những đặc quyền đặc lợi gắn liền với những người nắm giữ hệ thống “thị trường có tổ
chức” gây bất bình đẳng ngay trong khâu phân phối. Phân phối hiện vật và bao cấp cũng
tạo nên những nghịch lý trong xã hội: Người có nhu cầu chưa hẳn được phân phối, còn
người được phân phối lại chưa hẳn có nhu cầu.
– Không coi trọng quan hệ hàng hóa – tiền tệ đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng hiện
vật hóa, không khai thác được vai trò, sức mạnh của quan hệ hàng hóa – tiền tệ để phát
triển đất nước. Những chức năng của tiền tệ (thước đo giá trị, phương tiện thanh toán,
phương tiện lưu thông, phương tiện tích trữ, tiền tệ thế giới) vốn được khai thác để phát
triển kinh tế toàn cầu hiện nay thì khi đó nó gần như không được thể hiện trong cả điều
hành vĩ mô và thực tiễn cuộc sống.
Trang 8
– Chế độ công hữu được thiết lập một cách nóng vội không những không tạo được động
lực mà còn kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Sở hữu tư nhân không được thừa nhận
đã làm cho mặt tích cực của các thành phần kinh tế gắn với sở hữu tư nhân không được
phát huy trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này đồng nghĩa với việc lãng phí
nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội.
– Thủ tiêu cạnh tranh nên kìm hãm sự phát triển của các đơn vị sản xuất kinh doanh,
kìm hãm sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Mô hình kinh tế này không phản ánh đúng yêu
cầu khách quan của các quy luật trong nền kinh tế thị trường, giá cả gần như không có
quan hệ gì với giá trị hàng hóa cũng như tương quan cung cầu, nên mọi sự tính toán đều
mang tính chủ quan, duy ý chí làm mất đi động lực của sự phát triển kinh tế, làm mất đi
tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế, tạo nên một cơ chế kìm hãm sự phát triển
kinh tế – xã hội.
 Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cấp thiết và cấp
bách.
c) Kế hoạch đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội
Nghị quyết Trung ương khóa IV đã chỉ ra phải nghiên cứu để cải tiến một bước cơ bản

các chính sách kinh tế, trước hết là chính sách lưu thông phân phối, khắc phục tình trạng
không ăn khớp giữa chính sách đề ra và tình hình thực tế của sản xuất và đời sống xã hội.
Chống tư tưởng chủ quan, bảo thủ, không dám nhìn thẳng vào những thiếu sót trong chính
sách, đồng thời phải nghiêm túc nghiên cứu các mặt khi xác định chính sách mới để tránh
mắc phải sai lầm.
Cơ chế quản lý thị kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng
chung của mọi quốc gia, dân tộc. Cơ chế quản lý kinh tế đúng đắn, phù hợp sẽ tạo động
lực xã hội và trở thành công cụ phát triển kinh tế phục vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải,
mang lại sự giàu có chung cho toàn xã hội. Ngược lại, cơ chế quản lí lạc hậu , đi ngược lại
các qui luật khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội, dẫn đến những hậu quả
mà để khắc phục nó phải tốn một thời gian rất dài, gây thất thoát, lãng phí, làm kìm hãm
sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là
sự lựa chọn phù hợp với xu hướng phát triển chung của thời đại. Việc sử dụng cơ chế thị
trường để quản lý nền kinh tế không phải là thuộc tính của Chủ nghĩa tư bản mà nó được
xem như một thành quả của văn minh nhân loại. Trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sỡ hữu, đây là những
điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của nền kinh tế thị trường.
2. Sự hình thành tƣ duy của Đảng về kinh tế thị trƣờng thời kì đổi mới
2.1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
Sau thời kì chiến tranh kháng chiến chống thực dân, đế quốc cùng bọn tay sai, Đảng và
Nhà nước cùng toàn dân ta bắt đầu chung tay quyết tâm xây dựng ổn định đất nước trong
thời kỳ hòa bình. Tiêu biểu nhất cho quyết tâm ấy chính là chiến lược xây dựng, phát triển
do Đảng đề ra trong thời kì “đổi mới”. Qua ba kì đại hội VI, VII, VIII, đường lối, chủ
Trang 9
trương của Đảng về đổi mới nền kinh tế là một điểm nổi bật cho thấy sự thay đổi trong tư
duy của Đảng về phát triển kinh tế gắn liền với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Ngh ị quyế t 21 – NQ/TW c ủa Ban Ch ấp hành Trung ương Đả ng C ộ ng s ả n Vi ệ t
Nam khóa X, kinh t ế thị trường định hướ ng XHCN là tên gọi một hệ thống kinh
tế đượ c Đả ng C ộng s ả n Vi ệ t Nam sáng tạo và chủ trương triể n khai t ạ i Việ t Nam từ thậ p

niê n 1990.
 Quá trình hình thành tư duy lý luận của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi
mới:10
Mốc đánh dấu sự khai mở một số yếu tố của kinh tế thị trường định hướng XHCN là
quyết định của Hội nghị Trung ương khóa IV (9/1979). Nghị quyết này đã phủ định một số
yếu tố của thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp: thừa nhận quyền được bán nông
sản của nông dân theo giá thỏa thuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước,
cần thiết kết hợp kế hoạch với thị trường… Tuy nhiên, phải đến Đại hội đại biểu toàn quốc
lần VI (12/1986), những quyết định lịch sử của nó đã mở ra bước ngoặc cho sự xác lập thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Ba quan điểm lớn về kinh tế trước đó
Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa V đã được thể hiện trong “Những phương
hướng cơ bản của chính sách kinh tế – xã hội”: bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ
cấu đầu tư; xây dựng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế. Đây là những quan điểm thể hiện sự chín muồi trong tư duy kinh tế của Đảng.
Trong cương lĩnh do Đại hội VII thông qua đã ghi rõ sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
và bảy phương hướng lớn xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bảy phương hướng lớn, về kinh tế, Cương lĩnh chỉ rõ: “phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước.” Tuy vậy, Đại hội VII vẫn chưa sử dụng cụm từ nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN để diễn đạt những nội dung, đặc trưng có tính mô hình của nền kinh tế nước
ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó phản ánh sự e ngại mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường – đó là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản: diễn ra tự phát, chạy theo lợi
nhuận, tạo ra hố sâu ngăn cách giữa giàu và nghèo, cản trở tiến bộ và công bằng xã hội,
làm xói mòn đạo đức và nhiều tệ nan xã hội khác,… Tuy chưa nói đến nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN nhưng thực chất “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” chính là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đại hội lần thứ VIII (6/1996) trong khi tổng kết 10 năm đổi mới đã đánh giá nước ta ra
khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đại hội VIII bổ sung một số nhận thức về cơ chế quản lý kinh tế:

– Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà nó là thành tựu phát triển
của văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng thành công.
Khoa Lý luận chính trị – trường Đại học Kinh tế TPHCM (2009),Tài liệu hướng dẫn ôn tập Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam, trang 111–112.
Trang 10
– Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, có nhiều chủ thể tham gia sản
xuất và lưu thông, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thị trường liên thông ở
trong nước, khu vực và trên thế giới.
– Nhà nước sử dụng công cụ kế hoạch kết hợp với thị trường để điều tiết nền kinh tế.
Thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ yếu mang tính định
hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng
dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động hay phương án tổ chức sản xuất kinh
doanh. Đồng thời sử dụng pháp luật, cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và
các nguồn lực của kinh tế nhà nước để điều tiết.
– Sử dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà
nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh, phát huy
mặt tích cực của kinh tế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của thị trường.
Tuy vậy, Đại hội VII vẫn chưa sử dụng khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Trong khi chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Đại hội VIII
đặc biệt nhấn mạnh đến yêu cầu “nắm vững định hướng XHCN trong việc xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần”.
Như vậy, so với thời kì trước đổi mới, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường trong
giai đoạn 1986 – 1996 có sự thay đổi căn bản và sâu sắc, được thể hiện trong ba Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc. Sự thay đổi đó là:
– Kinh tế thị trường không còn được coi là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản nữa mà là
thành tựu phát triển chung của nhân loại.
– Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
– Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
• Thứ nhất, kinh tế thị trường không còn được coi là cái riêng có của chủ nghĩa tư

bản nữa mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại
Trước hết ta biết rằng, cơ chế quản lý kinh tế nước ta trước khi đổi mới là cơ chế tập
trung, bao cấp. Bên cạnh những lợi ích mà cơ chế này đem lại cũng có vô vàn những khó
khăn gây trở ngại cho mục tiêu phát triển chung. Chính vì lẽ đó, dưới tình hình cấp bách
buộc Đảng và Nhà nước ta phải lập tức cải tiến nền kinh tế, cụ thể là “bố trí lại cơ cấu kinh
tế và đổi mới cơ chế quản lý” 11. Tại Đại hội VI, Đảng cũng đã thừa nhận những thiếu sót
như: “chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định
tình hình kinh tế – xã hội, ổn định đời sống nhân dân. […] nguyên nhân chủ quan là những
sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. […] có khuyết
điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất nước, trong việc xác định mục tiêu và
bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. […] chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế không còn phù hợp. […] Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương,
chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện” 12. Đại hội nhấn mạnh: “Cơ
11
Nhiều tác giả (2011), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội, trang 145.
Bộ Giáo dục và đào tạo – Văn bản pháp quy & Hành chính, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng
cộng sản Việt Nam năm 1986
Trang 11
chế mới lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá – tiền tệ,
quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu kết hợp với biện pháp hành chính, giáo dục,
thực hiện phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thiết lập trật tự, kỷ cương
trong mọi hoạt động kinh tế. Việc đổi mới kế hoạch hóa phải nhằm bảo đảm thực hiện
Nghị quyết Đại hội VI về sắp xếp lại nền kinh tế, bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh
lớn cơ cấu đầu tư…”13 Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước
trong thời điểm bấy giờ. Tuy không nêu rõ là kinh tế thị trường nhưng ta có thể thấy chủ
trương của Đảng ta đã thay đổi cho phù hợp với tình hình hiện tại và trong chủ trương đó
mang hơi hướng của nền kinh tế thị trường với cơ chế quản lí của nó.
Tại Đại hội VII, kinh tế thị trường (kinh tế hàng hóa nhiều thành phần) đã lần đầu tiên
được nhắc đến trong đường lối chủ trương của Đảng ta, thể hiện thông qua Nghị quyết Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: “Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là
bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
Theo Marx, kinh t ế hàng hóa là một giai đoạn phát triể n nh ất định trong l ịch s ử phát
tri ể n c ủa xã hội theo ti ến trình: kinh tế tự nhiên – kinh t ế hàng hoá – kinh t ế sả n ph ẩ m. N ề n
kinh t ế XHCN tr ong giai đoạn đầ u c ủa ch ủ nghĩa cộng s ả n v ề tổng th ể là một n ề n kinh t ế
hàng hóa. Điề u ki ệ n chung c ủa t ồ n t ạ i s ả n xu ất hàng hoá là phân công lao động xã hội và
sự tách biệt (độc l ậ p) kinh t ế giữa nh ững ngườ i s ả n xu ấ t.
Đặc trưng chung củ a kinh t ế hàng hóa trong b ất kì chế độ xã hội nào là sự tồn t ại hình
thái giá trị và thị trường, trong đó giá trị c ủa hàng hoá – lượng lao động xã hộ i c ầ n thi ết để
sả n xu ất ra hàng hoá đó, được đo bằ ng ti ề n t ệ và mang hình thái giá cả ; quy lu ật đặc trưng
c ủ a s ả n xu ất hàng hoá là quy luật giá trị, và những quy lu ật liên quan như quy luậ t cung
c ầ u, quy lu ật lưu thông tiề n t ệ , quy lu ật hàng hoá được trao đổi theo nguyên tắc ngang giá,
còn kinh tế thị trường là nề n kinh t ế dựa trên nề n s ả n xu ất hàng hoá phát triển, và hoạ t
độ ng t heo cơ chế thị trường ra đờ i t ừ trong phương thức s ả n xu ất tư bả n ch ủ nghĩa. Trong
kinh t ế thị trườ ng, th ị trường đóng vai trò, điề u ti ế t mọi quan h ệ kinh t ế – xã hội trong các
lĩnh vực khác nhau của đờ i s ống xã hội, s ả n xu ất, thương mại, tài chính, tín dụng, ti ề n t ệ ,
lao động, kể c ả mộ t ph ầ n quan tr ọng trong văn hoá, giáo dục Ngườ i s ả n xu ất, người tiêu
dùng, mọi thành viên trong xã hộ i t ự chủ ho ạt động trên thị trường, nhưng lạ i b ị chi ph ố i
bởi các quan hệ thị trườ ng (l ợi ích và sáng kiến cá nhân, cung – c ầ u, c ạ nh tranh, ) mộ t
cách tự phát trong kinh tế thị trường tư nhân, hay có kế hoạ ch trong kinh t ế thị trườ ng
XHCN.
Nhà nướ c với tư cách là tổ chức công quyề n ch ỉ can thi ệ p ở mức h ạ n ch ế c ầ n thi ết, đóng
vai trò ngườ i gi ữ gìn trậ t t ự công và trọng t ài, để cho n ề n kinh t ế tự thân vận độ ng theo
định hướ ng c ủa nhà nước và trong khuôn khổ pháp luậ t. Thuy ế t kinh t ế thị trường hoàn
toàn tự do (theo ch ủ nghĩa kinh tế tự do c ổ điển và tân cổ điển) ngày nay không còn thích
hợp, mà trong những điề u ki ệ n kinh t ế – chính trị mới, nhà nước đề u ph ả i can thi ệ p b ằ ng
Tham khảo trực tuyến tại: />Bộ Giáo dục và đào tạo – Văn bản pháp quy & Hành chính, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng
cộng sản Việt Nam năm 1986 – Mục 3
Tham khảo trực tuyến tại: />Trang 12

nhiề u bi ện pháp ở nh ững m ức độ khác nhau để điề u ti ế t th ị trườ ng nh ằm phát triển và bả o
vệ nề n kinh t ế quố c gia, ch ống kh ủng ho ả ng kinh t ế – xã hội, giành thắ ng l ợ i trong c ạ nh
tranh trên thị trườ ng th ế giớ i. Kinh t ế thị trường không hoàn toàn đồ ng nh ấ t ở các nước có
ch ế độ chính trị – kinh t ế – xã hội khác nhau; có trình độ phát triể n kinh t ế xã hội khác
nhau; nó chịu s ự tác độ ng c ủa các quy luậ t kinh t ế thu ộc phương thức s ả n xu ấ t ch ủ đạo, và
ch ịu s ự chi phối, điề u ti ế t, qu ản lí của nhà nước và mang những đặc điểm và truyề n th ố ng
c ủ a m ỗi nướ c. Kinh t ế hàng hóa và kinh tế th ị trườ ng có cùng bản chất đều nhằm sản xuất
ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ phát triển.
Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, nhưng còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất
hàng hóa với quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Kinh tế thị trường là kinh
tế hàng hóa phát triển cao, đạt đến trình độ là thị trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn
tại hay không tồn tại của người sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường lấy khoa học công
nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao. Từ đó chứng tỏ chủ nghĩa tư bản
không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa
ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát
triển chung của nhân loại.
Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng kinh tế thị
trường theo lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Và quan niệm này cũng được nhắc lại một lần nữa gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một
nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận: “Thị trường và kinh tế thị trường không
phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại.”
• Thứ hai, quan điểm kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm này tiếp tục khẳng định, bổ sung, chứng minh tính đúng
đắn cho quan điểm thứ nhất.
Kinh tế thị trường vì là thành tựu chung của văn minh nhân loại, nên nó tồn tại và phát
triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với
chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì vậy, kinh
tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, ta có thể
hiểu rằng việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường không phải là phát triển tư bản chủ

nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và tất nhiên, xây dựng kinh tế XHCN cũng
không dẫn đến phủ định kinh tế thị trường. Bên cạnh việc tiếp tục chủ trương xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng đã đưa ra kết
luận “sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần
thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.” Đây là một kết luận quan trọng cho thấy sự thay đổi
rõ rệt trong tư duy của Đảng đối với nền kinh tế thị trường thông qua việc thừa nhận sự tồn
tại của nó trong lòng chế độ XHCN được vận hành qua cơ chế thị trường có sự quản lí của
Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…
Theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng về việc thông qua “Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000, xuất phát từ mục tiêu, phương
hướng cơ bản và lâu dài đã nêu trong Cương lĩnh của Đảng, chiến lược đến năm 2000
được xây dựng theo các quan điểm phát triển dưới đây:
Trang 13
“Nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
[…] Mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và tư
nhân nước ngoài trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
[…] Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với ổn định và đổi mới về chính trị, tăng
cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: “Thoát khỏi khủng hoảng, ổn định
tình hình kinh tế – xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải
thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước
phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI.”
Trong cơ chế các mục tiêu nói trên, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị
trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và
phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; Nhà nước quản lí nền kinh tế để định
hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất,
kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lí các vi phạm trong hoạt động kinh tế,

bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.14
• Thứ ba, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà kinh tế thị trường còn tồn tại
khách quan trong thời kỳ này. Do đó, việc sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ
nghĩa xã hội là có thể và cần thiết.
Ở bất kì xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các
nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường luôn mang những đặc điểm sau:15
– Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, lời ăn, lỗ chịu.
– Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn
hảo.
– Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
– Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh
tế – xã hội. Chính vì thế, việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ
nghĩa xã hội là vô cùng cần thiết. Vì vậy trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng đã
khẳng định: “Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị
Nhiều tác giả (2011), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội, trang
Nhiều tác giả (2011), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội, trang
Trang 14
trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ
không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Đảng ta nhận định rằng sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước phát triển trong
tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường.
Đại hội VII của Đảng nhận định: “Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước

đầu rất quan trọng, nhưng nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội”.
Vào thời kì đổi mới, chúng ta càng ngày nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ
sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng
hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh,
thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém. Đó là thời cơ lớn và đồng thời là những
thách thức lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ những chủ trương, đường lối cụ thể, về việc xây dựng một nền kinh tế ổn định thể
hiện thông qua Đại hội VI, VI, VII của Đảng, đã có nhận định cho rằng Đảng ta đã có sự
thay đổi sâu sắc trong tư duy kinh tế so với thời kì trước đổi mới: 16
– Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công hữu
về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến quan
niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập
thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế
khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
– Từ chỗ cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất XHCN phải nhanh chóng hoàn
thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ là những thành phần
kinh tế phi XHCN, đã đến quan niệm rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
– Hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa bỏ nhanh chóng
các thành phần kinh tế phi XHCN.
– Từ cơ chế nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung,
thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, nay đã đi đến phân
biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh; chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc nhà nước, còn chức
năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp.
– Từ việc chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối theo
lao động đã đi đều quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp

các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Công
bằng xã hội thể hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế mà là ở chỗ phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đến có cơ
Hà Đăng (2007), Kinh tế thị trường qua các bước đổi mới tư duy, Tạp chí Cộng sản.
Tham khảo trực tuyến tại: />thi–truong–qua–cac–buoc–doi–moi–tu–duy.aspx
Trang 15
hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm mọi sự làm giàu mà trái
lại khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật, đồng thời thực hiện
xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực quá đáng hai đầu. Thực tế cho thấy, quá trình đổi
mới kinh tế của Việt Nam được khởi đầu từ nhân dân, từ sự tìm tòi, sáng tạo của cán bộ,
đảng viên và nhân dân ở các cơ sở hợp tác xã nông nghiệp, ở các doanh nghiệp nhà nước.
Thực chất cho thấy đây là đường lối sáng tạo độc đáo của Đảng, việc chuyển từ nền
kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần với cơ chế thị trường định
hướng XHCN chịu sự quản lí của Nhà nước vừa không đi ngược lại với mục tiêu xây dựng
XHCN vừa tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nền kinh tế thị trường mang lại trong
việc xây dựng một nền kinh tế phù hợp với thời kì đổi mới từ đó tạo cơ sở, tiền đề, mục
tiêu kinh tế cho các kì Đại hội sau đó theo một định hướng chung, rõ ràng và cụ thể.
Sự thay đổi chiến lược trong tư duy xây dựng phát triển kinh tế ổn định thông qua ba
đại hội VI, VII, VIII là cơ sở cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, Đại hội VI thể
hiện bước ngoặc quan trọng trong tư duy kinh tế của Đảng, xóa bỏ cơ chế quan liêu, tập
trung, bao cấp thay thế bằng một cơ chế mới. Đó là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức
hạch toán kinh doanh XHCN mầm mống cho sự ra đời của kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam. Từ nền kinh tế quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần với cơ chế thị trường chịu sự quản lí của Nhà nước của Đảng ta. Sự thay
đổi này đã góp phần khắc phục những khuyết điểm còn tồn đọng và mở ra một con đường
phát triển mới cho đất nước.
2.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XI
2.2.1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường tại Đại hội IX
Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng năm 1986. Qua
hơn 25 năm đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng hoàn thiện hơn.

Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng hóa –
tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội thì đến Đại hội VII và Đại hội VIII Đảng đã khẳng định cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Đại hội IX của Đảng
tháng 4 năm 2001 tiếp tục xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ đi lên XHCN. Đó là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN. “Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phát
triển sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn 2001 – 2005 tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế,
chính sách, pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để bảo đảm các thành phần kinh
tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, thực sự là bộ
phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. 17
Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001 – 2005 (2003), Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam
Tham khảo trực tuyến tại:
http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=8&leader_topic=226
&id=BT2280560851
Trang 16
Đại hội khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn; là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường
chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một
chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN 18 và là bước phát triển
mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta không phải là sự kết
hợp, gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và XHCN mà là sự vận dụng quy luật kinh
tế khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Trên cơ sở nhận thức tính quy
luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc kết từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị
trường thế giới, Đảng ta đã đề ra chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ

nghĩa xã hội. Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng XHCN là “một kiểu tổ
chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự
dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
Vì thế, kinh t ế thị trường định hướ ng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bả n t ồn t ạ i trong
nhau, kế t h ợ p vớ i nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố c ủ a kinh t ế th ị trường và
nhóm nhân tố định hướ ng XHCN . Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động l ực" thúc
đẩ y s ả n xu ất xã hội phát triể n nhanh, hi ệ u quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướ ng d ẫ n",
"ch ế định" s ự vận động c ủa n ề n kinh t ế theo nh ững mục tiêu đã xác định, b ổ sung nh ững
mặt tích cực, h ạ n ch ế những mặt tiêu cực c ủ a th ị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã
hộ i.
Ở nước ta những định hướng XHCN của nền kinh tế là:
Thứ nhất, phát triển nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế,
vớ i s ự đa dạng các hình thức s ở h ữu và các hình thức t ổ chức s ả n xu ấ t kinh doanh; trong
đó, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Thứ hai, phát triển nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướ ng XHCN bảo đả m th ố ng nh ấ t gi ữa s ự phát triển, tăng trưở ng kinh t ế
với công bằng xã hội.
Thứ ba, xây dựng một nền kinh tế thị trường hòa nhập vào nền kinh tế thị trường khu
vực và thế giớ i vớ i nhi ều hình thức quan h ệ và liê n kết phong phú đa phương, đa dạ ng.
Hay nói cách khác, tính định hướ ng XHCN đượ c th ể hi ện trên cả ba mặ t c ủa quan h ệ sả n
xuất đó là: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Về chế độ sỡ hữu: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên nhiều hình thức
sở hữu như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đạ i di ệ n ch ủ sở hữu, s ở hữu t ậ p th ể , sở hữu tư
nhân và sở h ữu h ỗn h ợ p, song ch ế độ sở hữu công cộng (công hữu, toàn dân) về tư liệ u s ả n
xu ấ t ch ủ y ếu đóng vai trò nề n t ả ng c ủa n ề n kinh t ế quốc dân. Từ các hình thức s ở h ữu cơ
bản hình thành nhiều thành phầ n kinh t ế với các hình thức t ổ ch ức s ả n xu ất, kinh doanh đa
dạng, đan xen, hỗn hợp.
Nhiều tác giả (2011), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội, trang 157
Trang 17

Về tổ chức quản lý: Nhà nước XHCN là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện
ch ức năng quản lý nề n kinh t ế thị trường dướ i s ự lãnh đạ o c ủa Đả ng C ộng s ả n Vi ệ t Nam.
Th ực hi ện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định hướng, điề u khi ển hướ ng t ới đích XHCN c ủ a
nề n kinh t ế theo phương châm: nhà nước điề u ti ết vĩ mô, thị trường hướ ng d ẫ n doanh
nghi ệ p. Về phân phố i: K ế t h ợ p ch ặ t ch ẽ nh ững nguyên tắ c phân phố i c ủa ch ủ nghĩa xã hộ i
và nguyên tắc phân phối c ủa kinh t ế thị trường như: phân phối theo lao độ ng, theo vốn,
theo tài năng, phân phố i qua qu ỹ phúc lợi xã hội Trong đó, nguyên tắc phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính.
Qua các đặc điểm trên ta có thể kết luận, đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong
lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Có thể nói, kinh tế thị trường là “cái phổ biến” –
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, còn kinh tế thị trường định hướng XHCN là “cái đặc
thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều
là bộ phậ n c ấu thành quan trọng c ủa n ề n kinh t ế th ị trường định hướ ng XHCN. Các thành
ph ần đó bao gồ m: kinh t ế nhà nướ c, kinh t ế tậ p th ể , kinh t ế cá thể tiể u ch ủ, kinh t ế tư bả n
tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà
nướ c gi ữ vai trò chủ đạ o, kinh t ế nhà nước cùng vớ i kinh t ế tậ p th ể ngày càng trở thành
nề n t ả ng vững ch ắc. Vai trò chủ đạ o c ủa kinh t ế nhà nướ c th ể hiện qua vai trò điề u ti ế t
kinh t ế c ủa nhà nướ c. Trong n ề n kinh t ế thị trường định hướ ng XHCN , vai trò của chính
phủ được thể hiện qua bốn chức năng sau đây:
Thứ nhất, thiết lập khuôn khổ pháp luật. Đây là chức năng đầu tiên, có vai trò quan
tr ọng trong vi ệ c kh ắ c ph ục các khuyế t t ậ t c ủa th ị trường. Nhà nướ c c ầ n ph ả i thi ế t l ập hành
lang pháp lý, tạo môi trường thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, chính phủ phải bảo đảm tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Xuất phát từ
đặc trưng của kinh t ế thị trường là tự do c ạ nh tranh s ẽ dẫn đến độ c quy ền điều đó có thể
làm cho các hoạt động kinh t ế kém hiệ u qu ả. Vì vậy, chính phủ không thể coi mọi ho ạ t
độ ng c ủa độc quyền là hợp pháp. Chính phủ c ầ n ph ải đưa ra các luậ t ch ống độ c quy ền, để
làm tăng hiệu quả của hệ thống thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Thứ ba, đảm bảo tính công bằng. Mặc dù hệ thống thị trường hoạt động dựa trên cơ sở
các quy luậ t kinh t ế khách quan mang l ạ i hi ệ u qu ả kinh t ế cao, song v ẫn có thể gây ra

nh ững b ất bình đẳ ng l ớ n trong thu nh ập. Để khắ c ph ục nh ững h ạ n ch ế đó, chính phủ phả i
thông qua các chính sách kinh tế nói chung và nhất là chính sách phân phối nói riêng để
điều chỉnh phân phối thu nhập.
Thứ tư, ổn định kinh tế vĩ mô. Để thực hiện tốt bốn chức năng trên, chính phủ phải
thông qua ba công cụ là: các khoả n thu ế, các khoản chi tiêu và những lu ật định. Thông qua
thu ế, chính phủ sẽ điề u ti ết tiêu dùng và đầu tư. Đối với chi tiêu, chính phủ s ẽ thúc đẩ y, h ỗ
tr ợ các doanh nghiệ p s ả n xu ấ t ra một s ố hàng hóa, dịch vụ để đả m b ảo tính hiệ u qu ả . Qua
lu ật định, chính phủ hướ ng d ẫ n doanh nghi ệp phát triể n ho ặ c t ừ bỏ ho ạt động kinh doanh
không phù hợp. Do đó, chủ trương muốn phát triể n kinh t ế th ị trường định hướ ng XHCN
ph ả i d ựa vào cả hai “bàn tay” là thị trường và nhà nướ c. Điều hành một n ề n kinh t ế không
có chí nh ph ủ lẫ n th ị trường, thì cũng như định vỗ tay b ằ ng một bàn tay – chúng ta không
thể vỗ tay, nếu chỉ có một bàn tay.
Trang 18
2.2.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường tại Đại hội X
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X (tháng 11/2011) đã làm sáng tỏ thêm nội dung
cơ bản của định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần ở nước ta cụ thể là: Nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường, nâng
cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự
vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển
mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế
không chỉ độc tôn bàn tay vô hình – cơ chế thị trường tự nhiên, mà phải được vận hành bởi
cơ chế bàn tay hữu hình – sự điều tiết của nhà nước.
Cơ chế thị trường tự điều tiết theo “bàn tay vô hình” đôi khi dẫn đến những khuyết tật
nhất định như: Những thất bại của thị trường do thị trường bị độc quyền dẫn đến phá hoại
cơ chế tự do cạnh tranh; những bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, thất nghiệp, lạm
phát…Những khuyết tật trên của kinh tế thị trường tự bản thân nó không thể khắc phục
được. Vì vậy, cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Vai trò của nhà nước là khắc phục
những hạn chế của thị trường, nhưng bản thân nhà nước đôi khi lại có những khiếm
khuyết, những chính sách sai lầm, hoặc can thiệp quá sâu vào nền kinh tế, làm cho nến
kinh tế kém năng động, do đó cần phải kết hợp cả cơ chế thị trường và vai trò của chính

phủ, trong việc điều hành kinh tế.
Thực hiện cơ chế thị trường đã khuyến khích sự làm giàu hợp pháp, tháo gỡ sự kìm hãm
sản xuất và lưu thông. Cơ chế thị trường cũng đã góp phần phát huy lợi thế so sánh giữa
các vùng, các khu vực trong nước, giữa thành thị và nông thôn, góp phần vào chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, cải thiện đời sống nhân dân. Sự phá bỏ độc quyền, tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các doanh
nghiệp phát huy tính năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh19. Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã khẳng định mục tiêu: “Tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với những nguyên tắc cơ bản
của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội
nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng XHCN”.
Thực hiện các mục tiêu tại Đại hội X cũng như để hoàn thiện nhận thức và chủ trương
c ủa Đả ng về nề n kinh t ế nhiều thành phầ n, c ầ n tiế p t ục th ực hi ệ n một cách đồ ng b ộ , nh ấ t
quán; coi các thành phầ n kinh t ế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phậ n c ấu thành quan
tr ọng c ủa n ề n kinh t ế th ị trường định hướ ng XHCN , cùng nhau phát triể n, h ợp tác và cạ nh
tranh lành mạnh. Xóa bỏ thái độ định ki ến và kỳ th ị đố i vớ i b ấ t c ứ thành phầ n kinh t ế nào.
Trong đó:
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là
nhân tố đi đầ u, mở đườ ng cho s ự phát triể n kinh t ế, là lực lượ ng vậ t ch ấ t quan tr ọng và là
công cụ để Nhà nước điề u ti ết vĩ mô nề n kinh t ế. Nhà nướ c gi ữ c ổ phầ n chi ph ối đố i vớ i
các tổng công ty, công ty cổ phầ n ho ạt động trong nh ững ngành, những lĩnh vực thi ế t y ế u
PGS. TS. Lê Quốc Lý, Đổi mới tư duy lý luận về kinh tế của đảng trung thời kỳ đổi mới tư duy lý luận về kinh tế
của Đảng trong thời kỳ hội nhập, Báo Quân đội nhân dân
Tham khảo trực tuyến tại: – DoiNgoai/www.qdnd.vn/Doi – moi – tu – duy – ly –
luan – ve – kinh – te – cua – dang – trong – thoi – ky – hoi – nhap/3840362.epi
Trang 19
cho vi ệ c b ảo đả m nh ững cân đối l ớ n c ủa n ề n kinh t ế ; ch ỉ giữ 100% vốn nhà nước trong các
doanh nghi ệ p ho ạt độ ng b ảo đả m an ninh, qu ốc phòng và những doanh nghi ệ p s ả n xu ấ t,
cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu mà chưa cổ phần hoá được.
Khẩn trương hoàn thành một cách vững chắc kế hoạch sắp xếp, đổi mới và phát triển

doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu
là các công ty cổ phần. Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty
nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành , đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính; có
nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; mở
rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa
doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác, tự chịu trách nhiệm về sản xuất,
kinh doanh. Quy định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý hành
chính nhà nước và của đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.
Cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới trên cơ sở tổng kết các
đơn vị làm tốt để tăng sức h ấ p d ẫ n, t ạo động l ực cho kinh t ế tậ p th ể , nh ất là đối với nông
nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi. Đa dạng hoá
hình thức và cơ chế đầu tư để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài, gồm
cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp, vào các ngành, các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế,
nhất là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội.
2.2.3. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường tại Đại hội XI
Quá trình đổi mới trong 25 năm qua của đất nước ta, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, là
một quá trình liên tục, có những bước đột phá quan trọng. Ðạ i h ội sau luôn kế th ừa, b ổ
sung và phát triể n nh ững nh ậ n th ức và quyết sách về đườ ng l ối phá t tri ể n kinh t ế c ủa các
Ðạ i h ội trướ c. K ế thừa tư duy của Đạ i h ội IX và Đạ i h ội X, Ðạ i h ội XI (12/01/2011) đã
tiế p t ục xác định rõ thêm những vấn đề c ần quan tâm để gi ữ vững định hướ ng XHCN
trong phát triể n kinh t ế thị trườ ng ở nướ c ta th ờ i gian t ớ i. Kinh tế thị trường định hướ ng
XHCN là một vấn đề lý luận và thực ti ễ n mớ i mẻ và phức t ạp, đã trả i qua một quá trình
nh ậ n th ức, phát triể n c ả về lý luận đế n vi ệ c th ực hi ệ n trong th ực ti ễ n t ừ th ấp đế n cao, t ừ
chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện đến ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện hơn.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không phát triển một cách tự phát, mà phát
tri ển trong quá trình nhậ n th ức, ph ấn đấ u r ấ t cao c ủa toàn xã hội dướ i s ự lãnh đạ o c ủ a
Đả ng, qu ản lý của Nhà nước, đó là quá trình chuyển đổi đặ c bi ệt, chưa từng có trong lịch

sử. M ột mặt đó là quá trình chuyển đổi t ừ nề n kinh t ế kế hoạ ch ch ỉ huy t ậ p trung (kỳ thị ,
tẩ y chay th ị trườ ng) sang n ề n kinh t ế th ị trườ ng; mặt khác là quá trình phát triể n theo xu
hướng XHCN.
Cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực
nh ằm phát triển nhanh và bề n vững n ề n kinh t ế, nâng cao đờ i s ống nhân dân, khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồ ng thu ận xã hội để thự c
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trang 20
Mặt khác, trong điều kiện toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt thì để đất nước có thể tăng
tốc phát triển, rút ngắ n kho ảng cách với các nướ c trong khu v ực, vi ệc xây dự ng th ể ch ế
kinh t ế thị trườ ng hi ện đại còn để tạo điề u ki ệ n c ho các nguồ n l ực d ịch chuy ển trong các
ngành và đến các vùng của đất nước theo tín hiệ u c ủa th ị trườ ng quanh tr ục l ợ i nhu ận bình
quân, bảo đả m s ự phát triển hài hòa, cân đố i c ủa n ề n kinh t ế. Điều này sẽ kích thích các
doanh nghi ệp phát triể n ngu ồn nhân lực, ứng d ụng và sáng tạo công nghệ sả n xu ất và công
ngh ệ quản lý mớ i, t ạ o l ậ p l ợ i th ế c ạnh tranh động để tìm kiế m l ợ i nhu ận vượ t tr ội so vớ i
các chủ thể kinh doanh khác, qua đó thúc đẩ y s ự chuyể n d ịch tương đối liên tục cơ cấu đầ u
tư, sả n xu ấ t, t ạ o ra mộ t n ề n kinh t ế có khả năng sáng tạ o cao vớ i nhi ề u s ả n ph ẩ m mớ i, b ả o
đảm hiệu quả và sức cạnh của nền kinh tế.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực
lượ ng s ả n xu ất, phát triể n kinh t ế để nâng cao đờ i s ống cho mọi ngườ i, mọi người đề u
được hưở ng nh ững thành quả phát triể n. Ở đây thể hiệ n s ự khác biệ t vớ i mục đích tấ t c ả vì
lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản. 20
Nền kinh tế phát triển với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm
giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng
miền phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng
trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Theo đó, kinh tế
tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một trong những động
lực của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các
hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày

càng phát triển.
Đặc biệt, trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là
công cụ ch ủ yếu để Nhà nước điề u ti ế t n ề n kinh t ế, định hướ ng cho s ự phát triể n nh ằm vì
mục tiêu dân giàu, nướ c mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để gi ữ vai trò chủ
đạ o, kinh t ế nhà nướ c ph ả i n ắm được các vị trí then chốt c ủa n ề n kinh t ế bằng trình độ
khoa h ọc, công nghệ tiên tiế n, hi ệ u qu ả sả n xu ấ t kinh doanh cao ch ứ không phả i d ựa vào
bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách
phát triển; tăng trưở ng kinh t ế gắ n k ế t ch ặ t ch ẽ và đồng b ộ với phát triển xã hội, văn hóa,
giáo dục – đào tạ o, gi ả i quy ế t t ốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con ngườ i. H ạ n
chế tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng XHCN được thể hiện qua chế độ phân phối
ch ủ yế u theo kế t qu ả lao động, hi ệ u qu ả kinh t ế, phân phối thông qua hệ th ống an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội. Đồng th ời để huy độ ng m ọi ngu ồn l ực kinh t ế cho s ự phát triển chúng
ta còn thực hi ện phân phối theo m ức đóng góp vốn và các nguồn l ực khác. Như vậ y, quan
hệ phân phối phải bảo đảm công bằng và tạo động lực cho sự phát triển của nền kinh tế.
2 0
TS. Trần thị Rồi, ThS. Trần Ngọc Anh (2010), Tài liệu hướng dẫn học và ôn tập môn Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, trang 177
Trang 21
Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh t ế c ủa nhà nước pháp quyề n XHCN dướ i s ự lãnh đạ o c ủa Đảng. Theo đó, “Nhà nướ c
qu ản lý nề n kinh t ế thị trường định hướ ng XHCN bằ ng lu ật pháp, cơ ch ế, chính sách, chiế n
lượ c, qui ho ạ ch, kế ho ạch và các nguồn l ực kinh t ế , gi ữ vữ ng ổn định kinh t ế vĩ mô, tạ o
lập, phát triể n đầ y đủ, đồng b ộ các yế u t ố th ị tr ường và các loạ i th ị trườ ng, c ả i thi ện môi
tr ường kinh doanh, nâng cao sức c ạ nh tranh c ủa n ề n kinh t ế , kh ắ c ph ục mặt trái, tiêu cự c
c ủa cõ chế thị tr ường; Phát huy dân chủ, quy ền làm chủ c ủa nhân dân trong lĩnh vực kinh
tế” 21.
Tóm lại, sự vận động của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta theo tư duy
của Đảng phải trải qua một thời gian rất dài, vì chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một

xuất phát điểm rất thấp, thậm chí Đảng ta xác định, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta vẫn đang
ở trong thời là quá độ: “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức
phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
XHCN” 22. Và “mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được
về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến thức thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc” 23. Vậy, quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường
thông qua các chủ trương, chính sách, đường lối đề ra qua các kì Đại hội Đảng lần thứ IX,
X, XI đã ngày càng hoàn thiện hơn – đây chính là điều kiện tiên quyết để từ nhận thức, từ
lý luận vững chắc, các phương hướng, các mục tiêu của “nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN” được áp dụng linh hoạt vào thực tiễn để thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Kết luận
Nhìn lại hơn 25 năm đổi mới, tư duy của Đảng đã có những biến chuyển mới trong quan
niệm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thể hiện qua một số bước tiến nhận
thức sau:
– Nhận thức và vận dụng đúng các quy luật kinh tế; từ tư duy kế hoạch hóa tập trung
chuyển sang tư duy kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cuối cùng là phát triển tư duy
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
– Tư duy xây dựng chế độ sở hữu đơn nhất, phân biệt đối xử chuyển sang tư duy đa sở
hữu và bình đẳng phát triển. Trong đó, công hữu là nền tảng, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.
Bộ Giáo dục và đào tạo – Văn bản pháp quy & Hành chính, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ IX năm
2001
Tham khảo trực tuyến tại: />Bộ Giáo dục và đào tạo – Văn bản pháp quy & Hành chính, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ IX năm
2001
Tham khảo trực tuyến tại: />Bộ Giáo dục và đào tạo – Văn bản pháp quy & Hành chính, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ IX năm
2001
Tham khảo trực tuyến tại: />Trang 22
– Tư duy nhà nước độc quyền quản lý nền kinh tế chuyển sang tư duy thị trường – nhà

nước cùng phối hợp điều hành, vận hành nền kinh tế, với sự tham gia quản lý nhà nước
của nhân dân.
– Từ tư duy phân phối bình quân – cào bằng chuyển sang tư duy phân phối theo lao
động kết hợp với các hình thức phân phối khác theo mức độ đóng góp thực tế vào quá
trình tạo ra của cải vật chất và qua phúc lợi xã hội.
– Từ tư duy công bằng theo kiểu bình quân trong phân phối thu nhập chuyển sang tư
duy công bằng về cơ hội phát triển, trên cơ sở xã hội tạo điều kiện cho mọi người phát
triển năng lực để thực hiện cơ hội.
– Tư duy công nghiệp hóa – phi thị trường sang tư duy công nghiệp hóa – thị trường,
phát triển thành tư duy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sau đó là tư duy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa rút ngắn.
– Từ tư duy kinh tế khép kín sang tư duy kinh tế mở, thực hiện chiến lược kinh tế đối
ngoại theo quan điểm mở cửa, nhằm đưa nền kinh tế nước ta tham gia vào phân công lao
động quốc tế, hội nhập vào xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế.
Cũng cần phải lưu ý rằng sự chuyển biến ấy không phải là một quá trình đổi mới tự
thân, tách khỏi đổi mới thực tiễn. Thực tiễn qua hơn 25 năm cho thấy, quá trình đổi mới tư
duy lý luận luôn được nuôi dưỡng và bổ sung, phát triển bằng quá trình đổi mới thực tiễn;
còn đổi mới thực tiễn dẫn dắt, tiếp sức bằng đổi mới tư duy lý luận. Đây là một đặc điểm
nổi bật, cũng là một bài học lớn của quá trình đổi mới ở nước ta./.
Trang 23
PHỤ LỤC 1
ĐỊNH NGHĨA MỘT SỐ KHÁI NIỆM
• Kế hoạch hoá tập trung:
Kế hoạch hoá tập trung là một phương thức kế hoạch hoá, trong đó mọi hoạt động sản
xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế đều được thực hiện trên cơ sở các quy định mang tính
pháp lệnh phát ra từ Trung ương.
Kinh tế kế hoạch hóa tập trung: là nền kinh tế mà trong đó chính phủ đưa ra mọi
quyết định về sản xuất và phân phối. Cơ quan kế hoạch của chính phủ quyết định sẽ sản
xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào, và phân phối cho ai. Sau đó, các hướng dẫn cụ thể sẽ
được phổ biến tới các hộ gia đình và các doanh nghiệp.24

Cơ chế kế hoạch hóa tập trung: được hiểu là cơ chế trong đó nền kinh tế vận động
dưới sự kiểm soát của nhà nước về các yếu tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập.
Nhà nướ c can thi ệp sâu vào các hoạt động c ủ a n ề n kinh t ế, không coi trọng các quy luậ t th ị
trường.25

Cải tạo XHCN:
Theo nghĩa rộng: là quá trình cải biến có tính chất cách mạng các mặt kinh tế, văn hoá,
xã hội và xây dựng con người mới theo lí tưởng của chủ nghĩa xã hội.
Theo nghĩa hẹp: về kinh tế xã hội, là quá trình cải biến nhằm thay thế quan hệ sản xuất
cũ bằng quan hệ sản xuất mới XHCN theo những hình thức, quy mô và bước đi thích hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
• Kinh tế quốc doanh:
Trước đây, khái niệm thường dùng là kinh tế quốc doanh để chỉ bộ phận kinh tế thuộc
sở hữu nhà nước, do nhà nước trực tiếp quản lý và kinh doanh. Báo cáo chính trị tại Đại
hội VII (1991) nêu rõ: “Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh,
bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành
then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.”
• Bản vị vàng:
Bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định
bằng hàm lượng vàng. Bản vị vàng cũng ngăn chặn thâm hụt ngân sách khi các chính phủ
rơi vào giai đoạn cần phải thâm hụt ngân sách
• Kinh tế thị trƣờng XHCN: xét về mặt lý luận thì kinh tế thị trường XHCN là một
loại hình kinh tế thị trường đối lập với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Cơ sở kinh tế
của chế độ XHCN là chế độ công hữu xã hội, hoặc là nền kinh tế thị trường trong nội bộ
Investopedia, Definition of “Centrally planned economic”
Tham khảo trực tuyến tại: />Giáo viên hướng dẫn: Vũ Hải Hà, Phân tích các đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
Tham khảo trực tuyến tại: />trung–quan–lieu–bao–cap.543911.html
Trang 24
chế độ công hữu. Thông thường chúng ta gọi nền kinh tế thị trường tồn tại dưới chủ nghĩa
xã hội là nền kinh tế thị trường XHCN.

• Kinh tế tự nhiên: là một kiểu kinh tế, trong đó sản phẩm được sản xuất để tiêu
dùng trong nội bộ nền kinh tế. Đặc trưng của nền kinh tế tự nhiên là sản xuất có tính khép
kín, hạn chế, truyền thông và phân tán, kỹ thuật thủ cựu và nhịp độ phát triển chậm. Hình
thức tự nhiên của sản xuất chiếm ưu thế trong các hình thái tiền tư bản chủ nghĩa.26
• Nền kinh tế thị trƣờng: là một hệ thống kinh tế trong đó các quy định về việc phân
bổ nguồn lực và sản xuất được đưa ra trên cơ sở các mức giá được xác định qua những
giao dịch tự nguyện giữa các nhà sản xuất, người tiêu dùng, công nhân và chủ sở hữu các
yếu tố sản xuất.27

Kinh tế tự nhiên: là hình thức kinh tế tự cấp tự túc, không phải để trao đổi, mà trực
tiếp thỏa mãn nhu cầu của cá nhân người sản xuất hoặc nhu cầu của bản thân đơn vị kinh
tế. Kinh tế tự nhiên là kết quả của trình độ sản xuất xã hội thấp kém và phân công xã hội
chưa phát triển. 28
• Kinh tế hàng hóa: là hình thức sản xuất xã hội lấy sản xuất hàng hóa và trao đổi
hàng hóa để liên kết người sản xuất với người tiêu dùng. Nó là khái niệm đối lập với kinh
tế hiện vật, kinh tế tự nhiên. 29
• Kinh tế thị trƣờng: là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do
trao đổi và lưu thông hàng hóa làm người phân phối tài nguyên chủ yếu, lấy lợi ích vật
chất cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh
tế và phương thức vận hành kinh tế, phát huy tác dụng điều tiết hoạt động kinh tế. Kinh tế
thị trường vừa có quan hệ, vừa khác biệt với kinh tế hàng hóa. 30
• Kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN: Từ Đại hội VI đến Đại hội VIII của Đảng
Cộng s ả n Vi ệt Nam, khái niệm “ kinh t ế th ị trường định hướng XHCN” vẫn chưa đượ c s ử
dụng. Đạ i h ội XI và Đạ i h ội X đã bước đầu đặt cơ sở và xác định n ề n kinh t ế thị trườ ng
định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nướ c ta trong th ời kì quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Và đến Đạ i h ội XI, khái niệm “ kinh t ế th ị trường định hướng XHCN” đã
được định nghĩa một cách rõ ràng, đầy đủ trong văn kiện Đạ i h ội XI c ủa Đả ng c ộng s ả n
Việt Nam: “N ề n kinh t ế thị trường định hướ ng XHCN ở nước ta là nề n kinh t ế hàng hóa
nhiều thành phầ n, vận hành theo cơ chế th ị trường, có sự quản lý của nhà nước, dướ i s ự
lãnh đạ o c ủa Đả ng c ộ ng s ả n; vừa v ậ n động theo nh ững qui lu ậ t c ủ a th ị trườ ng, vừa đượ c

dẫ n d ắ t, chi ph ối b ởi các nguyên tắc và bả n ch ấ t c ủa ch ủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế th ị
trường đượ c vậ n d ụng đầy đủ, linh ho ạt để phát huy mạ nh mẽ, có hiệ u q ủa mọ i ngu ồn l ự c
nh ằm phát triển nhanh và bề n vững n ề n kinh t ế ; khuy ến khích làm giàu hợp pháp đi đôi
GS. M. I Voncop (biên tập) (1987), Từ điển kinh tế chính trị học, NXB Tiến bộ và NXB Sự thật, trang 217–218.
David W. Pearce (tổng biên tập) (1999), Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị quốc gia, trang 634.
Lệ Dĩ Ninh (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa Hà Nội, trang
110–116.
Lệ Dĩ Ninh (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa Hà Nội, trang
110–116.
Lệ Dĩ Ninh (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa Hà Nội, trang
110–116.
Trang 25

×