Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

chế định bào chữa bắt buộc đối với người chưa thành niên phạm tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.41 KB, 40 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM

LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH
BÀO CHỮA BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003
Giảng viên: Lê Thị Thùy Dương
Danh sách nhóm thực hiện:
1
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là nước đầu tiên của châu Á và là nước thứ hai
trên thế giới tham gia Công ước về quyền trẻ em, nhiều văn bản quy phạm pháp luật
trong nước được ban hành quy định về các vấn đề liên quan đến trẻ em như vấn đề nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục, lao động…Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là sự phát
triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự phát triển của trẻ, tình trạng trẻ em phạm tội đã trở thành mối lo ngại của
toàn xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội thì hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng
ngày càng được hoàn thiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho con người, đảm bảo công
bằng xã hội. Trong đó các chế định về người chưa thành niên phạm tội cũng được pháp
luật quy định một cách chặt chẽ.
“Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm
sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn bị hạn chế”. Đây là khái niệm
về người chưa thành niên mà giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà
Nội) đã đưa ra. Theo quy định của pháp luật thì người chưa thành niên là người chưa đủ
18 tuổi. Tuy nhiên không phải tất cả những người chưa thành niên khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội đều là chủ thể của luật hình sự mà chỉ có thể là những người từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi (được quy định cụ thể tại Đ.12 BLHS 1999). Xuất phát từ đặc
điểm về lứa tuổi của những đối tượng này là người chưa phát triển toàn diện về thể lực
cũng như trí lực nên họ là những người có nhiều hạn chế về khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi, sự hiểu biết nói chung và pháp luật nói riêng còn rất nông cạn. Bên cạnh


đó, đây là những đối tượng có ít kinh nghiệm sống, vì vậy họ sẽ hoang mang, lo sợ khi
vướng vào vòng tố tụng. Họ sẽ không thể bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình một cách hiệu quả. Hiểu được tâm lý đó mà “chế định bào chữa bắt buộc đối với
người chưa thành niên phạm tội” được ban hành. Chế định này có vai trò rất quan trọng
trong việc giúp những người chưa thành niên phạm tội có được sự trợ giúp về mặt pháp
2
lý giúp họ an tâm. Điều này thể hiện chính sách đúng đắn; sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước ta trong chiến lược phát triển con người gắn với phát triển kinh tế xã hội…
Nhằm tạo điều kiện cho việc nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự nói chung và
các chế định về người chưa thành niên phạm tội nói riêng, hôm nay, nhóm chúng em xin
trình bày bài tiểu luận với nhan đề “chế định bào chữa bắt buộc đối với người chưa
thành niên phạm tội”. Bài tiểu luận chắc chắn còn một số khuyết điểm rất mong nhận
được sự góp ý của cô và các bạn để bài tiểu luận của chúng em được hoàn thiện. Trân
trọng cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2012
Nhóm thực hiện
3
MỤC LỤC
Danh sách nhóm thực hiện: 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH BÀO CHỮA BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 5
PHẦN 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH NGƯỜI BÀO CHỮA BẮT BUỘC
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 39

4
PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH BÀO CHỮA BẮT BUỘC ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
I. Quyền bào chữa và người bào chữa trong tố tụng hình sự

1. Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự.
1.1. Khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự (TTHS).
Quyền con người là vấn đề luôn được các quốc gia trên thế giới quan tâm. Để đảm
bảo quyền con người trong xã hội nói chung, các bản Hiến pháp của nước ta đều đã có
nhiều điều khoản nhấn mạnh quyền công dân trong đó không thể không kể đến quyền
bào chữa và những bảo đảm cần thiết để quyền đó được thực hiện. Việc Hiến pháp ghi
nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của chế định
này. Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS 2003) nước ta cũng quy định và ghi nhận
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm không để bất kì người nào có
thể bị hạn chế hay tước quyền cơ bản mà pháp luật đã dành cho họ.
Quyền bào chữa (QBC) của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một trong những
chế định quan trọng và phức tạp, vừa mang tính lí luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Từ
trước đến nay, QBC đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu song xung quanh khái
niệm, nội dung, bản chất chủ thể… của quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy,
xác định khái niệm QBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trên cơ sở lí luận và thực
tiễn phù hợp với quy định của pháp luật là cần thiết nhằm không ngừng phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, củng cố cơ sở pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Quyền con người luôn được đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Qua lịch
sử đấu tranh, tồn tại và phát triển của loài người, quyền đó vẫn luôn luôn được ghi nhận
và bảo đảm. Những nguyên tắc về quyền con người, trong đó có quyền bào chữa luôn
được hoàn thiện dần theo thời gian và đã được khẳng định trong các văn bản pháp lí như
Đạo luật của Anh năm 1689 về các quyền hoặc Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 đã
ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền
được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp
5
năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, nhà nước luôn có những quy
định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ bản đó được nhà

nước đảm bảo thực hiện đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm
quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản của công dân
được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật
trong đó có quyền bào chữa. Điều 11 BLTTHS 2003 quy định: “Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ đảm bảo cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện
quyền bào chữa của mình”. Trong những trường hợp luật định, nếu người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ
quan nói trên phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ. Mặt khác, để đảm bảo
cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ, không để lọt kẻ phạm
tội, không làm oan người vô tội thì việc bào chữa là cần thiết, nó giúp Cơ quan tiến hành
tố tụng(CQTHTT) xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, việc tranh tụng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự không chỉ có buộc tội mà nó chỉ có thể đạt hiệu quả
cao khi tồn tại song song hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Đó cũng là một trong những
cơ sở giúp Toà án giải quyết vụ án được chính xác. Đến nay, xung quanh khái niệm bào
chữa có nhiều quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố
tụng hướng tới việc bãi bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm
giảm trách nhiệm của bị can.”
1
Quyền này được hiểu rộng hơn, nó không chỉ dừng lại ở
việc bãi bỏ và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm trách nhiệm của bị can mà nó
còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật
bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan đến việc làm giảm trách
nhiệm của bị can trong vụ án. Quan điểm này quá hẹp và không chính xác vì một người
tham gia tố tụng với tư cách bị can khi cơ quan có thẩm quyền có đủ căn cứ xác định họ
là người thực hiện hành vi phạm tội và ra quyết định khởi tố bị can. Trong tố tụng hình
sự, khái niệm bị can chỉ tồn tại cho đến thời điểm trước khi có quyết định đưa vụ án ra
1
Xtrôgôvich M.X, “Giáo trình luật tố tụng hình sự Xô Viết”, tập 1, Nxb Khoa học, M-1968, trang 196
6

xét xử sau đó vụ án được tiếp tục tham gia tố tụng sẽ có tư cách là bị cáo. Nếu thừa nhận
quan điểm trên quyền bào chữa của bị can thì vô hình chung đã tước đi quyền bào chữa
của bị cáo. Trong giai đoạn này họ là người bị buộc tội thể hiện ở việc truy tố của Viện
Kiểm Sát và việc Tòa án xem xét có tội hay không có tội.
Quan điểm thứ 2 cho rằng: “không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến
việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy nếu quyền
và lợi ích của họ bị xâm hại”.
2

Quan điểm thứ ba cho rằng: “Quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo
mà còn thuộc về người bị tình nghi, người bị kết án, người bào chữa, bị đơn dân sự và
nguyên đơn dân sự”.
3
Việc cho rằng QBC trong tố tụng hình sự không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn
thuộc về những người tham gia tố tụng hình sự(NTGTT) với tư cách khác hoặc người bị
kết án là không chính xác vì nó đồng nhất khái niệm QBC trong TTHS với khái niệm
quyền công dân bảo vệ các lợi ích hợp pháp của mình. Quyền bào chữa với tư cách là
một quyền tố tụng cơ bản của BLTTHS 2003 chỉ thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo.
Với một số quan điểm cho rằng người bị tạm giữ không thể coi là đối tượng bị
buộc tội mà họ chỉ có thể trở thành đối tượng bị buộc tội nếu họ có đủ căn cứ để khởi tố
họ với tư cách bị can. Quan điểm này là không chính xác vì trước khi khởi tố bị can,
người bị tạm giữ được coi là trung tâm của tố tụng, các hành vi tố tụng của người tiến
hành tố tụng(NTHTT) và những người tham gia tố tụng khác để hướng tới mục đích xác
định người bị tạm giữ có phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội hay không. Khi cơ
quan điều tra có đủ căn cứ tạm giữ sẽ ra quyết định tạm giữ. Việc ra quyết định tạm giữ
của cơ quan điều tra là hành vi buộc tội đối với người bị tạm giữ. Quyết định tạm giữ gây
ra một số hậu quả pháp lý nhất định. Mặc dù chưa bị khởi tố để điều tra nhưng người bị
tạm giữ đã bị buộc tội và hậu quả của sự buộc tội đó là người bị tạm giữ bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là tạm giữ.

2
Những vấn đề lý luận về luật tố tụng hình sự và tội phạm học, UBKHXH, H-1982, trang107)
3
Hoàng Thị Sơn, “Về khái niệm quyền bào chữa và việc đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo”, tạp chí Luật
học số 5 năm 2000, trang 40
7
Từ nhận định trên có thể khẳng định đối tượng bị buộc tội chỉ có thể là người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo vì thế họ là chủ thể của QBC. Những người tham gia tố tụng khác
không thể là chủ thể của QBC trong tố tụng hình sự. Việc BLTTHS quy định “người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa” (Điều 11
BLTTHS 2003) là quy định tiến bộ, phù hợp với xu hướng xây dựng Nhà nước Pháp
quyền ở nước ta hiện nay.
Quyền bào chữa là một quyền tố tụng quan trọng “là hình thức chủ đạo thực hiện
chức năng bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS”. Các chủ thể này
được sử dụng tất cả các biện pháp mà pháp luật không cấm để chống lại, bác bỏ, phủ
nhận lời buộc tội của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự trong vụ án. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện QBC bằng cách tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình và khi nhờ người khác bào chữa cho mình cũng
không làm mất đi quyền bào chữa của họ. Bào chữa trong tố tụng hình sự là một nhu cầu
tất yếu, khách quan và tồn tại với tư cách là một chức năng xuất phát từ mục đích, nhiệm
vụ của TTHS đặt ra với CQTHTT, NTHTT và NTGTT.
Hoạt động xét xử là kết quả của quá trình đấu tranh giữa hai mặt đối lập: buộc tội
và bào chữa. Nhờ sự đối trọng, phản biện của QBC mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
phải xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, tránh làm oan người vô
tội. QBC tồn tại trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo cũng có nghĩa là chống lại sự buộc tội và ngược lại, khi chống lại
sự buộc tội cũng có nghĩa là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo.
Nhận thức được ý nghĩa lớn lao của QBC nên các nhà lập pháp nước ta đặt ra các
trường hợp bắt buộc sự tham gia của người bào chữa. Đây là những trường hợp mà Nhà

nước nhận thấy họ bất lợi hơn các bị can, bị cáo khác được quy định tại khoản 2 Điều 57
BLTTHS 2003. Việc đặt ra các trường hợp này vừa để đảm bảo QBC cho các đối tượng
vừa buộc các CQTHTT cẩn trọng hơn trong đánh giá chứng cứ và định tội, quy định này
vừa thể hiện tính nhân đạo, tôn trọng quyền con người trong TTHS.
8
Thừa nhận QBC cũng tức là thừa nhận tính tranh tụng trong hoạt đông tố tụng.
Càng mở rộng QBC bao nhiêu thì càng mở rộng tính tranh tụng bấy nhiêu và hiệu quả
tương ứng là càng hạn chế khả năng làm oan sai người vô tội trong xét xử.
Vậy, quyền bào chữa trong TTHS là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định,
cho phép người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự
buộc tội của các CQTHTT làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự.
1.2. Đặc điểm của quyền bào chữa.
Bào chữa là quyền không phải là nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Họ
có thể bảo vệ mình một cách tích cực (đề xuất chứng cứ, tham gia tranh luận tích cực,…).
Họ cũng có thể không sử dụng quyền đó (không muốn bào chữa). Song trong trường hợp
này các cơ quan tiến hành tố tụng không thể coi đó là bằng chứng về tội lỗi của người bị
tạm giữa, bị can, bị cáo.
4
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được ghi nhận, phát triển trên
cơ sở những quy định của Hiến pháp gắn liền với quá trình lập hiến, quá trình xây dựng
hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức Cơ quan Điều tra, truy tố, xét xử nhằm không
ngừng nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền dân chủ của công dân, góp
phần giáo dục, củng cố ý thức pháp luật của công dân trong xã hội.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam có tính ổn định
và tính kế thừa. Tính ổn định thể hiện ở QBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được
ghi nhận một cách nhất quán trong các bản Hiến pháp và pháp luật bao gồm quyền tự bào
chữa và nhờ người khác bào chữa.
Quyền tự bào chữa là nguyên tắc cơ bản, quan trọng thể hiện quyền dân chủ của
công dân mà chủ thể của nó chỉ có thể là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà không phải
là ai khác.

Nhờ người khác bào chữa là hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sư hoặc những
người khác theo quy định của của pháp luật nhằm hỗ trợ cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo thực hiện quyền bào chữa của mình khi họ không đủ điều kiện thực hiện quyền bào
4
Bình luận khoa học Bộ Luật tố tụng hình sự, Nxb CTQG, H-2001, trang 40
9
chữa hoặc trong trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có người bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm đảm bảo tính khách quan và tính hợp pháp.
1.3. Chủ thể của quyền bào chữa.
Theo quy định của pháp luật, chủ thể của quyền bào chữa trong TTHS là người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo. Theo điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của họ theo đúng quy định của Bộ luật này”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 BLTTHS 2003 thì “Người bị tạm giữ là người
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã
hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 BLTTHS 2003 thì “Bị can là người đã bị khởi
tố về hình sự”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 thì “Bị cáo là người bị Tòa án quyết định đưa
ra xét xử”
Họ là những người được pháp luật đảm bào quyền bào chữa và chỉ có họ mới là
chủ thể của QBC.
1.4. Phương thức thực hiện quyền bào chữa.
Phương thức thực hiện QBC là cách thức sử dụng những quyền mà pháp luật quy
định cho người bị buộc tội để chống lại một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của CQTHTT
hoặc làm giảm nhẹ hay loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án.
Theo quy định tại Điều 11 và Điều 48, 49, 50 BLTTHS 2003 thì người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Tự bào chữa là hình thức người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Tự bào chữa là quyền năng tố tụng
đặc thù của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho
phép người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự mình thực hiện các hành vi tố tụng và biện pháp
bào chữa theo quy định của pháp luật nhằm minh oan, bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự
buộc tội, làm giảm nhẹ hay loại trừ trách nhiệm hình sự cho mình.
Nhờ người khác bào chữa là hình thức người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhờ luật sư,
bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền bào chữa của
10
mình khi họ không đủ điều kiện tự mình thực hiện QBC hoặc trong trường hợp pháp luật
quy định bắt buộc phải có người bào chữa cho bị can, bị cáo nhằm đảm bảo tính khách
quan và tính hợp pháp của hoạt động TTHS. Những người được bị can, bị cáo và người
bị tạm giữ mời mà được CQTHTT chấp nhận thì được gọi là người bào chữa(NBC).
Người bào chữa được sử dụng tất cả các quyền do pháp luật quy định cho họ để
chứng minh cho sự vô tội của bị can, bị cáo và người bị tạm giữ cũng như làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý.
Nhờ người khác bào chữa là một đảm bảo rất quan trọng cho quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bởi vì trong nhiều trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo không hiểu biết về pháp luật thì họ không thể tự mình sử dụng hết các quyền mà
pháp luật quy định cho họ để bảo vệ quyền lợi cho mình. Trong tương quan giữa nhà
nước và người dân thực chất là mối quan hệ không ngang bằng, Nhà nước nắm quyền lực
cai trị nên vì lợi ích tồn tại chính mình, nhà nước sử dụng quyền lực. Người dân không có
công cụ nào khác ngoài sử dụng pháp luật và dựa vào pháp luật. Cho nên việc tham gia
của người bào chữa để giúp đỡ cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý, bảo
vệ quyền lợi hợp pháp cho họ là điều rất cần thiết khi họ rơi vào vòng tố tụng. Bên cạnh
đó, quá trình đánh giá chứng cứ và xác định sự thật khách quan của vụ án đều phải thông
qua lăng kính chủ quan của con người nên việc đưa ra các kết luận, quyết định phụ thuộc
vào trình độ kiến thức, đạo đức, thói quen nghề nghiệp, tư duy pháp lý của những
NTHTT. Quyền nhờ người khác bào chữa là một kênh thông tin phản biện và là cơ chế
giám sát hiệu quả đối với các hoạt động tố tụng của người THTT.Việc nhờ người khác
bào chữa không làm mất đi quyền bào chữa của bị can, bị cáo và người bị tạm giữ, nghĩa

là trong mọi trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn được sử dụng các quyền mà
pháp luật cho phép để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đó là hai nội dung của
quyền bào chữa, nó có tác dụng bổ sung cho nhau chứ không triệt tiêu lẫn nhau và song
song cùng tồn tại.
2. Người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.
2.1 Khái niệm người bào chữa:
11
Trong khoa học pháp lý và thực tiễn hiện nay có rất nhiều quan điểm về người bào
chữa:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong
việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có
căn cứ và đúng pháp luật”.
5
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Người bào chữa không chỉ là người đại diện trong
tố tụng của bị can mà còn là một người tham gia tố tụng độc lập có thể đưa ra quan điểm
của mình trong một số trường hợp mà không phụ thuộc vào ý chí của bị can
6
.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Người bào chữa là người tham gia tố tụng để giúp đỡ
Tòa án”.
7
Quan điểm thứ 4 cho rằng: “Người bào chữa là người tham gia tố tụng với trách
nhiệm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, họ được phép sử dụng mọi phương tiện
do luật định để bào chữa cho bị can, bị cáo, đồng thời giúp đỡ cho bị can, bị cáo về mặt
pháp lý để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho họ”.
8
Quan điểm thứ năm: “Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp
pháp của bị cáo, những người khác được bị cáo ủy quyền mời hay được CQTHTT chỉ
định để bào chữa cho bị cáo, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị cáo và giúp đỡ bị cáo về mặt pháp lý”.

9
Quan điểm thứ sáu cho rằng: “Người bào chữa trong vụ án hình sự là người bảo vệ
quyền lợi cho bị can, bị cáo bằng cách sử dụng những biện pháp do pháp luật quy định để
làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm của bị can, bị cáo”.
10
5
M.Chen-Txop M.A, “Luật sư trong tố tụng hình sự Xô viết, M-1954, trang 54
6
Nguyễn Văn Đắng, “Người bào chữa trong luật TTHS Việt Nam”, Luận văn tố nghiệp cử nhân luật học, TpHCM-
1998, trang 5
7
Ngô Hướng Đàm, “Về quyền bào chữa của bị cáo ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tạp chí Luật học
số 3/1997, trang 26
8
Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, H-2000, trang 26
9
Đinh Văn Quế, “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb CTQG, H-1999, trang 110
10
Nguyễn Mai Bộ, “Người bào chữa trong vụ án hình sự”, tạp chí nhà nước và pháp luật số 2/1999
12
Trong các quan điểm trên thì quan điểm thứ tư, thứ năm, thứ sáu đã khái quát
được những đặc điểm chung về NBC là hướng tới việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị buộc tội, được sử dụng các công cụ pháp lý để làm sáng tỏ tình tiết của
vụ án. Những quan điểm còn lại là chưa hoàn toàn chính xác vì nó chữa làm rõ khái
niệm, vị trí, vai trò, chức năng của NBC cũng như chưa phân biệt được người bào chữa
với người tham gia tố tụng khác và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Qua đó ta thấy NBC là người tham gia TTHS theo quy định của pháp luật để đưa
ra những chứng cứ, tình tiết xác định sự vô tội, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp

lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đồng thời thông qua đó góp phần bảo
vệ pháp chế XHCN.
Việc tham gia của người bào chữa trong TTHS là cần thiết, khách quan. Người bị
buộc tội luôn ở trạng thái bị động, tâm lý hoang mang, lo sợ về số phận pháp lý của mình.
Họ thường là những người bị hạn chế về kiến thức pháp lý, thiếu kinh nghiệm trong hoạt
động tố tụng. Khi đó bên buộc tội gồm CQTHTT và NTHTT là những chủ thể được nhà
nước trao quyền để tiến hành tố tụng. Bản thân các chủ thể này có kiến thức pháp luật,
được đào tạo cơ bản, có chuyên môn, kinh nghiệm trong việc quy kết và xử lý tội phạm.
Vì vậy, người bị buộc tội bất lợi hơn so với bên buộc tội, vì vậy sự hiện diện của NBC để
giúp đỡ cho người bị buội tội là một đòi hỏi tất yếu, khách quan, tạo ra thế cân bằng trong
TTHS.
Để trở thành NBC trong TTHS cần có 2 điều kiện gồm điều kiện về chủ thể và
hình thức. Chủ thể, họ phải là một trong những người được quy định tại khoản 1 Điều 56
BLTTHS 2003. Về hình thức, họ phải được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người
đại diện hợp pháp của họ mời hoặc CQTHTT yêu cầu đoàn Luật sư cử và họ phải được
CQTHTT cấp giấy chứng nhận bào chữa theo quy định tại khoản 4 Điều 56 BLTTHS
2003.
Khi tham gia với tư cách NBC trong TTHS thì NBC có 2 nhiệm vụ. Đó là bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XHCN. Hai nhiệm
vụ này có mối quan hệ khăng khít với nhau, thực hiện cả 2 nhiệm vụ này tức NBC đã
13
hướng đến mục tiêu của TTHS là điều tra, truy tố, xét xử vụ án một cách khách quan,
đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội và lợi ích của công dân.
2.2 Thực trạng người bào chữa ở Việt Nam :
Ở Việt Nam, vị trí của người bào chữa chưa được quan tâm đúng mức ngoài ra
nhiều quy định của Tòa án gây khó dễ cho người bào chữa như thủ tục cấp và thu hồi
giấy chứng nhận người bào chữa. Theo đó, để được tham gia vụ án, luật sư phải trình cơ
quan tiến hành tố tụng 3 loại giấy tờ (gồm: 1) văn bản nhờ luật sư bào chữa của bị can, bị
cáo, 2) người bị tạm giữ hoặc người đại diện hợp pháp của họ, 3) văn bản của văn phòng
luật sư cử luật sư bào chữa và thẻ luật sư), đồng thời đáp ứng đầy đủ một số yêu cầu

nhiêu khê khác, đặc biệt giấy chứng nhận bào chữa được coi là cái vòng kim cô đối với
luật sư.
3. Sự tham gia bắt buộc của NBC trong TTHS
3.1 Khái niệm sự tham gia bắt buộc của NBC:
NBC tham gia vào TTHS khi được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mời hoặc do
CQTHTT yêu cầu. Thông thường sự tham gia của NBC phụ thuộc vào ý chí của người bị
buộc tội. Họ có thể trực tiếp mời hoặc ủy quyền cho người thân của mình mời NBC. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt luật định sự tham gia của NBC là bắt buộc không
phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. Đó là các trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 57 và khoản 2 Điều 305 BLTTHS 2003. Trong lý luận gọi đây là trường hợp bào
chữa bắt buộc còn thực tiễn gọi là bào chữa chỉ định.
Quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003 có thể hiểu là sự tham gia bắt buộc
của NBC được áp dụng trong cả thủ tục phúc thẩm. Quy định sự tham gia bắt buộc của
người bào chữa trong TTHS là bảo đảm bổ sung cho việc thực hiện QBC của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo.
Các trường hợp bào chữa bắt buộc trước hết người bị buộc tội phải được đảm bảo
đầy đủ QBC như tất cả bị can, bị cáo khác, tức là họ vẫn có quyền tự bào chữa và nhờ
người khác bào chữa và các CQTHTT phải bảo đảm cho họ thực hiện quyền này. Tuy
nhiên, sự tham gia của NBC bắt buộc có sự khác biệt so với các trường hợp thông thường
ở những điểm như sau:
14
- Cơ sở pháp lý đầu tiên để NBC tham gia vụ án là sự chủ động thực hiện
nghĩa vụ bảo đảm QBC của bị can, bị cáo từ phía CQTHTT bằng cách yêu cầu hoặc đề
nghị đoàn Luật sư hoặc Ủy ban Mặt trận tổ quốc của NBC.
- Quyết định quản lý của đoàn Luật sư hoặc Uỷ ban mặt trận tổ quốc là cơ sơ
pháp lý tiếp theo để NBC tham gia vụ án chứ không phải sự thỏa thuận giữa bị can, bị
cáo và NBC.
- Bị can, bị cáo là người chưa thành niên(NCTN) hoặc có nhược điểm về thể
chất hoặc tinh thần vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC đã được cử nhưng
quyền này không có tính tuyệt đối.

- Chi phí cho NBC do nhà nước thanh toán.
Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa là quy định tiến bộ và đầy nhân đạo của
BLTTHS. Quy định này trước hết xuất phát từ lợi ích của bị can, bị cáo. Sự tham gia của
NBC vào vụ án không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo như là sự nhân đôi bảo đảm
QBC cho họ. Vì thế nhà nước nên luật hóa việc hạn chế quyền của chủ thể của tất cả các
đối tượng thuộc quyền bào chữa bắt buộc vì các đối tượng này là những người ở tình thế
khó khăn, bất lợi hơn so với các bị can, bị cáo khác.
Như vậy, sự tham gia bắt buộc của NBC là việc CQTHTT và NTHTT phải bảo
đảm cho người bị buội tội theo luật định có NBC trong mọi giai đoạn tố tụng.
3.2 Ý nghĩa của sự tham gia bắt buộc của người bào chữa.
- Ý nghĩa chính trị:
+ Sự tham gia bắt buộc của NBC tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thực hiện quyền công dân.
+Thực hiện quyền bào chữa bắt buộc là quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
+Bào chữa bắt buộc là biểu hiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
- Ý nghĩa xã hội:
Việc đảm bảo tham gia bắt buộc của NBC mang ý nghĩa xã hội to lớn. Thể hiện
chính sách nhân đạo của Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói
15
chung và giải quyết vụ án hình sự nói riêng. Ngoài ra, chế định này còn biểu hiện tính
dân chủ trong TTHS vì trong thực tế CQTHTT khi thu thập chứng cứ thường chỉ chú
trọng vào các chứng cứ buộc tội mà không chú trọng đến chứng cứ gỡ tội cho bị can, bị
cáo nên việc quy định bào chữa bắt buộc sẽ tạo thế cân bằng trong việc tranh luận, giúp
CQTHTT xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, tránh bỏ lọt
tội phạm và không làm oan sai người vô tội. Bên cạnh đó còn góp phần bảo vệ pháp chế
XHCN, góp phần giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật của công dân.
- Ý nghĩa pháp luật:
+Bảo đảm quyền bào chữa bắt buộc đối với các bị can, bị cáo bất lợi hơn so với bị
can, bị cáo khác.
+Góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo trong quá trình tố

tụng, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội, đảm bảo điều tra, truy tố,
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
+Bảo đảm sự tham gia bắt buộc của người bào chữa đối với trường hợp luật định
góp phần thực hiện chức năng cơ bản của BLTTHS đó là chức năng bào chữa. Thừa nhận
bào chữa bắt buộc là một trong những biểu hiện sinh động cho việc tiến tới nguyên tắc
tranh tụng trong TTHS. Chỉ có tranh tụng trong TTHS-hoạt động giải quyết tranh chấp
pháp lý mới có cơ hội đạt đến chân lý vì sự tham gia bắt buộc của người bào chữa vừa là
đảm bảo bổ sung cần thiết cho quyền bào chữa vừa bảo đảm bổ sung cho hoạt động tố
tụng có tính tranh tụng cao, tạo cơ sở cho việc xác định sự thật khách quan vụ án, hạn chế
tối đa những vi phạm và sai lầm tư pháp.
3.3 Đối tượng của chế định bào chữa bắt buộc
Theo Khoản 2 Đ57 BLTTHS 2003:
“2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án
phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc
đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người
bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy
định tại Bộ luật hình sự;
16
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất.”
Theo đó thì những người sau đây là đối tượng của quyền bào chữa bắt buộc:
+ Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy
định tại Bộ luật hình sự;
+ Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất.
II. CHẾ ĐỊNH BÀO CHỮA BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1. Chế định bào chữa bắt buộc

Quy định tại khoản 2 Điều 57(BLTTHS) và Mục 3 Phần II Nghị quyết số
03/2004/NQ-HĐTP HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH TRONG
PHẦN THỨ NHẤT “NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG” CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ NĂM 2003
Chế định bào chữa bắt buộc là việc Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát hoặc Tòa án
yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa khi bị can, bị cáo,
hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa hoặc đề nghị Uỷ Ban
Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho bị
can, bị cáo, hoặc người đại diện hợp pháp là thành viên của tổ chức mình.
Các trường hợp áp dụng chế định bào chữa bắt buộc: Khoản 2 Điều 57(BLTTHS)
+ Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy
định tại BLHS.
+ Bị can bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất.
1.1 Tại sao áp dụng chế định bào chữa bắt buộc đối với người chưa thành
niên?
Ở Việt Nam, vi phạm do người chưa thành niên (CTN) gây ra là nỗi đau của gia
đình, cha mẹ đồng thời là vấn đề nhức nhối của xã hội.
17
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ người chưa thành niên được dùng để chỉ những
người chưa đủ 18 tuổi. Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm, chăm lo về mọi mặt
nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của họ. Nguyên nhân của việc có những quy
định riêng ưu tiên trong pháp luật Việt Nam nói chung và chế định bào chữa bắt buộc
trong luật tố tụng hình sự nói riêng đối với người chưa thành niên là :
 Nguyên nhân chung
+ Xét từ góc độ tâm sinh lý: Người chưa thành niên là người ở vào thời kỳ
chuyển tiếp từ trẻ con lên người lớn nên họ chưa phát triển toàn diện về thể lực, trí lực và
tinh thần. Do đó, nhân cách ở lứa tuổi này chưa hoàn chỉnh nên họ thường hành động bộc
phát, nông nổi, dễ bị kích động lôi kéo rất khó kiềm chế.
+ Xét về mặt xã hội cũng như kinh nghiệm sống: Do ảnh hưởng của mặt trái

kinh tế thị trường, từ những luồng tư tưởng văn hóa độc hại xâm nhập thông qua các con
đường khác nhau trong quá trình mở cửa hội nhập đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, lối
sống của không ít người, trong đó có người chưa thành niên. Đa số người chưa thành
niên là người thiếu kinh nghiệm sống, hạn chế về hiểu biết xã hội và hiểu biết pháp luật
nên họ thường lựa chọn cách ứng xử thiếu đúng đắn, dễ mắc sai lầm, thậm chí còn phạm
tội.
 Nguyên nhân thực tiễn:
Nhìn vào thực tiễn xã hội hiện nay, ta có thể nhận thấy những nguyên nhân cụ thể
làm cho người chưa thành niên phạm tội là :
Thứ nhất, xét trên khía cạnh văn hoá tinh thần, một nhóm nhỏ người CTN mong
muốn thể hiện khát khao của lứa tuổi mình là được khẳng định sự trưởng thành. Về mặt
tâm lý đặc trưng của trẻ bây giờ có nhiều mâu thuẫn: trẻ em lớn về mặt thể xác nhưng về
mặt định hướng tâm lý chưa trưởng thành. Trong khi đó, nền giáo dục tại nhiều gia đình
ngày nay không phù hợp, lại làm cho trẻ không tự tin vào bản thân của chính mình,
không biết mình lớn hay là còn bé, dẫn đến hình thành những phẩm chất và hành vi sai
trái của người chưa thành niên.
Thứ hai, khía cạnh từ chính bản thân người chưa thành niên, họ vi phạm pháp luật
do không tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. Thêm nữa, có thể họ xuất thân trong gia
18
đình mà sự gắn kết, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình không được tốt.
Trẻ dễ nảy sinh một số hành vi như chống đối, nói dối, thiếu tự tin, kém giao tiếp, bị
động, thiếu hoà nhập, hay sợ hãi… Dần dần các hành vi trên sẽ tiến triển lệch lạc, dẫn
đến rối loạn hành vi chống đối như bỏ nhà, trốn học, đi lang thang, trầm cảm… Hậu quả
là một số trẻ đã tự tử hoặc nghiện hút, phạm tội ở lứa tuổi chưa thành niên.
Thứ ba, từ chỗ muốn khẳng định mình, không tìm thấy niềm vui trong cuộc sống.
Xét trên bình diện xã hội, một bộ phận người CTN có thể mất lòng tin ở cuộc sống nói
chung. Xã hội thay đổi, sự nhìn nhận đánh giá giá trị của con người cũng khác trước.
Nhưng sự giáo dục của xã hội về nhiều mặt như nhận thức về: người tốt người xấu? Ai là
hình mẫu lý tưởng? Người giàu có hay người học hành tử tế? Và thế nào là người thành
đạt? có thể không phù hợp. Bên cạnh đó, khi trẻ bị mất niềm tin vào cha mẹ, gia đình,

thậm thí hiện nay có tình trạng cán bộ, nhà giáo vi phạm pháp luật, phạm tội, vi phạm
đạo đức nghề nghiệp ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục đặc biệt tác động đến tâm
lý của người chưa thành niên. Trong điều kiện đó, khi người CTN rơi vào trạng thái tinh
thần, tình cảm tiêu cực nếu không có định hướng đúng, kịp thời, họ sẽ rất dễ có những
hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ tư, bản thân người CTN chưa có ý thức về bản thân cũng như cuộc sống của
chính mình. Cho dù là người CTN sinh ở nông thôn hay thành thị, sống trong điều kiện
gia đình giàu hay nghèo thì một điều rõ ràng là trẻ em hiện nay được sống trong một môi
trường tốt hơn rất nhiều so với trước, có đầy đủ các điều kiện để phát triển, được hưởng
sự quan tâm, ưu đãi của toàn xã hội, được hưởng một nền giáo dục hiện đại. Chính vì
vậy, nhiều người chưa thành niên không có ý thức độc lập, không biết tự chăm sóc chính
mình và không có bản lĩnh trong cuộc sống nên họ phạm tội mà không hề hay biết.
1.2 So sánh giữa người thành niên và người chưa thành niên trong chế
định bào chữa
Điểm giống nhau:
 Luôn được bảo đảm quyền có người bào chữa.
19
 Thời điểm tham gia của người bào chữa: Theo khoản 1 Điều 58 BLTTHS
2003 “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người
theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng
từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm
phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa
tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra”.
 Bị can, bị cáo là người thành niên phạm về tội theo khung hình phạt có mức
cao nhất là tử hình được quy định trong BLHS (điểm a khoản 2 điều 57 BLTTHS) và bị
can, bị cáo là người chưa thành niên (điểm b khoản 2 điều 57 BLTTHS) đều được Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, hoặc Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng
luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Tổ
chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình khi bị
can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa (khoản 3

Điều 57 BLTTHS)
Điểm khác nhau:
Tiêu chí Người thành niên Người chưa thành niên
Cơ sở pháp

Điều 11 BLTTHS, Điều 57
BLTTHS 2003.
Điều 57 BLTTHS, Điều 305
BLTTHS 2003.
Áp dụng
khoản 2 điều
57, BLTTHS
Chỉ áp dụng khoản 2 điều 57
BLTTHS cho người thành niên khi
bị can, bị cáo không mời người
bào chữa mà phạm về tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất
là tử hình được quy định tại
BLTTHS 2003.
Mọi trường hợp người chưa thành
niên phạm tội mà không mời người
bào chữa đều áp dụng khoản 2 điều
57 BLTTHS 2003.
20
Quyền thay
đổi hoặc từ
chối người
bào chữa
Có quyền tuyệt đối yêu cầu
thay đổi hoặc từ chối người bào

chữa được cử cho họ.
Có quyền nhưng không tuyệt đối
trong việc yêu cầu thay đổi hoặc từ
chối người bào chữa được cử cho họ.
2. Lý luận về chế định người bào chữa bắt buộc
Chế định bào chữa bắt buộc đối với người chưa thành niên là quy định của pháp
luật nhằm đảm bảo các quyền lợi của người chưa thành niên và thể hiện tính nhân đạo
của pháp luật.
Từ những nguyên nhân về tâm sinh lý, kinh nghiệm xã hội…của người chưa thành
niên, pháp luật đã quy định người đại diện hợp pháp có nhiều quyền trong việc bào chữa
hoặc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo chưa thành niên. Quy định này không phải là
sự ép buộc làm mất đi sự tự do của người chưa thành niên mà là sự bảo vệ của pháp luật
đối với sự phát triển chưa đầy đủ của người chưa thành niên.
Bị can, bị cáo chưa thành niên có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào
chữa đã được cử cho họ nhưng quyền này không có tính tuyệt đối, nó phụ thuộc vào cả
sự đồng ý của người đại diện hợp pháp lẫn Tòa án. Ta có thể thấy rằng, trước khi mở
phiên tòa nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu từ chối người
bào chữa, thì vẫn tiến hành triệu tập người bào chữa đã được cử tham gia phiên tòa theo
thủ tục chung. Nếu tại phiên tòa họ vẫn tiếp tục có yêu cầu từ chối người bào chữa thì
Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo hướng dẫn tại điểm d mục 3 phần II của Nghị
quyết 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02 tháng 10 năm 2004 hướng dẫn thi hành một số quy
định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS năm 2003. Tại phiên tòa
nếu chỉ có bị cáo là người chưa thành niên từ chối người bào chữa còn người đại diện
hợp pháp của bị cáo không từ chối thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của
người bào chữa đã được cử. Đây là một quy định đúng đắn và tiến bộ xuất phát trước hết
vì lợi ích của chính các bị can, bị cáo. Nhưng trong quy định ở khoản 2 Điều 57 BLTTHS
21
năm 2003 và trong nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP thì quyền quyết định của các chủ
thể này không còn tính tuyệt đối mà bị phụ thuộc vào sự xem xét chấp nhận hay không
chấp nhận của Tòa án. Lý do hạn chế quyền chủ thể ở đây cũng là lý do về sự tham gia

bắt buộc của người bào chữa: các chủ thể là những người có khó khăn hơn so với các
trường hợp bình thường khác trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình nên cần có
sự can thiệp từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng.
• Từ lâu trong luật đã có quy định cho bào chữa viên nhân dân được quyền
tham gia bào chữa nhưng vẫn chưa cụ thể các trường hợp có mặt của họ.Vì vậy trong
BLTTHS năm 2003,việc nhà làm luật bổ sung thêm một nội dung : “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình” là rất cần thiết vì từ trước
tới nay việc cho bào chữa viên nhân dân được quyền tham gia bào chữa nhưng trong
những trường hợp nào thì không được quy định rõ ràng nay đã được quy định cụ thể.
Riêng vấn đề từ chối người bào chữa được quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS
năm 2003 ta thấy cần phải hoàn thiện thêm vì như vậy là không hợp lý. Việc không phân
biệt quyền từ chối người bào chữa của hai nhóm đối tượng được quy định tại điểm a và
điểm b khoản 2 điều luật này là một sự không chặt chẽ về mặt lý luận. Đối tượng được
quy định tại điểm a hoàn toàn khác với đối tượng quy định tại điểm b. Sự khác biệt đó
như sau:
- Những đối tượng được quy định tại điểm a nhận thức được đúng đắn và đầy
đủ hành vi từ chối người bào chữa của mình và họ biết được khả năng và hậu quả có thể
xảy ra khi họ từ chối người bào chữa. Và vì vậy để cho họ có quyền chủ quan tuyệt đối từ
chối người bào chữa là hợp lý.
- Còn những đối tượng được quy định tại điểm b là những đối tượng chưa đủ
trình độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần hoặc là những người bị khiếm khuyết về
thể chất hoặc khiếm khuyết về tâm thần thì liệu họ có nhận thức được đầy đủ và đúng đắn
về hành vi từ chối người bào chữa của mình hay không? Họ có thể hiểu được những hậu
quả có thể xảy ra khi họ từ chối người bào chữa không? Có trường hợp họ có thể hiểu
được, nhận thức được mà cũng có những trường hợp không.
22
Vì vậy cần phải phân biệt quyền từ chối người bào chữa của hai nhóm đối tượng
này một cách rạch ròi hơn. Có nghĩa là nên cho đối tượng được quy định tại điểm a có
quyền từ chối người bào chữa như quy định của pháp luật hiện hành còn nhóm đối tượng

được quy định tại điểm b thì tuỳ từng trường hợp mà Cơ quan tiến hành tố tụng quyết
định cho họ có quyền từ chối hay không được từ chối người bào chữa.
- Với những ý kiến nói trên, quan điểm của nhóm cho rằng cần phải sửa đổi,
bổ sung đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 như sau: “Những trường hợp được
quy định tại điểm a khoản 2 điều này bị can, bị cáo vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc
từ chối người bào chữa. Còn đối với những trường hợp được quy định tại điểm b khoản 2
điều này thì bị can, bị cáo và đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi
người bào chữa và nếu họ từ chối người bào chữa thì tùy từng trường hợp cơ quan tiến
hành tố tụng phải làm rõ lý do từ chối trước khi quyết định”.
11
• Theo quy định tại Điều 57 BLTTHS Việt Nam, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong các trường hợp chỉ định NBC có 3 quyền: quyền lựa chọn, quyền yêu cầu thay
đổi và quyền từ chối NBC. Trong nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP cũng có những quy
định cụ thể các quyền trong điều 57 BLTTHS 2003. Tuy nhiên,theo quan điểm của
nhóm, việc quy định các quyền này chưa rõ ràng và hợp lý, gây khó khăn trong việc áp
dụng pháp luật. Do đó, nên sửa đổi, bổ sung Điều 57 BLTTHS về một số nội dung theo
hướng phân định rõ: quyền lựa chọn NBC trong trường hợp bị can, bị cáo tự thuê với
trường hợp NBC do Cơ quan THTT chỉ định cũng như quyền quyết định cuối cùng trong
việc lựa chọn NBC và trường hợp NBC do Cơ quan THTT chỉ định
Liên quan đến quyền lựa chọn NBC, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định về
quyền lựa chọn NBC theo hướng phân định rõ quyền lựa chọn NBC trong trường hợp bị
can, bị cáo tự thuê với trường hợp NBC do Cơ quan THTT chỉ định.
- Với trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã thành niên, họ
có quyền lựa chọn và thay đổi NBC cho mình. Trong trường hợp họ không thể trực tiếp
mời (thuê) NBC thì người đại diện hợp pháp có thể mời NBC với sự đồng ý của họ.
11
Theo NGUYỄN DUY HƯNG Tiến sĩ, GV Khoa Luật Hình sự - ĐH Luật TP.Hồ Chí Minh
23
- Đối với trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện hợp pháp của họ

cũng có quyền lựa chọn NBC. Nếu có sự không thống nhất về việc lựa chọn NBC giữa
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ, thì quyền quyết định
cuối cùng sẽ do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quyết định.
12
12
ThS. Lương Thị Mỹ Quỳnh, ĐH Luật TP.HCM .Theo: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử
24
PHẦN 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH NGƯỜI BÀO
CHỮA BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI.
III. Thực tiễn và hướng giải quyết
1. Thực trạng trong việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa:
Thực tiễn xét xử các vụ án có người chưa thành niên phạm tội cho thấy, phần lớn
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên do Luật sư thực hiện dưới sự
chỉ đạo của Toà án hoặc sự phân công của các tổ chức trợ giáp pháp lý nhà nước. Sự
tham gia của Luật sư nói riêng, người bào chữa nói chung có ý nghĩa quan trọng, nếu
tham gia càng sớm thì quyền lợi của bị can, bị cáo chưa thành niên càng được bảo đảm
hơn. Việc tham gia của người bào chữa từ giai đoạn khởi tố bị can sẽ tạo cho bị can, bị
cáo là người chưa thành niên sự bình tĩnh trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung… Với sự
hiểu biết về pháp luật người bào chữa góp phần ngăn chặn những hạn chế, bất cập có thể
xảy ra từ phía CQTHTT có khả năng ảnh hưởng tới quyền lợi của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên. Với quá trình nghiên cứu hồ sơ, trò chuyện tìm hiểu hoàn cảnh gia đình,
môi trường giáo dục, cơ sở người bào chữa đưa ra nhiều tình tiết giảm nhẹ để đề xuất cho
bị can, bị cáo là người chưa thành niên hưởng mức hình phạt thấp nhất có thể, giúp họ
sớm nhận ra sai lầm và sớm có cơ hội trở lại cuộc sống bình thường. “Theo đánh giá của
chính phủ, ở Việt Nam chỉ có khoảng 20% số vụ tố tụng hình sự có luật sư tham gia…”-
LS Trương Trọng Nghĩa, Phó chủ tịch LĐLS Việt Nam, Phó Chủ Nhiệm Đoàn LS TP Hồ
Chí Minh nêu. Như vậy số vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung và là
người thành niên nói riêng tự mình bào chữa còn chiếm tỉ lệ lớn, số vụ án tố tụng hình sự
không có người bào chữa chiếm khoảng 80% đây là một tỉ lệ khá cao. Có nhiều nguyên

25

×