nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 31
Dơng Tuyết Miên *
uyết định hình phạt đối với ngời cha
thành niên phạm tội là trờng hợp đặc
biệt. Tính chất đặc biệt của trờng hợp này
là ở chỗ hình phạt đợc quyết định nhẹ hơn
so với ngời đ thành niên phạm tội có các
tình tiết khác tơng đơng và mức giảm nhẹ
phụ thuộc vào mức tuổi của ngời phạm tội.
Sở dĩ ngời cha thành niên đợc hởng
chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của Nhà nớc khi có hành vi phạm tội vì họ
có đặc điểm đặc biệt về nhân thân. Ngời
cha thành niên là ngời cha phát triển đầy
đủ về thể chất, tâm sinh lí, cha thể nhận
thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho x hội
của hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức
của họ thờng non nớt, thiếu chín chắn và
đặc biệt họ dễ bị kích động, lôi kéo bởi
những ngời xung quanh, nếu ở môi trờng
xấu và không đợc chăm sóc giáo dục chu
đáo, ngời cha thành niên dễ bị ảnh hởng
thói h tật xấu dẫn đến phạm pháp. Bên
cạnh đó, so với ngời đ thành niên, ý thức
phạm tội của ngời cha thành niên nói
chung cha sâu sắc, họ dễ tiếp thu sự giáo
dục của x hội, nhà trờng cũng nh của gia
đình để từ bỏ con đờng phạm tội. Do vậy,
không thể coi ngời cha thành niên phải
chịu trách nhiệm hình sự giống nh ngời đ
thành niên. Chính vì thế, hình phạt áp dụng
đối với ngời cha thành niên phạm tội phải
nhẹ hơn so với ngời đ thành niên.
Khi quyết định hình phạt đối với ngời
cha thành niên phạm tội, trớc hết toà án
phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Việc xử lí hành vi phạm tội của ngời
cha thành niên chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sửa sai lầm, phát triển lành mạnh
và trở thành công dân có ích cho x hội.
Ngời cha thành niên có thể đợc miễn
trách nhiệm hình sự nếu ngời đó phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại
không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và
đợc gia đình cơ quan, tổ chức nhận giám sát
giáo dục.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự ngời
cha thành niên phạm tội và áp dụng hình
phạt đối với họ đợc thực hiện chỉ trong
trờng hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính
chất của hành vi phạm tội, vào những đặc
điểm của nhân thân và yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy không cần
thiết phải áp dụng hình phạt đối với ngời
cha thành niên phạm tội thì toà án áp dụng
một trong các biện pháp t pháp là giáo dục
tại x, phờng, thị trấn hoặc đa vào trờng
giáo dỡng.
Đối với ngời cha thành niên phạm tội
thì không xử phạt tù chung thân hoặc tử
hình, không áp dụng các hình phạt bổ sung,
không áp dụng hình phạt tiền đối với ngời
cha thành niên phạm tội ở độ tuổi từ 14 đến
Q
* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội
nghiên cứu - trao đổi
32 - Tạp chí luật học
dới 16 tuổi. Khi xử phạt tù có thời hạn, toà
án cho ngời cha thành niên phạm tội đợc
hởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối
với ngời đ thành niên phạm tội tơng ứng.
án đ tuyên đối với ngời cha thành
niên phạm tội khi cha đủ 16 tuổi không
đợc tính để xác định tái phạm hoặc tái
phạm nguy hiểm.
Theo quy định của BLHS năm 1999,
việc quyết định hình phạt đợc tiến hành
nh sau:
+ Đối với phạt tiền: Nếu nh BLHS năm
1985 trớc kia cha quy định áp dụng phạt
tiền đối với ngời cha thành niên phạm tội
thì BLHS năm 1999 đ quy định phạt tiền
đợc áp dụng là hình phạt chính đối với
ngời cha thành niên phạm tội nếu họ ở độ
tuổi từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi và họ có
thu nhập hoặc có tài sản riêng. Quy định mới
này nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tù
đối với ngời cha thành niên đồng thời việc
áp dụng phạt tiền đối với ngời cha thành
niên phạm tội trong những trờng hợp này vẫn
đảm bảo đạt đợc mục đích của hình phạt.
Mức phạt tiền đối với ngời cha thành
niên phạm tội không vợt quá 1/2 mức tiền
phạt mà điều luật quy định.
+ Đối với hình phạt cải tạo không giam
giữ: BLHS năm 1999 quy định giới hạn hình
phạt áp dụng cho cha thành niên phạm tội
không quá 1/2 thời hạn mà điều luật quy
định. Đồng thời, do ngời cha thành niên
hầu nh cha có thu nhập hoặc tài sản riêng
nên BLHS năm 1999 đ không khấu trừ thu
nhập của họ khi những ngời này bị kết án.
+ Đối với hình phạt tù có thời hạn:
BLHS năm 1999 đ phân hoá ngời cha
thành niên ra làm 2 đối tợng là ngời từ đủ
16 tuổi đến dới 18 tuổi và ngời từ đủ 14
tuổi đến dới 16 tuổi với đờng lối xử lí
khác nhau. Ngời từ đủ 14 tuổi đến dới 16
tuổi đợc xử lí nhẹ hơn ngời từ đủ 16 đến
dới 18 tuổi. Trong từng đối tợng cụ thể
nói trên, nhà làm luật tách thành hai trờng
hợp (trờng hợp điều luật quy định hình phạt
tù chung thân, tử hình và trờng hợp điều
luật quy định hình phạt tù có thời hạn) tơng
ứng với mức hình phạt khác nhau phù hợp
với độ tuổi của ngời cha thành niên cũng
nh yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm. Quy định này thể hiện sự tiến bộ về
chất của BLHS năm 1999 khi quy định về
quyết định hình phạt đối với ngời cha
thành niên phạm tội. Cụ thể, Điều 74 quy
định nh sau:
1. Đối với ngời từ đủ 16 tuổi đến dới
18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật đợc áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc
tử hình thì mức hình phạt cao nhất đợc áp
dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời
hạn thì mức hình phạt cao nhất đợc áp
dụng không quá 3/4 mức phạt tù mà điều
luật quy định.
2. Đối với ngời từ đủ 14 tuổi đến dới 16
tuổi khi phạm tội, nếu điều luật đợc áp dụng
quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình,
thì mức hình phạt cao nhất đợc áp dụng
không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì
mức hình phạt cao nhất đợc áp dụng không
quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định".
Đối với trờng hợp ngời cha thành niên
phạm nhiều tội, có tội thực hiện trớc khi đủ 18
tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi thì việc
tổng hợp hình phạt đợc áp dụng nh sau:
Nếu tội nặng nhất đợc thực hiện khi
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 33
ngời đó cha đủ 18 tuổi thì hình phạt
chung không đợc vợt quá mức hình phạt
cao nhất quy định tại Điều 74 Bộ luật này
(khoản 1 Điều 75).
Nếu tội nặng nhất đợc thực hiện khi
ngời đó đ đủ 18 tuổi thì hình phạt chung
áp dụng nh đối với ngời đ thành niên
phạm tội (khoản 2 Điều 75).
Thực tiễn vận dụng Điều 75 BLHS năm
1999 cho thấy nảy sinh vấn đề cần phải
đợc giải quyết, đó là việc xác định tội
nặng nhất. Thực tiễn xét xử đ xác định tội
nặng nhất là tội có mức hình phạt tối đa của
khung hình phạt cao nhất cao hơn. Trong
trờng hợp có mức hình phạt tối đa bằng
nhau thì tội nặng hơn là tội có mức hình
phạt khởi điểm của khung hình phạt cao nhất
cao hơn. Cách xác định này một lần nữa đợc
khẳng định tại Thông t số 01/98 TANDTC -
VKSNDTC - BNV ngày 02/1/1998. Tuy nhiên,
có những trờng hợp không thể xác định đợc
tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa của khung
hình phạt cao nhất của hai tội bằng nhau và
hình phạt khởi điểm của khung có hình phạt
cao nhất cũng bằng nhau. Trong khoa học
luật hình sự hiện nay có nhiều ý kiến khác
nhau. ý kiến thứ nhất cho rằng: "Cơ sở để
xác định tội nặng nhất trong các tội mà
ngời cha thành niên đ phạm là căn cứ
vào hình phạt cụ thể mà Toà án đ tuyên
cho từng tội. Tội nào có hình phạt cao nhất
thì đó là tội nặng nhất trong các tội mà
ngời cha thành niên đ phạm.
(1)
ý kiến
thứ hai cho rằng: Trờng hợp không thể xác
định đợc tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa
của khung hình phạt cao nhất của hai tội
bằng nhau và hình phạt khởi điểm của
khung có hình phạt cao nhất cũng bằng
nhau thì trờng hợp này tội nặng hơn là tội
có hình phạt tối đa của khung hình phạt nhẹ
nhất cao hơn. Nếu hình phạt tối đa của
khung hình phạt nhẹ nhất bằng nhau thì tội
nặng hơn là tội có hình phạt khởi điểm của
khung có hình phạt nhẹ nhất cao hơn.
(2)
Chúng tôi cho rằng ý kiến thứ nhất tuy
có u điểm là đơn giản hoá việc vận dụng
khái niệm tội nặng hơn trong thực tế nhng
không hợp lí vì không thể coi tội trộm cắp
nặng hơn tội giết ngời nếu ở trờng hợp cụ
thể, ngời phạm tội trộm cắp bị phạt 10 năm
tù còn ở tội giết ngời, bị cáo chỉ bị phạt có
7 năm tù. Theo chúng tôi, ý kiến thứ hai hợp
lí hơn nhng cha đủ để giải quyết những
vớng mắc còn lại. Cụ thể là nếu hình phạt
tối đa và hình phạt tối thiểu của khung có
hình phạt nhẹ nhất bằng nhau thì việc xác
định tội nặng hơn sẽ nh thế nào? Theo
chúng tôi, nếu tội nào có quy định hình phạt
bổ sung thì tội đó nặng hơn. Tuy nhiên, nếu
cả hai tội đều quy định hình phạt bổ sung thì
tội nặng hơn sẽ là tội xâm hại khách thể
quan trọng hơn.
Quá trình vận dụng Điều 74 vào thực
tiễn còn gặp vớng mắc khác. Đó là hạn chế
về kĩ thuật lập pháp. Cụ thể là Điều 74 quy
định: nếu điều luật đợc áp dụng có quy
định hình phạt tù chung thân hoặc tử
hình hoặc không quá 3/4 mức phạt tù
mà điều luật quy định hoặc không quá
1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định. Bởi
vì, điều luật quy định về tội phạm cụ thể có
thể có một hoặc nhiều khung hình phạt
trong khi đó Điều 74 chỉ dùng từ chung
chung là điều luật mà không chỉ rõ khung
nghiên cứu - trao đổi
34 - Tạp chí luật học
hình phạt bị áp dụng. Mặt khác, cần hiểu
rằng nhà làm luật quy định giảm nhẹ hình
phạt cho ngời cha thành niên phạm tội so
với ngời đ thành niên là so với trong cùng
một khung hình phạt (trong điều kiện các
tình tiết khác tơng đơng). Do đó, quy định
chung chung nh trên dễ gây hiểu nhầm và
vận dụng không thống nhất. Ví dụ: Bị cáo E
phạm tội cớp tài sản theo khoản 1 Điều
133 BLHS năm 1999, khi phạm tội bị cáo
tròn 15 tuổi. Với quy định cha rõ nh trên
của Điều 74 có thể dẫn đến việc toà án vận
dụng khoản 2 đoạn 1 Điều 74, bởi vì, tội
cớp tài sản có quy định hình phạt tù chung
thân, tử hình. Nếu vận dụng khoản 2 đoạn 1
Điều 74 thì mức hình phạt cao nhất đợc áp
dụng cho bị cáo không quá 12 năm tù trong
khi đó mức cao nhất của khoản 1 Điều 133
chỉ là 10 năm tù (thấp hơn mức 12 năm tù)
và mặc dù đ áp dụng Điều 74 nhng hình
phạt tuyên cho bị cáo có thể còn cao hơn cả
trờng hợp cha giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo. Trong trờng hợp này nếu hiểu đúng
tinh thần của Điều 74 thì phải vận dụng
đoạn 2 khoản 2 Điều 74 mới đúng vì bị cáo
E phạm tội theo Điều 133 khoản 1 và Điều
133 khoản 1 quy định hình phạt áp dụng cho
bị cáo là tù có thời hạn. Trờng hợp này
mức hình phạt cao nhất mà toà án tuyên cho
bị cáo không quá 5 năm tù - không quá 1/2
mức cao nhất của khoản 1 Điều 133. Nh
vậy, nếu áp dụng đoạn 2 khoản 2 Điều 74
thì hình phạt áp dụng cho bị cáo rõ ràng
đợc giảm nhẹ hơn hẳn so với ngời đ
thành niên phạm tội.
Mặt khác, cách diễn đạt mức hình phạt
cao nhất không quá 18 năm tù hoặc
không quá 3/4 mức phạt tù của Điều 74
là còn cha rõ nên có thể gây ra nhiều cách
hiểu khác nhau.
Cách hiểu thứ nhất cách hiểu phổ biến
hiện nay là BLHS đ khống chế mức tối đa
của khung hình phạt đợc phép áp dụng đối
với ngời cha thành niên phạm tội trong sự
so sánh với ngời đ thành niên phạm tội và
BLHS đ không khống chế mức tối thiểu.
Mức hình phạt cao nhất mà ngời cha
thành niên chấp hành phải thấp hơn mức
hình phạt cao nhất áp dụng cho ngời đ
thành niên.
Cách hiểu thứ hai cho rằng mặc dù Điều
74 quy định nh trên nhng thực chất điều
luật này vẫn khống chế cả mức hình phạt tối
đa và mức tối thiểu phải thấp hơn so với mức
tối đa và mức tối thiểu quy định cho ngời
đ thành niên.
Chúng tôi cho rằng để các quy định về
quyết định hình phạt đối với ngời cha thành
niên phạm tội đợc áp dụng có hiệu quả trong
thực tế, Điều 74 BLHS hiện hành cần khắc
phục kịp thời những hạn chế đ phân tích ở
trên để các quy định này thực sự là công cụ
hữu hiệu của Nhà nớc trong cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm./.
(1).Xem: Trần Văn Sơn, Quyết định hình phạt trong
luật hình sự Việt Nam, Luận án thạc sĩ luật học, tr. 101.
(2).Xem: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà, Trách nhiệm
hình sự và hình phạt, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội 2001, tr.101. Có thể thấy quan điểm tơng tự
trong luận án thạc sĩ luật học Quyết định hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam của Trần Văn Sơn
Tác giả cũng đồng tình với quan điểm này bởi vì điều
luật đ dụng thuật ngữ hình phạt cao nhất không
quá nghĩa là chỉ khống chế mức tối đa.