Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

phân biệt thẩm quyền của tòa án và viện kiểm sát trong các cấp xét xử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.16 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
LỚP QUẢN TRỊ - LUẬT K35

BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Đề tài:
PHÂN BIỆT THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN VÀ VIỆN
KIỂM SÁT TRONG CÁC CẤP XÉT XỬ
Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Thùy Dương
Danh sách thành viên nhóm:
Niên khóa : 2012 – 2013
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu Trang 3
A. Phân biệt thẩm quyền của Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn
trước khi xét xử
1. Giai đoạn khởi tố Trang 4
2. Giai đoạn điều tra Trang 8
3. Giai đoạn truy tố Trang 11
B. Phân biệt thẩm quyền của Viện kiểm sát và Tòa án trong các cấp xét
xử
4. Giai đoạn xét xử sơ thẩm Trang 15
5. Giai đoạn xét xử phúc thẩm Trang 24
6.
2
LỜI MỞ ĐẦU
Tòa án, một danh từ được hầu như mọi người biết đến trong đời sống
hiện nay. Nó là một sản phẩm của nền văn minh nhân loại. Là biểu tượng của sự
công bằng hiện hữu… Rất nhiều mỹ từ được dùng để mô tả về Tòa án hiện nay.
Về nguyên tắc, Tòa án là một trong ba nhánh của của chế độ “Tam quyền phân


lập” theo tư tưởng của Roussel. Đây chính là một trong những thành tựu lớn
nhất của Phương Tây mà Việt Nam đã học hỏi được trong quá trình xây dựng và
đi lên. Tương ứng với ba nhánh quyền được phân lập theo học học thuyết, Tòa
án đảm nhiệm nhánh quyền lực tư pháp. Có nghĩ là nơi hiện thực hóa Pháp luật
của giai cấp thống trị và giữ cho mọi thứ nằm dưới luật pháp.
Một vấn đề được đặt ra là liệu rằng có trường hợp người canh giữ Luật
pháp có thể bằng cách nào đó lạm dụng nó chăng? Dùng nó vào mục đích sai
trái, hay đạp lên những nguyên tắc mà nó bảo vệ? Câu trả lời là có thể có. Vì
những quyền hạn mà Tòa án nắm giữ cho phép nó chi phối được cán cân công
lý, đổi trắng thay đen. Cho nên, cần phải có một cơ quan khác ra đời, tồn tại
song song với nó để kiểm tra và giám sát hoạt động của nó, nhằm đảm bảo rằng
Tòa án luôn thực thi đúng chức năng của mình.
Đó chính là nguyên nhân mà Viện Kiểm Sát ra đời. Ở các nước phương
Tây, cũng có một cơ quan đóng vai trò là quyền công tố của nhà nước, được gọi
là viện Công tố. Hai tên gọi khác nhau nhưng gần như thực hiện cùng một chức
năng, đó là thay mặt nhà nước thực hiện quyền công tố. Trong bộ máy của các
nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, Viện kiểm sát được xây dựng bắt nguồn từ
nguyên tắc “quyền lực thuộc về nhân dân”. Khi đó, Viện Kiểm sát được giao
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung (Hiến pháp 1960,1980).
Sau khi đất nước thực hiện cải cách thắng lợi và đạt được nhiều thành tựu về
mọi mặt, năm 1992 hiến pháp mới được ban hành, trong đó quy định rõ hơn
quyền hạn và chức năng của Viện kiểm sát là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
và thực hiện quyền công tố.
Và từ đó thẩm quyền, nhiệm vụ của Viện kiểm sát và tòa án cũng thay
đổi cho phù hợp với chức năng của mình trong từng giai đoạn giải quyết vụ án
hình sự khác nhau. Trong phần trình bày dưới đây, nhóm chúng em xin giới
thiệu và phân biệt thẩm quyền của hai cơ quan trên trong giai đoạn tiền xét xử
và trong các cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
3
A. Giai đoạn khởi tố vụ án

 Định nghĩa: khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, trong
đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để quyết định
khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ việc tiếp
nhận thông tin về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
 Trình tự khởi tố vụ án hình sự có thể chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn đầu, là giai đoạn tiếp nhận tố giác hoặc tin báo về tội phạm. Tất cả
các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội đều phải có trách nhiệm tiếp nhận sự tố giác
hoặc tin báo về tội phạm và có những việc biện pháp cần thiết để ngăn chặn hành vi
phạm tội và dấu vết của tội phạm.
Sau khi nhận được tố giác hoặc tin báo về tội phạm, cơ quan nhà nước không
có thẩm quyền khởi tố và các tổ chức xã hội phải báo ngay cho Cơ quan điều tra.
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn kiểm tra xác minh các tin tức về tội phạm được
quy định trong điều 103 BLTTHS.
Giai đoạn cuối cùng là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố khi có đủ
căn cứ để khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ không
được khởi tố vụ án hình sự
 Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Căn cứ vào Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, thì
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu
hiệu của tội phạm và quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự bao gồm
những cơ quan sau đây:
- Cơ quan điều tra
- Viện kiểm sát
- Tòa án
- Bộ đội biên phòng
- Hải quan
- Kiểm lâm
- Lực lượng cảnh sát biển
4

- Các cơ quan Công an nhân nhân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm.
Vì đề tài của nhóm em giới hạn trong thẩm quyền của Tòa án và Viện kiểm sát,
cho nên em xin trình bày chi tiết hơn về thẩm quyền của Tòa án và Viện kiểm sát
trong giai đoạn khởi tố.
1. Về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Căn cứ theo điều 109 thì trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát
có quyền hạn và trách nhiêm như sau:
Trong mọi hoạt động tố tụng hình sự, Viện kiểm sát đều giữ vai trò rất quan
trọng trong việc đảm bảo việc thực hiện đúng đắn trình tự, thủ tục, các quy định của
BLTTHS của các cơ quan tiến hành tố tụng. Ở giai đoạn khởi tố cũng vậy, Viện kiểm
sát có trách nhiệm cũng là quyền hạn phải thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự để lọt tội phạm cũng như làm oan
người vô tội. Căn cứ vào đó, Việc kiểm sát có quyền và trách nhiệm kiểm sát việc
đăng ký và giải quyết các tố giác và tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra. Việc
kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra thông báo về tình hình tội phạm, kiểm tra,
đối chiếu sổ sách với Cơ quan điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra giải quyết các tố
giác và tin báo đúng thời hạn luật định.
Khi Viện kiểm sát tiến hành hủy bỏ quyết định không khởi tố của Cơ quan điều
tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan và Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
hoạt động điều tra và ra quyết định khởi tố vụ án; vì Viện kiểm sát có lý do cho rằng
quyết định trên là không có căn cứ.
Khi Hội đồng xét xử yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án vì qua việc xét xử tại
phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
2. Về thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn khởi tố:
5
Căn cứ theo khoản 1 điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Tòa án có thẩm
quyền khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố nếu qua việc xét xử tại phiên
tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra. Thẩm

quyền ra quyết định khởi tố vụ án qua việc xét xử tại phiên tòa thuộc về Hội đồng xét
xử.
Trước khi tiến hành xét xử nếu Tòa án phát hiện tội phạm mới hoặc người
phạm tội mới thì Tòa án sẽ trả hồ sơ để điều tra bổ sung, căn cứ theo khoản 1 điều 179
Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Phân biệt thẩm quyền của Tòa án và Viện kiểm sát
- Theo điều 136 hiến pháp 1992 quy định: “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân
dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tộn trọng; những người
và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất
ở nước ta và các bản án và quyết định khi xét xử vụ án có hiệu lực của Tòa án phải
được thi hành. Vì vậy, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không được khởi tố lại vụ án
đó nữa. Trong trường hợp có cơ sở xác định bản án và quyết định có hiệu lực của Tòa
án không đúng thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo trình tự, thủ tục pháp luật
quy định.
- Về mặt pháp lý, pháp luật quy định Viện kiểm sát có quyền công tố và kiểm sát hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền khác trong giai đoạn khởi tố. Do đó, Tòa án cũng chịu sự kiểm sát của
Viện kiểm sát. Tuy nhiên, trong khoản 1 điều 104 BLTTHS quy định cho Tòa án có
thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình
sự nếu qua việc xét xử tại tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới
cần phải điều tra. Nếu việc yêu cầu của Tòa án là có căn cứ pháp luật, thì Viện kiểm
sát phải khởi tố vụ án hình sự, nếu việc yêu cầu là không có căn cứ thì Viện kiểm sát
có thể kháng nghị lên Tòa án cấp trên (theo khoản 3 điều 109 BLTTHS).
Tuy nhiên, trên thực tế quy định này còn rất nhiều bất cập về thẩm quyền của
Tòa án và Viện kiểm sát.
6
 Đối với thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn khởi tố, nhiều quan điểm cho rằng luật
quy định thẩm quyền khởi tố là trái với chức năng và nhiệm vụ của Tòa án. Và quy
định này trên cũng không thể thực hiện được trên thực tế.

“Theo LS Đỗ Ngọc Quang, Đoàn Luật sư Hà Nội cho rằng, việc luật trao cho
Tòa án có quyền khởi tố vụ án là hết sức vô lý vì Tòa án là cơ quan xét xử. Tòa xét xử
trên cơ sở quyết định truy tố của VKS. Do đó nếu Tòa khởi tố, rồi sau đó lại xét xử
chính quyết định khởi tố của mình thì "nghe chừng" khó khách quan và "lấn sân"
phần việc của CQĐT. Qui định này cũng cho thấy đang có sự thiếu rõ ràng, "nhập
nhằng" giữa chức năng điều tra, truy tố và xét xử vì chức năng của Tòa án chỉ là xét
xử, là trọng tài để đưa ra phán quyết dựa trên hồ sơ vụ án và sau khi nghe các bên
buộc tội, gỡ tội trình bày quan điểm, chứng cứ.
Một thẩm phán TAND TC đã có thâm niên 30 năm trong nghề cho biết, tuy
chưa có thống kê trong toàn ngành Tòa án, nhưng quyền khởi tố của Tòa án dường
như chưa hề được áp dụng kể từ ngày Bộ luật TTHS có hiệu lực thi hành, còn bản
thân ông qua xét xử, nếu thấy có dấu hiệu tội phạm, hoặc người phạm tội mới thì
thường ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để yêu cầu điều tra bổ sung, làm rõ các dấu
hiệu, hành vi phạm tội.
Hơn nữa, qua xét hỏi tại Tòa, việc xác định các hành vi có dấu hiệu tội phạm
"phát sinh", hoặc phát hiện ra người phạm tội mới và khẳng định đủ cơ sở để khởi tố
vụ án không hề đơn giản, bởi để ra quyết định khởi tố vụ án, các điều tra viên phải
mất một thời gian nhất định để tìm hiểu về vụ việc mới có thể quyết định khởi tố vụ
án. Bởi vậy, không ít vụ việc HĐXX thấy có dấu hiệu tội phạm, nhưng để "an toàn" thì
không sử dụng quyền khởi tố mà trả hồ sơ và yêu cầu khởi tố.”
1
 Đối với thẩm quyền của Viện kiểm sát
Về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, hiện nay cũng có vài
quan điểm của những người làm công tác nghiên cứu hay những người làm công việc
thực tế đưa ra cần xem xét như sau:
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định khởi tố vụ án.
Sau đó, quyết định khởi tố vụ án sẽ được chuyển qua để Viện kiểm sát kiểm tra, giám
1 Trích từ />7
sát. Quy định này được nêu ra nhằm thực hiện chức năng kiểm sát trong quá trình tố
tụng của Viện kiểm sát. Về phần khởi tố bị can, thì quyết định khởi tố phải do Viện

kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Về mặt lý luận, quy định này dường như rất chặt chẽ vì
quá trình khởi tố được tiến hành và giám sát cẩn thận bởi hai cơ quan riêng biệt.
Nhưng trên thực tế, quy định này lại khó thực hiện vì Viện kiểm sát không thể nắm
được thực chất việc khởi tố được thực hiện bởi cơ quan điều tra, bởi vì còn tồn tại
nhiều bất cập trong quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin.
Còn về thẩm quyền ra quyết định thay đổi hay bổ sung quyết định khởi tố bị
can của Viện kiểm sát cũng có khá nhiều điều đáng suy nghĩ. Tại khoản 1 điều 127 Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định “khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi
phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác
thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can”. Về điều luật này, tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang trong bài viết “Hoàn thiện
thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp” đã đưa ra nhận định sau: “Việc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đã
dẫn đến sự tùy tiện của Cơ quan điều tra trong việc truy đến cùng, người có quyết
định khởi tố bị can phải phạm vào một tội nào đó (bằng việc chuyển hết tội danh này
sang tội danh khác)”. Âu cũng là một điều đáng suy ngẫm !
B. Giai đoạn điều tra vụ án
I. Quyền Công Tố:
Khái niệm “quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận chính thức là
trong các văn bản luật pháp là trong hiến pháp 1980 (điều 138) và trong hiến
pháp năm 1992 (điều 137). Đây là một trong những căn cứ để xác lập vai trò của
Viện kiểm sát trong hệ thống pháp lý của Việt Nam. Theo định nghĩa của từ điển
tiếng Việt thì “công tố” có nghĩa là các hoạt động điều tra, truy tố và buộc tội kẻ
phạm tội trước tòa. Như vậy, về mặt ngữ nghĩa, ta có thể hiểu rằng quyền công
tố chính là quyền tạo nên đặc trưng của Viện kiểm sát. Không có quyền công tố,
Viện kiểm sát chỉ đóng vai trò như một cơ quan giám sát bình thường.
Đây chính là điểm làm nên sự khác biệt giữa Viện kiểm sát và Tòa án
trong quá trình điều tra vụ án. Lật lại toàn bộ các văn bản luật, ta không hề thấy
8
hoặc khó có thể thấy được vai trò rõ rệt của Tòa án trong giai đoạn này. Hãy

nhìn nhận lại vai trò của hai cơ quan này và đối chiếu với chức năng được quy
định trong luật, ta sẽ thấy được điều cần làm rõ.
Điều tra, như đã nói là một hoạt động cần thiết trong xét xử ở Tòa án. Bất
cứ một vụ án hình sự nào xảy ra, yếu tố được quan tâm nhất chính là bằng
chứng, chứng cứ. Bởi sau khi thực hiện tội phạm, kẻ phạm tội thường có xu
hướng che giấu nó, hoặc biến đổi hình thái pham tội nhằm mục đích thoát tội
hoặc làm nhẹ tội danh đã phạm phải… Lúc này đây, chứng cứ trở thành thứ duy
nhất mà cơ quan chức năng còn có thể sử dụng để tìm ra sự thật. Hoạt động thu
thập chứng cứ được thực hiện suốt trong quá trình điều tra vụ việc bởi những cơ
quan điều tra khác nhau tùy vào tính chất của vụ việc đang diễn ra.
Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát tính hợp pháp của công tác giải
quyết vụ án nên nó có quyền giám sát các cơ quan điều tra trong quá trình làm
việc. Chính điều này giúp loại trừ những hành vi phạm pháp trong quá trình tiến
hành tố tụng. Về cơ bản, việc thực hiện quyền công tố nhằm đạt được mục đích
bảo vệ các nguyên tắc luật định, tránh phạm sai lầm do các yếu tố chủ quan, duy
ý chí từ phía cơ quan Tòa án. Do tòa án là một cơ quan đặc thù chuyên về xét
xử, nên mọi thứ được sử dụng làm công cụ phá án đối với tòa án mà nói, phải
mang tính khách quan. Nói cách khác, trong xét xử, Tòa án chỉ được sử dụng
những gì được xem là độc lập, là xuất phát từ khách quan đã qua kiểm chứng
mà không được tùy tiên đưa ra bất kì một nội dung nào khác ngoài những nội
dung đã quy định, nghĩa là tránh việc xảy ra trường hợp “vừa đá bong, vừa thổi
còi”. Nếu trong một vụ án được xét xử, Tòa án vừa xét xử, vừa kiêm luôn việc
điều tra thì rất khó tránh khỏi việc kết quả của vụ án bị bẻ cong theo quan điểm
của HĐXX. Cho dù hiện nay, về thực tế, công tác điều tra là thuộc về các cô
quan điều tra do Luật TTHS quy định nhưng cũng không có một cơ sở nào lấy
làm chắc chắn rằng kết quả đó là khách quan.
II. Vai trò kiểm sát:
9
Đây chính là câu trả lời cho vấn đề được đặt ra ở trên. Để đảm bảo tính
khách quan trong quá trình điều tra vụ việc, ta cần “kiểm tra” và “giám sát” quá

trình đó. Nội tại chức năng “kiểm sát” của Viện kiểm sát đã bao hàm hai hoạt
động đó.
Để công bằng trong xét xử, đòi hỏi những người có trách nhiệm trong quá
trình xét xử phải tuyệt đối chí công vô tư, quang minh chính trực, gạt bỏ mọi
yếu tố làm ảnh hưởng có thể khiến tư duy không còn được khách quan, gây nên
thiên lệch trong quá trình xét xử. Tuy nhiên, đã là con người thì không phải ai
cũng có thể tránh được sai lầm, cám dỗ khi đang làm việc. Vậy nên, vấn đề
kiểm tra và giám sát các hoạt động tố tụng đã hình thành từ rất sớm trong quá
trình hình thành và phát triển của loài người. Trong thần thoại Hi Lạp cũng có
để cập đến một phiên tòa mà chính các vị thần lần lượt đóng các vai trò như
“người tố cáo”, “người bênh vực”, và “người phán xét”… Dù chỉ là một câu
truyện thần thoại, nhưng nó đã phản ánh rõ nhận thức của người xưa về một cơ
chế hoạt động hiệu quả cho Tòa án, và ngày nay, trong ngành tư pháp hiện đại,
những điều đó đã trở thành cơ chế và nguyên tắc hoạt động.
Nguyên tắc đó chính là có một cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ
công tố và kiểm sát mọi hoạt động xét xử của Tòa án.Với quyền công tố, ta đã
nêu ở trên nên không cần phải nhắc lại. Đối với vai trò kiểm sát, Viện kiểm sát
luôn là bên chủ động thực hiện nhằm bảo đảm rằng các quy định của pháp luật
được tuân thủ một cách nghiêm túc bởi các cơ quan thi hành.
Trong hệ thống tư pháp các nước tiến bộ trên thế giới, cơ quan tiến hành
thực thi quyền công tố và kiểm sát chính là viện công tố (VCT). VCT đầu tiên
xuất hiện ở Pháp vào năm 1302 duới triều vua Philippe IV như là cơ quan đại
diện cho lợi ích của nhà vua trong cuộc đấu tranh chống lại sự lạm quyền của
các lãnh chúa phong kiến để củng cố quyền lực của mình. Thuật ngữ “công tố
viên” chỉ được sử dụng vào đầu thế kỷ XVIII. Lúc đầu chức năng của VCT
10
không hoàn toàn là chức năng pháp lý. Theo nhà sử học người Nga V.I.
Veritenhicốp thì VCT được xem như là “đôi mắt của nhà vua để thông qua đó
có thể theo dõi sự vận hành của toàn bộ bộ máy nhà nước có đúng hay không”.
Các công tố viên thực hiện nghĩa vụ của mình mọi lúc mọi nơi để bảo vệ lợi ích

của nhà vua, theo dõi hoạt động của các quan chức có đáp ứng yêu cầu của nhà
vua hay không? Trọng tâm trong hoạt động của VCT Pháp là bảo vệ ngân quỹ
nhà nước. Lúc đó hoạt động xét xử của tòa án là một trong những nguồn thu
chính của ngân quỹ nhà nước do vậy công tố viên có nhiệm vụ phát hiện và đưa
các vụ việc vi phạm pháp luật của nhà vua đến tòa án để xử lý và tác động sao
cho quyết định của tòa án có lợi cho nhà nước. VCT của Pháp là mẫu hình tiêu
biểu của VCT nhiều nước ở phương Tây. Sau này, trong quá trình phát triển,
VCT dần dần được hoàn thiện them những chức năng của nó và đạt được sự
hoàn thiện như ngày hôm nay, và tùy theo điều kiện đặc thù của mỗi vùng quốc
gia hay lãnh thổ mà quyền hạn của VCT có sự khác biệt. Tuy nhiên, dù có khác
biệt thế nào đi chăng nữa thì chức năng kiểm sát sự tuân thủ pháp luật của các
cơ quan tư pháp là yếu tố không thể tách rời được.
C. Giai đoạn truy tố
Truy tố là giai đoạn của tố tụng hình sự do Viện kiểm sát (VKS) có thẩm
quyền tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết nhằm buộc tội bị can trước Tòa
án (TA) có thẩm quyền thể hiện qua bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố.
Có thể thấy, thông qua định nghĩa thì giai đoạn truy tố chỉ do một chủ thế
duy nhất là VKS thực hiện. Do vậy, nhiệm vụ của giai đoạn này cũng là nhiệm
vụ của VKS. Nhiệm vụ của VKS có hai nội dung cơ bản là thực hảnh quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Riêng trong giai đoạn truy tố,
nhiệm vụ của VKS có những nét đặc thù cụ thể như sau:
- Đối với nhiệm vụ thực hành quyền công tố, VKS có quyền khởi tố vụ án,
khởi tố bị can; trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; khi cần thiết có thể trực tiếp
11
điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định
đình chĩ, tạm đình chỉ vụ án…
- Đối với nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKS có quyền kiểm
sát các hoạt động điều tra thông qua kết quả điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án;
kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp xử lý hành vi vi
phạm pháp luật…

 Hoạt động của VKS trong giai đoạn truy tố:
Trong giai đoạn truy tố, VKS thực hiện các hoạt động bắt đầu từ việc tiếp
nhận hồ sơ vụ án từ cơ quan có thẩm quyền về điều tra. Sau đó người có thẩm
quyền của VKS phân công Kiểm sát viên tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án và
tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu thấy cần thiết thì VKS sẽ tiến hành trao đổi với Tòa án. Các
trường hợp trao đổi trong Thông tư liên tịch số 01 ngày 8/12/1988 của Tòa án
nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định tại phần II nói về
vấn đề họp trù bị như sau:
- Khi Tòa án thấy cần trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung, đổi tội
danh nặng hơn hoặc áp dụng khung hình phạt nặng hơn;
- Khi Tòa án thấy cần đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
- Khi cần nhập hoặc tách vụ án;
- Khi cần chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết (kể cả chuyển lên,
chuyển xuống) hoặc chuyển cho Tòa án cùng cấp);
- Khi chuẩn bị xét xử vụ án điểm hoặc vụ án phức tạp;
- Các trường hợp cần thiết khác.
Nếu vấn đề cần trao đổi không quá phức tạp thì kiểm sát viên được phân
công thụ lý vụ án sẽ trực tiếp trao đổi với Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa. Nếu vấn đề phức tạp thì có thể mời lãnh đạo của Tòa án và Viện kiểm
sát tham dự trao đổi hay có thể có sự có mặt của đại diện cơ quan điều tra, cơ
quan giám định cùng tham gia trao đổi nhằm đưa ra những kết luận quyết định
của việc giải quyết vụ án trong khuôn khổ của pháp luật. Những quyết định của
các bên có thống nhất hay không thì cũng không ảnh hưởng đến sự quyết định
nội dung của việc truy tố của VKS.
12
Trong trường hợp bị can bỏ trốn ảnh hưởng đến việc truy tố và buộc tội
bị can của VKS, VKS sẽ làm văn bản yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định
truy nã bị can.
 Trong giai đoạn truy tố, VKS có quyền ban hành những quyết định

sau:
1. Quyết định chuyển vụ án
Về thẩm quyền truy tố, thẩm quyền chuyển,thủ tục chuyển, thời điểm
chuyển vụ án…, Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) không có quy định cụ thể.
Theo nguyên tắc, trong quá trình tố tụng thì thẩm quyền của truy tố sẽ căn cứ
vào thẩm quyền điều tra. Có nghĩa là cơ quan điều tra nào, cấp nào có thẩm
quyền điều tra, đề nghị truy tố thì VKS nơi đó, cấp đó sẽ có thẩm quyền truy tố.
Và trong thực tiễn, VKS thường căn cứ vào trình tự, thủ tục chuyển vụ án trong
giai đoạn điều tra được quy định tại điều 116 BLTTHS.
Do đó có thể thấy, VKS chỉ có quyền truy tố những bị can trong vụ án
thuộc thẩm quyền của mình.
2. Quyết định áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: cơ sở
pháp lý được quy định tại khoản 2 Điều 166 BLTTHS
3. Quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung
VKS ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung
trong 3 trường hợp sau:
- VKS thấy hồ sơ vụ án còn thiếu những chứng cứ quan trọng mà VKS
không thể tự mình bổ sung được
- Khi VKS có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc phát
hiện có người đồng phạm khác.
- VKS phát hiện có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. Tuy nhiên,
BLTTHS chưa có quy định cụ thể rõ ràng vi phạm như thế nào mới được xem là
nghiêm trọng mà VKS có những căn cứ nhất định trong thực tiễn để xem xét
việc trả hồ sơ yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung.
4. Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án cơ sở pháp lý căn cứ vào
BLTTHS quy định tại khoản 2 điều 164 BLTTHS
5. Quyết định truy tố bị can thông qua bản cáo trạng
Bản cáo trạng là văn bản tố tụng hình sự do VKS đưa ra trên cơ sở nghiên
cứu hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra Cơ quan điều tra khi có đầy đủ chứng
13

cứ để xác định tội phạm và bị can. Đây là cơ sở để xác định phạm vi xét xử của
Tòa án, là cơ sở để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
VKS phải chuyển giao bản cáo trạng và toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án
có thẩm quyền, đồng thời VKS phải giao bản sao bản cáo trạng cho bị can. Tòa
án có quyền từ chối nhận hồ sơ vụ án nếu VKS chưa giao bản cáo trạng cho bị
can. Vì căn cứ theo Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP, phần I, mục 1.1 quy định
về việc nhận hồ sơ vụ án và thụ lý hồ sơ vụ án có nêu rõ nếu các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án chưa đầy đủ so với bản kê tài liệu hoặc bản cáo trạng chưa
được giao cho bị can, Tòa án có quyền không nhận hồ sơ vụ án vì chưa đúng
quy định của BLTTHS.
 Phân biệt thẩm quyền của Tòa án và Viện kiểm sát trong giai đoạn truy
tố:
- Đầu tiên, như đã được định nghĩa ở phần trên, chỉ có VKS mới có quyền
truy tố. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố
của cơ quan có thẩm quyền, VKS xét thấy có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm
hình sự của bị can ra trước tòa án thì VKS ra quyết định truy tố bằng một bản
cáo trạng. Đối với Tòa án thì không có thẩm quyền quyết định việc truy tố vụ án
mà thẩm quyền của Tòa án để giải quyết vụ án chỉ có thể phát sinh qua bản cáo
trạng của VKS.
- Trong giai đoạn này, VKS có quyền định tội danh cho người phạm tội
được nêu trong bản cáo trạng, và đó sẽ là cơ sở xác định phạm vi xét xử của Tòa
án. Theo Điều 196 BLTTHS quy định “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và
những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết
định đưa ra xét xử”. Do đó, chính trong bản cáo trạng của VKS đã quy định
phần thẩm quyền của Tòa án sẽ xét xử vụ án.
- Tòa án mặc dù thụ động trong việc nhận bản cáo trạng cùng toàn bộ hồ sơ
vụ án nhưng cũng có quyền từ chối nhận khi thấy VKS không hoàn thành nhiệm
vụ giao bản sao bản cáo trạng cho bị can.
D. Giai đoạn xét xử vụ án
14

Tố tụng hình sự là một hệ thống các hành vi tố tụng và quan hệ tố tụng
nảy sinh, thay đổi và phát triển cùng với tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Các
hành vi tố tụng này được thực hiện theo một trình tự nhất định về thời gian và
nhiệm vụ cụ thể để tiến đến nhiệm vụ chung của TTHS là làm sáng tỏ chân lý
vụ án. Điều 126 Hiến pháp 1992 ghi rõ: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của
mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
I.
Viện kiểm sát và Tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1. Khái niệm và ý nghĩa của phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động Nhà nước do Tòa án thực
hiện nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình
sự trên cơ sở đó ra bản án và quyết định. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử
vụ án ở cấp đầu tiên, bản án và quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp
luật ngay. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng
nghị trong thời hạn luật định.
Việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không những góp phần bảo vệ chế độ,
bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản nhà nước, tập thể, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân và góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm mà
thông qua việc xét xử công khai của phiên tòa xét xử sơ thẩm còn góp phần giáo
dục ý thức tuân thủ pháp luật và ý thức phòng chống tội phạm. Đồng thời qua
phiên tòa nhân dân có thể giám sát các hoạt động của cơ quan Tòa án, Viện
kiểm sát và các cơ quan hữu quan.
2. Thẩm quyền và phạm vi quyết định của Viện kiểm sát
15
Theo quy định của pháp luật, trong các phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, Viện kiểm sát (VKS) thực hiện hai chức năng: thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự. Đây là một

quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ của VKS.
Trong hoạt động của mình, Kiểm Sát Viên (KSV) đại diện cho VKS phải
tuân theo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và Quy chế tạm thời
về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự do Viện kiểm
sát nhân dân Tối cao ban hành. Đồng thời KSV phải nhạy bén, linh hoạt, có khả
năng tư duy tổng hợp, khả năng lập luận cũng như tranh luận tốt với những
ngưòi tham gia phiên tòa. Chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố của
KSV phụ thuộc vào những yếu tố đó. Tuy nhiên vai trò của KSV không chỉ giới
hạn tại phiên toà, nghĩa là từ khi bắt đầu phiên toà đến khi tuyên án mà vai trò
của KSV tại các phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải được hiểu theo
nghĩa rộng, từ khi Toà án thụ lý vụ án đến khi bản án được tuyên và đã có hiệu
lực pháp luật. Bởi lẽ, tại các phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, KSV
không chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố mà còn thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Điều này đảm bảo quy trình hoạt động
liên tục và toàn diện của KSV trong việc thực hiện chức năng , nhiệm vụ của
Vịên kiểm sát theo luật định. Dưới góc độ tiếp cận này, chúng ta phân chia
thành ba giai đoạn hoạt động chủ yếu của KSV là: Giai đoạn chuẩn bị cho việc
xét xử, giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà, giai
đoạn kiểm sát việc kháng nghị sau khi kết thúc phiên toà sơ thẩm. Trong đó, vai
trò của KSV được thể hiện chủ yếu và tập trung nhất ở giai đoạn thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà.
a) Giai đoạn chuẩn bị cho việc xét xử
16
Đây là giai đoạn chuẩn bị hết sức quan trọng, chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn này.
Vì vậy, KSV phải nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ vụ án, đặc biệt là những tình tiết
quan trọng làm căn cứ để Viện kiểm sát truy tố.Trong vụ án có nhiều lời khai
khác nhau hoặc các lời khai có mâu thuẫn, cần phân tích đánh giá nguyên nhân,
độ tin cậy của từng lời khai, chuẩn bị phương án làm rõ những mâu thuẫn này

tại phiên toà.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, KSV phải dự thảo đề cương xét hỏi, luận tội
những vấn đề cần tranh luận tại phiên toà. Đối tượng của công tác chuẩn bị cho
việc xét hỏi và tranh luận không chỉ là những tình tiết vụ án và việc xét xử mà
có khi cả những vấn đề liên quan khác, nhất là đối với những vụ án kinh tế tham
nhũng lớn… KSV vừa phải bám sát đường lối chỉ đạo xử lý của ngành đối với
từng loại tội cụ thể, thậm chí của từng vụ án cụ thể để có quan điểm xử lý đúng
đắn, ngoài ra cần chuẩn bị tâm lý tốt cho hoạt động thực hành quyền công tố tại
phiên toà.
Trong giai đoan chuẩn bị xét xử, KSV còn phải kiểm sát chặt chẽ việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn, thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định đưa vụ án
ra xét xử, việc triệu tập những người liên quan đến phiên tòa của Toà án nhằm
góp phần đảm bảo cho hoạt động xét xử đúng pháp luật.
b) Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà
Trong TTHS VKS có chức năng quan trọng là thực hành quyền công tố.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Điều 17
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định Viện kiểm sát nhân
dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
• Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc
giải quyết vụ án tại phiên toà;
• Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm
17
Tòa án xét xử trên cơ sở bản cáo trạng mà VKS truy tố bị can ra trước tòa
án. Vì vậy, trước khi tiến hành việc xét hỏi, KSV đọc bản cáo trạng và trình bày
những ý kiến bổ sung nếu có. Những ý kiến bổ sung này làm sáng tỏ hơn nội
dung bản cáo trạng.
Tranh luận là một thủ tục rất quan trọng đòi hỏi KSV phải nắm được toàn
bộ nội dung vụ án, những tình tiết có liên quan. Đồng thời, KSV phải có khả
năng lập luận, diễn đạt tốt, có sự nhạy bén, linh hoạt trong việc xử lý tình huống
phát sinh. Trong lời luận tội của mình KSV đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ

hay một phần cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn; nếu thấy không có
căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử
tuyên bố bị cáo không có tội.
Trong giai đoạn này, KSVcũng phải đảm bảo kiểm sát chặt chẽ hoạt động
xét xử, đảm bảo xét xử công khai, khách quan, liên tục, đảm bảo việc truy tố
của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đồng thời
phải đảm bảo tính uy nghiêm của hoạt động xét xử nói chung.
c) Giai đoạn sau khi kết thúc phiên toà sơ thẩm và xem xét kháng nghị phúc
thẩm.
Trong giai đoạn này, KSV phải kiểm sát chặt chẽ bản án, đảm bảo bản án
thể hiện đầy đủ các diễn biến của quá trình xét xử vụ án, quyết định của Toà án
là có căn cứ, đúng pháp luật đồng thời kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ vụ án xem có
gì vi phạm không, nhất là về trình tự thủ tục tố tụng. Nếu có vi phạm thì báo cáo
đề nghị Lãnh đạo Viện kiểm sát xem xét kháng nghị theo trình tự phúc thẩm
hoặc đề xuất biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.
Thực tế cho thấy nếu phát huy tốt vai trò của KSV trong giai đoạn này sẽ
nâng cao được chất lượng kháng nghị của KSV, hạn chế tình trạng cấp trên rút
kháng nghị hoặc kháng nghị không được chấp nhận.
18
3. Thẩm quyền và phạm vi quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có các đặc điểm cơ bản được hình
thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng; bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh là mình vô tội. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ
quan tiến hành tố tụng mà tiêu biểu nhất là cơ quan Toà án dựa trên kết quả xét
xử công khai, dân chủ tại phiên toà. Toà án thực hiện chức năng xét xử, là giai
đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng hình sự ; ở giai đoạn này, Toà án với tư
cách là một cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng xét xử vụ án, làm rõ
bị cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì tội gì, các tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân người phạm tội và các tình

tiết khác liên quan đến vụ án, làm rõ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội cũng như người phạm tội để từ đó có đủ cơ sở áp dụng trách nhiệm
hình sự và hình phạt đối với bị cáo một cách công minh, có căn cứ và đúng
pháp luật. Chức năng ấy được thể hiện đầy đủ trong xét xử sơ thẩm.
Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng nhưng lại
không hề tách rời các giai đoạn trước và sau nó. Trong tố tụng hình sự, giai
đoạn xét xử sơ thẩm gồm phần chuẩn bị xét xử và phiên tòa sơ thẩm; trong đó
phiên tòa sơ thẩm thể hiện rõ nét nhất đặc trưng của giai đoạn này.
a) Giai đoạn chuẩn bị xét xử
Chuẩn bị xét xử là một phần của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
bao gồm các hoạt động tố tụng khác nhau, có mối liên hệ và cùng hướng tới
việc làm tiền đề cho hoạt động xét xử sơ thẩm đảm bảo xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết
19
định như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung hay quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
• Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Điều 179 BLTTHS năm 2003 quy định Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong những trường hợp sau:
+ Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trong đối với vụ án mà không thể
bổ sung tại phiên tòa được.
+ Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác
+ Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Trong trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề Tòa án yêu
cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét
xử vụ án.
• Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
- Tạm đình chỉ vụ án.
Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà tạm thời chưa quyết định

đưa vụ án ra xét xử hoặc đã quyết định đưa vụ án ra xét xử thì tạm dừng việc
mở phiên toà. Theo quy định của Điều 180 BLTTHS Thẩm phán ra quyết định
tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 160 BLTTHS. Điều 160 là
quy định về tạm đình chỉ điều tra nên khi áp dụng Điều 160 BLTTHS để tạm
đình chỉ vụ án, không những thẩm phán phải căn cứ vào quy định của Điều 160
Bộ luật tố tụng hình sự, mà còn phải căn cứ vào thực tế vụ án đang ở giai đoạn
chuẩn bị xét xử để áp dụng cho phù hợp.
Ví dụ: Điều 160 quy định trong trường hợp chưa xác định được bị can thì
tạm đình chỉ điều tra, nhưng không thể có trường hợp chưa xác định được bị
cáo để tạm đình chỉ vụ án được, vì khi Viện kiểm sát đã truy tố ra Toà án bằng
20
một bản cáo trạng là đã xác định người phạm tội là ai rồi; nếu Thẩm phán được
phân công chủ toạ phiên toà lại chưa biết người bị truy tố có phải là người phạm
tội hay không thì không được tạm đình chỉ vụ án mà tuỳ trường hợp Thẩm phán
được phân công chủ toạ phiên toà phải ra quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra
bổ sung hoặc mở phiên toà xét xử; nếu kết quả xét xử tại phiên toà cũng không
đủ căn cứ xác định người bị truy tố là người phạm tội thì phải tuyên bố bị cáo
không phạm tội.
Vì vậy Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy
định tại Điều 160 BLTTHS trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, bị can bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác có
chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y. Trong trường hợp Toà án đã trưng
cầu giám định tâm thần hoặc giám định pháp y, nhưng chưa có kết quả giám
định mà hết thời hạn xét xử thì Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và
việc giám định vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả. Sau khi có
kết quả, tuỳ trường hợp mà Thẩm phán quyết định đưa vụ án ra xét xử hay
quyết định bắt buộc chữa bệnh.
Thứ hai, không biết rõ bị cáo đang ở đâu. Trường hợp không biết rõ bị
can ở đâu, nều chưa mở phiên tòa thì Toà án yêu cầu Cơ quan điều tra ra lệnh
truy nã, nếu truy nã không kết quả mà thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại

Điều 176 đã hết thì Toà án mới ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
- Đình chỉ vụ án.
Đình chỉ vụ án là một quyết định chấm dứt mọi hoạt động tố tụng đối với
vụ án. Vụ án đã có quyết định đình chỉ thì không được phục hồi điều tra, truy tố
hoặc xét xử. Trường hợp quyết định đình chỉ vụ án bị phát hiện là trái pháp luật
thì sẽ bị huỷ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
21
Theo quy định tại Điều 180 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà cũng có thẩm
quyền ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại
khoản 2 Điều 105 và các điểm 3, 4, 5, 6, 7 Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự
hoặc khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà.
Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo.
Như vậy, căn cứ để Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra
quyết định đình chỉ vụ án cũng là căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự và
trong trường hợp người yêu cầu khởi tố theo Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự
rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà sơ thẩm.
• Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Nếu thấy có đủ chứng cứ để đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
• Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, Tòa án phải quyết định áp dụng,
thay đổi hay hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo. Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định hoặc áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để đảm bảo. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam
do Chánh án hoặc Phó chánh án quyết định.
b) Tại phiên tòa sơ thẩm.

Giới hạn của việc xét xử quy định tại Điều 196 BLTTHS và hướng dẫn
tại mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP. Trong tố tụng hình sự Tòa
án thực hiện chức năng xét xử chứ không có chức năng buộc tội nên Tòa án chỉ
22
xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và
Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Cần chú ý là trong cáo trạng Viện kiểm sát
có thể mô tả, đưa ra nhiều hành vi phạm tội của bị can, nhưng cần chú ý là Viện
kiểm sát kết luận truy tố những hành vi nào, theo tội danh nào thì Tòa án chỉ xét
xử những hành vi đó, theo tội danh đó. Tòa án không được xét xử bị cáo theo
tội danh nặng hơn mà VKS đã truy tố. Tuy nhiên tòa án có thể xét xử:
+ Theo khoản nặng hơn hoặc khoản nhẹ hơn so với khoản mà Viện kiểm
sát đã truy tố trong cùng một điều luật (tiểu mục 2.1 mục 2 Phần II Nghị quyết
số 04/2004/NQ-HĐTP);
+ Về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố:
Cần nghiên cứu kỹ hướng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2 Phần II Nghị quyết số
04/2004/NQ-HĐTPđể xác định tội nào Toà án sẽ xử bằng hoặc nhẹ hơn tội mà
Viện kiểm sát đã truy tố hay không. Nếu không thuộc một trong các trường hợp
được hướng dẫn tại tiểu mục này thì Toà án không được xét xử bị cáo về tội
khác nặng hơn so với tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, cho dù có đủ căn cứ;
+ Về tội nhẹ nhất trong các tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc về tội nhẹ
hơn tất cả các tội mà Viện kiểm sát truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội,
trong trường hợp Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều tội đối với nhiều hành vi
phạm tội (tiểu mục 2.3 mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP).
Theo quy định tại Điều 224 BLTTHS, thì Hội đồng xét xử sơ thẩm ra bản
án nhân danh nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với việc ra bản
án, Tòa án ra kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần
thiết để khắc phục những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các
cơ quan, tổ chức đó.
II. Giai đoạn phúc thẩm
Cũng tương tự như sơ thẩm, việc xét xử phúc thẩm cũng tuân theo những

quy định chung của pháp luật để chuẩn bị cho một phiên tòa xét xử. Tuy nhiên
23
xuất phát từ tính chất phúc thẩm là xét xử lại bản án, quyết định sơ thẩm kháng
cáo, kháng nghị nên giái đoạn xét xử phúc thẩm cũng có những điểm khác biệt
so với xét xử sơ thẩm.
1. Thẩm quyền và phạm vi quyết định của VKS
Điều 232 BLTTHS quy định VKS cùng cấp và VKS cấp trên có quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Phạm vi kháng nghị của VKS không bị giới hạn. VKS cùng cấp và VKS
cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị một phần hoặc toàn bộ bản án hoặc
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. VKS có quyền yêu cầu Tòa án cáp phúc
thẩm giải quyết vụ án theo hướng có lợi hoặc bất lợi đối với bị cáo hoặc những
người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
VKS cũng thực hiện chức năng kiểm sát của mình như ở phiên tòa sơ
thẩm.
2. Thẩm quyền và phạm vi quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc
xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Về nguyên tắc chung Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo,
kháng nghị. Tuy nhiên qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy cần thiết thì
Toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác của bản án không bị kháng
cáo, kháng nghị. Trong trường hợp này cần triệu tập những người tham gia tố
tụng có liên quan đến phần không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án, nhưng
Toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét (Điều 241 BLTTHS).
Theo quy định tại Điều 248 BTTHS, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có
quyền quyết định:
- Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
- Sửa bản án sơ thẩm;
24

- Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
- Huỷ bán án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Trong các quyết định trên, có quyết định theo hướng có lợi cho bị cáo và
những người tham gia tố tụng nhưng cũng có quyết định theo hướng không có
lợi cho bị cáo và những người tham gia tố tụng.
Đối với các quyết định theo hướng có lợi cho bị cáo và những người
tham gia tố tụng dù có kháng nghị phúc thẩm theo hướng đó hay không thì Toà
án cấp phúc thẩm vẫn có thẩm quyền quyết định khi xét xử phúc thẩm, nếu như
quyết định đó không trái với pháp luật. Ví dụ: Theo khoản 2 Điều 249 BLTTHS
thì nếu có căn cứ, Tòa án có thể giảm hình phạt cho bị cáo, áp dụng điều khoản
BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ
nguyên hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo
hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
Tuy nhiên, đối với các quyết định theo hướng không có lợi cho bị cáo và
những người tham gia tố tụng thì Toà án cấp phúc thẩm chỉ có thẩm quyền
quyết định trong một số trường hợp mặc dù có kháng nghị theo hướng đó. Theo
quy định tại khoản 3 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự thì, trong trường hợp
Viện kiểm sát kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp
dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại.
Toà án cấp phúc thẩm không có quyền “biến không thành có”, tức là Toà
án cấp sơ thẩm chưa quyết định hình phạt đối với bị cáo thì dù có kháng nghị
của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại thì Toà án cấp phúc thẩm
cũng không được áp dụng hình phạt đối với bị cáo, vì như vậy không phải
là tăng hình phạt mà là quyết định hình phạt đối với bị cáo. Nếu kháng nghị của
Viện kiểm sát yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo thì
Toà án cấp phúc thẩm có thể tăng cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung mà
Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo bị kháng nghị, nhưng chỉ được
25

×