Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự 8đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.3 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
LỚP QUẢN TRỊ - LUẬT
Bộ môn: TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Giảng viên hướng dẫn: ABCXYZ
Danh sách nhóm:
MỤC LỤC
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
LỜI MỞ ĐẦU 2
KHÁI QUÁT VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 4
Vấn đề 1: NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TRANH
TỤNG 7
Vấn đề 2:NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TRANH TỤNG 15
Vấn đề 3:NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI VÀ BỊ CÁO TẠI PHIÊN
TÒA 21
Vấn đề 4:TÍNH TRUNG LẬP CỦA TÒA ÁN TRONG TRANH TỤNG 23
Vấn đề 5:VIỆC PHÁN QUYẾT CỦA TÒA ÁN CHỈ PHỤ THUỘC VÀO KẾT
QUẢ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA 28
ĐỂ XUẤT HƯỚNG GIẢI QUYẾT CHUNG 31
DANH MỤC TÀI LIỆU
Website tham khảo
Hoàng Yến, “Kiểm sát viên tranh luận: Vẫn còn “sạn””, 9
Http://liendoanluatsu.org.vn/index.php/en/legal-documents/sua-doi-bo-sung-bo-
luat-to-tung-hinh-su/796-bo-m-tranh-tng-ti-phien-toa-c-s-hinh-thanh-phan-quyt-
ca-toa-an.html 10
/>%C3%A0_%C4%91%E1%BB%93ng_ph%E1%BA%A1m 11
/>con-san.htm 13
/>d/483/dnnprintmode/true/Default.aspx?SkinSrc=%5BG%5DSkins%2F_default
%2FNo+Skin&ContainerSrc=%5BG%5DContainers%2F_default
%2FNo+Container 15
Bảo Thắng, “Luật sư chỉ định – Có cũng như không?”, 16,


18
Phan Thương - Tiến Hiểu, “Bảo đảm quyền bào chữa – Bài 2: Luật sư chỉ có mặt
“cho đủ tụ”?”, 19
[Type text] Trang 2
/>thoi-han.html 22
/>to/70007472/218/ 22
30
Nâng chất tranh tụng : “Sửa luật để có phiên tòa tranh tụng đúng nghĩa”
25
Nên hiểu đúng về án bỏ túi- Đinh Văn Quế.
29
Tạp chí, sách, báo tham khảo
Ts.Nguyễn Sơn, Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, cơ sở hình thành phán quyết của
Tòa án 5
PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Mô hình tố tụng hình sự tại VIệt Nam, những lý luận
và thực tiễn 6
Ts. Lê Hữu Thế; Ths. Nguyễn Thị Thủy, Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt
Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp 7
Báo An Ninh số 668 10
Hoàn thiện một số quy định của BL TTHS hiện hành nhằm nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa-Tạp chí luật học số 7/2008 12
Bản chất của tranh tụng-Tạp chí KHPL số 4/2004 14
Bộ Tư Pháp – Tài liệu hội nghị tổng kết thi hành Luật luật sư 2006 – Hà Nội ngày
6/2010 17
ThS Lê Tiến Châu - Giảng viên Khoa Luật Hình sự, trường ĐH Luật TP. HCM 23
Trích báo cáo số 251 ngày 29-10-2012 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam 20
Vai trò của Tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm 25
Luật
Chỉ thị số 10/2002/CT-TTgVề việc triển khai thực hiện Nghị quyết 08/NQ -TW
ngày 02 tháng 01 năm 2002của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công

tác tư pháp thời gian tới 3
[Type text] Trang 3
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi bộ luật TTHS lần đầu được qui định vào năm 1988, sau một thời gian
dài áp dụng đã phát hiện nhiều bất cập, khó khăn. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc
bộ luật ra đời trong thời kỳ đất nước còn non trẻ. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ luật
TTHS giai đoạn này là đấu tranh phòng chống tội phạm, chưa chú trọng đến mặt
dân chủ của nền tư pháp.
Trước tình hình đó vào ngày 2/1/2002 Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính
trị ra đời về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp. Đây là Nghị quyết quan
trọng, đề ra các chủ trương lớn, có tính đột phá nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong cải cách tư pháp; xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân trong tiến
trình pháp huy nội lực, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế
1
. Và đây cũng là cơ
sở ra đời của BLTTHS 2003.
Nhìn vào thực trạng hiện nay sau gần 10 năm áp dụng bộ luật TTHS 2003 đã
gặp không ít khó khăn, bất cập. Vấn đề là tại sao có những thực trạng nó và biện
pháp khắc phục ra sao? Theo nhóm thì nguyên nhân là do bộ luật TTHS chưa có
những quy định đáp ứng yêu cầu tranh tụng. Các nguyên nhân này và những đề
xuất ý kiến về việc khắc phục sẽ được trình bày kỹ hơn trong các phần sau của đề
tài.
Đến ngày 02 tháng 06 năm 2005, ban chấp hành trung ương đã ban hành nghị
quyết số 49 của bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Và cũng trong hai ngày 06, 07/12/2012 vừa qua, tại Hà Nội, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tổ chức Hội nghị toàn quốc “Tổng kết thực tiễn thi hành Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003”. Tại

Hội nghị, đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương và đồng
chí Uông Chu Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội có bài phát
biểu quan trọng chỉ đạo Hội nghị. Đến ngày 10-12, Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang, Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương đã chủ trì phiên họp lần
thứ 8 của Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương. Điều này cho thấy cải cách
tư pháp là một vấn đề mang tính thời sự và cấp thiết .
1 Chỉ thị số 10/2002/CT-TTgVề việc triển khai thực hiện Nghị quyết 08/NQ -TW ngày 02
tháng 01 năm 2002của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời
gian tới
[Type text] Trang 4
Nhóm đi sâu vào nghiên cứu, đánh giá các mặt của hoạt động tố tụng tại phiên
tòa- một hoạt động thể hiện rõ tinh thần của tố tụng hình sự, là cơ sở để có thể ra
được phán quyết chính xác , nhanh chóng, hợp pháp, khách quan của Tòa án. Đề
tài bao gồm các nội dung chính như sau:
1. Khái quát về tranh tụng trong tố tụng hình sự
2. Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong tranh tụng
3. Nâng cao vai trò của Luật sư trong tranh tụng
4. Nâng cao vai trò của người bị hại, bị cáo tại phiên tòa
5. Tính trung lập của Tòa án trong tranh tụng
6. Việc phán quyết của Tòa án chỉ phụ thuộc vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa.
[Type text] Trang 5
KHÁI QUÁT VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Khái quát về tranh tụng tại phiên tòa
Là một giai đoạn trong TTHS, tranh tụng tại phiên tòa được xem là giai đoạn
quan trọng vì ở đó là sự tranh luận giữa bên buộc tội và bên bào chữa với lập
trường tương phản nhau. Hoạt động tranh tụng có làm tốt thì mới làm tốt được mục
tiêu, nhiệm vụ đặt ra của TTHS nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan, chính
xác, nhanh chóng và đúng pháp luật.

Chúng ta có thể định nghĩa về tranh tụng trong TTHS như là sự tranh luận
của bên buộc tội và bên bào chữa, dựa trên những chứng cứ đưa ra trước phiên
tòa do các bên thu thập theo qui định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự là cơ sở để tòa án ra phán quyết có hiệu lực thi hành nhằm bảo vệ các
quyền cơ bản của con người
2
.
Trên thế giới, tùy theo hệ thống pháp luật tố tụng khác nhau mà có qui định
khác nhau về tranh tụng tại phiên tòa. PGS. TS Nguyễn Thái Phúc đưa ra tiêu chí
để làm cơ sở phân loại các mô hình TTHS
3
là : có hay không có tranh chấp – xung
đột pháp lý giữa các bên tranh tụng bình đẳng với nhau trước Tòa án (TA) độc lập.
Có – đó là TTHS tranh tụng. Không có – đó là TTHS thẩm vấn. Nếu như tranh
chấp giữa các bên chỉ có ở một số giai đoạn của TTHS thì TTHS là mô hình pha
trộn.
Tố tụng tranh tụng được áp dụng rộng rãi ở các quốc gia theo hệ thống luật án
lệ (common law) như Anh, Mỹ, Austraylia… với các đặc trưng riêng sau đây: (i)
có hai bên tranh tụng đối trọng nhau là bên buộc tội và bên bào chữa (ii) hai bên
này hoàn toàn bình đẳng với nhau về địa vị tố tụng (iii) Tòa án hoàn toàn độc lập
đối với các bên.
Ngược lại, tố tụng thẩm vấn được sử dụng phổ biến ở các quốc gia theo hệ
thống dân luật (civil law) như các nước Pháp, Ý, Đức… Mô hình này có các dấu
hiệu đặc trưng sau: (i) không có các bên độc lập vì hoạt động tích cực của các bên
bị thay thế bởi hoạt động của cơ quan nhà nước trong TTHS – cơ quan tiến hành tố
tụng.(ii) không có tranh chấp pháp lý của các bên, thay vào đó là ý chí của nhà
nước, của pháp luật và ý chí của nhà nước là động lực của TTHS (iii) bị cáo hoàn
2 Ts.Nguyễn Sơn, Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, cơ sở hình thành phán quyết của Tòa án.
3 PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Mô hình tố tụng hình sự tại VIệt Nam, những lý luận và thực tiễn.
[Type text] Trang 6

toàn phụ thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng và là đối tượng xem xét của những
cơ quan này.
Mô hình TTHS pha trộn là sự quá độ chuyển tiếp giữa hai mô hình trên. Về
thực tế, bất kỳ hoạt động TTHS nào cũng là mô hình TTHS pha trộn với những
biến đổi theo một trong hai hướng: pha trộn thiên về thẩm vấn hoặc pha trộn thiên
về tranh tụng
Mỗi mô hình TTHS đều có những thế mạnh và đồng thời đều có những hạn
chế của nó. Không có mô hình TTHS nào là tuyệt đối hoàn hảo. Thí dụ như mô
hình tranh tụng có mặt mạnh là hoạt động tố tụng có tính tranh tụng tích cực của
các bên đã tạo điều kiện cần thiết, khách quan cho hoạt động xét xử của TA, hạn
chế oan sai nhưng cũng có hạn chế là thủ tục, trình tự tố tụng thường kéo dài về
thời gian, phức tạp và tốn kém. Đoàn bồi thẩm với 12 thành viên tham gia xét xử
làm cho nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng của bên buộc tội khó khăn hơn nhiều so với xét
xử không có đoàn bồi thẩm, chỉ có 2 hội thẩm tham gia trong Hội đồng xét xử.
Điều này có lợi cho bị cáo, cho công lý. Nhưng ở khía cạnh tài chính thì đương
nhiên là chi phí cho 12 thành viên đoàn bồi thẩm tốn kém nhiều hơn so với chi phí
cho hai hội thẩm nhân dân. Còn đối với mô hình thẩm vấn có hạn chế là phụ thuộc
quá nhiều vào hoạt động của cơ quan trước đó, lại trao cho cơ quan điều tra quyền
năng quá lớn, trong khi nghĩa vụ lại ít. Có quyền, một số cán bộ tố tụng khó tránh
khỏi việc sách nhiễu, làm ảnh hưởng đến hoạt động hành nghề của luật sư cũng
như quyền bào chữa…
Tranh tụng trong hoạt động tố tụng tại Việt Nam
Qua những cơ sở phân loại đã đưa ra có thể thấy được mô hình tố tụng tại
Việt Nam là mô hình hỗn hợp (pha trộn). Từ lâu, mô hình tố tụng nước ta chịu ảnh
hưởng của hai nước lớn theo TTHS thẩm vấn là Pháp và Xô Viết. Đến nay, chúng
ta tiếp nhận một số hạt nhân của mô hình tố tụng tranh tụng. Điều này đã làm thành
những đặc trưng cơ bản của mô hình TTHS nước ta như sau
4
:
Thứ nhất, TTHS Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp, xung đột

pháp lý giữa các bên.Vụ án hình sự xảy ra bị xem là đã xâm hại tới trật tự công
cộng, lợi ích chung của xã hội và Nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết. Việc
giải quyết vụ án hình sự hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước.
Thứ hai, TTHS Việt Nam đặt mục tiêu tìm đến chân lý khách quan của sự
việc cách thức để đạt được mục tiêu này là pháp luật trao trọn vẹn trách nhiệm tìm
4 Ts. Lê Hữu Thế; Ths. Nguyễn Thị Thủy, Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư
pháp.
[Type text] Trang 7
kiếm chứng cứ, xác định sự thật của vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng. Cũng xuất phát từ mục tiêu này, trong TTHS Việt Nam
không tồn tại chế định “tuỳ nghi truy tố” hay “mặc cả thú tội” như trong mô hình
TTHS tranh tụng. Việc phát hiện và xử lý tội phạm mang tính bắt buộc.
Thứ ba, về phương pháp tố tụng sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án là
phương pháp điều tra thẩm vấn.Ở từng giai đoạn khác nhau, có những thành phần
chủ thể khác nhau, nhưng đều hướng đến một mục tiêu chung là làm sáng tỏ sự
thật khách quan, tìm đến chân lý của sự việc .
Thứ tư, TTHS Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án thành các giai
đoạn tố tụng gồm giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.
Thứ năm, trong TTHS Việt Nam luôn tồn tại “hồ sơ vụ án hình sự”. Nếu như
trong mô hình TTHS tranh tụng không tồn tại một hồ sơ vụ án chính thức (bên
buộc tội tự lập hồ sơ vụ án của mình để thực hiện chức năng buộc tội, bên bào
chữa tự lập hồ sơ của mình để thực hiện chức năng gỡ tội), thì trong suốt các giai
đoạn của TTHS nước ta luôn tồn tại một hồ sơ vụ án hình sự, được các cơ quan
tiến hành tố tụng lập thống nhất từ giai đoạn điều tra. Hồ sơ vụ án hình sự chứa
đựng toàn bộ các thông tin, chứng cứ về tội phạm và người phạm tội, được các cơ
quan tiến hành tố tụng dựa vào đó để thực hiện các chức năng tố tụng của mình,
đồng thời được bổ sung, hoàn thiện qua từng giai đoạn tố tụng.
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TRANH TỤNG
Giới thiệu về vấn đề
Như đã nêu ở phần lý thuyết trên, hệ thống TTHS nước ta đi theo mô hình

hỗn hợp, những người tiến hành tố tụng bao gồm cơ quan điều tra, tòa án và Viện
kiểm sát; trong đó kiểm sát viên giữ chức năng công tố và kiểm sát tại phiên tòa.
Với chức năng của mình, Viện kiểm sát giữ trách nhiệm kiểm tra, giám sát sự đúng
đắn trong quy trình thực thi luật pháp tại tòa, hơn thế nữa là người có nhiệm vụ
chứng minh tội phạm-một nhiệm vụ rất quan trọng nhằm đảm bảo tính pháp chế
của nhà nước.
Tuy nhiên, thực tế chức năng của Viện kiểm sátđã được thực hiện tốt hay
chưa? Còn có những vướng mắc giữa luật và thực tiễn khi Viện kiểm sátthực hiện
chức năng của mình? Trong bài tiểu luận này chúng ta sẽ cùng phân tích về vấn đề
này.
Thực trạng
[Type text] Trang 8
Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên
tòa, Bộ chính trị đã ra nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002: “ bảo
đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và người tham gia tố tụng
khác…”. Sau 4 năm áp dụng, nhằm nâng cao hiệu quả của việc cải cách tư pháp,
Bộ chính trị tiếp tục ra NQ số 49-NQ/TW năm 2005 khẳng định “…đổi mới việc tổ
chức phiên tòa…nâng cao chất lượng xét xử, tranh tụng tại các phiên tòa…”.
Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo tăng cường cán bộ công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự; thực hiện thông khâu kiểm sát
điều tra – kiểm sát xét xửcác vụ án hình sự, theo đó Kiểm sát viên làm nhiệm vụ
kiểm sát điều tra, đồng thời tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm để nắm chắc hồ sơ,
chủ động hơn trong việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Sau khi thực hiện cơ
chế này, công tác thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa đã có
nhiều chuyển biến tích cực.
Nhìn chung, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã tích cực và chủ động hơn
vào việc xét hỏi, tranh luận để cùng với HĐXX tìm ra sự thật khách quan của vụ
án. Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa thực sự đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thông qua
công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát các cấp đã tập hợp các

dạng vi phạm để kiến nghị yêu cầu Tòa án rút kinh nghiệm trong công tác xét xử
và thông báo rút kinh nghiệm về công tác kiểm sát xét xử; lựa chọn những bản luận
tội, đề cương tranh luận có chất lượng tại phiên tòa để rút kinh nghiệm chung.
Hầu hết các Kiểm sát viên khi được phân công thực hành quyền công tố đã
nắm chắc chứng cứ của vụ án, chuẩn bị đề cương xét hỏi, phát biểu luận tội, quan
điểm đối đáp tại phiên tòa chặt chẽ, sắc bén, công khai dân chủ hơn. Nhìn chung
những nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa được HĐXX chấp nhận
và những người tham gia phiên tòa đồng tình.
Chất lượng công tố tại phiên tòa được nâng lên rõ rệt, Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố tại phiên tòa đã chủ động tham gia xét hỏi và thẩm tra tài liệu,
chứng cứ để buộc tội và bảo vệ cáo trạng, tham gia tranh luận và đối đáp với Luật
sư, với các thành phần tham gia tố tụng khác nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án. Vì
vậy, đã góp phần nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của những người tham gia tố tụng.
Tuy chất lượng công tố tại tòa đã được nâng lên nhưng thực tế vẫn còn
những hạn chế trong việc hoạt động thực hiện chức năng của Kiểm sát viên như:
một số Kiểm sát viên chưa thường xuyên bám sát hoạt động điều tra để chủ động
đề ra yêu cầu điều tra nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết án; việc nắm diễn biến
điều tra và xử lý chưa đầy đủ, chặt chẽ; chưa phát hiện sớm được những sai sót
[Type text] Trang 9
trong tố tụng điều tra và tố tụng xét xử; việc đưa ra chứng cứ, lập luận bảo vệ quan
điểm truy tố ở một số vụ án chưa thật thuyết phục, xét hỏi còn trùng lặp với nội
dung của HĐXX; luận tội và đối đáp trong tranh luận chưa chặt chẽ và còn lúng
túng trước các tình huống phát sinh tại phiên tòa; đề xuất mức án chưa sát với tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm… chẳng hạn trong phiên xử một vụ chống
người thi hành công vụ, kiểm sát viên khi hỏi người thi hành công vụ thì xưng là
“đồng chí” và không nhanh nhạy để phản bác lại lời khai thiếu chính xác của bị
cáo dù trong hồ sơ đã khá rõ
5
.

Mặc dù pháp luật có quy định cụ thể và rõ ràng tại Điều 218 BLTTHS-quy
định về tranh luận tại phiên tòanhưng do trình độ, năng lực của một số Kiểm sát
viên còn hạn chế; việc nghiên cứu hồ sơ, chứng cứ một số vụ án chưa kỹ, chưa
toàn diện, còn có biểu hiện chủ quan, đơn giản trong nghiên cứu, nhiều bản luận tội
của các kiểm sát viên chưa đảm bảo tính logic và sắc bén, không phù hợp với nội
dung vụ án, do đó trong các phiên tòa, chất lượng tranh luận giữa các bên còn
nhiều hạn chế, cá biệt có vụ án kiểm sát viên không nắm chắc, nghiên cứu không
sâu, không bảo vệ được quan điểm của Viện kiểm sát, còn lúng túng khi xử lý các
tình huống phát sinh hoặc những nội dung có sự thay đổi. Ví dụ như trong phiên xử
vụ “Dương Hồng Điếu phạm tội cố ý gây thương tích”, kiểm sát viên luận tội như
sau: “Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người chưa thành niên nhưng
có sức khỏe bình thường, có khả năng lao động, có đủ nhận thức hiểu biết về việc
làm của mình là gây thương tích cho người khác là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ
bị trừng trị nhưng vẫn cố ý thực hiện Lợi dụng lúc nạn nhân đang đuổi theo mà
bị cáo đã quay lại và dùng dao đâm vào lưng rồi bỏ chạy là xem thường kỷ cương
pháp luật, là nguy hiểm cho trật tự xã hội”.
Theo VKSND TP.HCM, cách luận tội này thường được sử dụng chung như
là luận tội mẫu cho từng loại tội, dẫn đến việc đánh giá không khách quan, không
đúng bản chất của tội phạm. Có vụ, bị cáo làm thợ đá hoa cương đang chạy xe ô tô
chuyên dụng chở hàng hóa, chẳng may gây tai nạn trên địa bàn quận 7. Vậy mà
kiểm sát viên lại luận tội rằng bị cáo… lười lao động, muốn hưởng thụ với động cơ
tham lam liều lĩnh, phạm tội bất chấp thủ đoạn
Thực tiễn cho thấy, có những Kiểm sát viên không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ
án, không có sự chuẩn bị kỹ càng nên ra phiên tòa không thể hỏi nhiều và điều hiển
nhiên là đến phần tranh luận không thể đối đáp, nên nhiều khi cuộc tranh luận đang
được Luật sư trình bày rất hùng hồn thì trở lên tắt ngấm bởi những câu trả lời rập
5Hoàng Yến, “Kiểm sát viên tranh luận: Vẫn còn “sạn””,
[Type text] Trang 10
khuôn, máy móc của đại diện Viện kiểm sát
6

. Có những phiên tòa còn diễn ra một
cách tẻ nhạt và như được sắp đặt trước, kết luận của Kiểm sát viên theo một khuôn
mẫu chung, thiếu dẫn chứng cụ thể để lý giải rành mạch, chi tiết, nhất là những vấn
đề còn mâu thuẫn. Những lý lẽ, lập luận, đối đáp của Kiểm sát viên thường không
đúng bản chất từng việc mà Luật sư đưa ra hoặc trả lời không đầy đủ, dẫn đến việc
tranh luận mang tính hình thức, phiến diện. Ví dụ, trong vụ án xét xử bị cáo Lục
Văn Dũng và Nguyễn Văn An về tội Môi giới mại dâm
7
, Luật sư bào chữa cho bị
cáo Lục Văn Dũng trình bày lời bào chữa rằng hành vi của bị cáo Dũng chưa đủ
yếu tố cấu thành tội Môi giới mại dâm, vì Dũng không phải là người trung gian do
không biết người mua dâm cũng như không giới thiệu gái bán dâm cho khách.
Hành vi của Dũng chỉ là giúp sức cho gái bán dâm. Đồng thời, Luật sư cho rằng
các bị cáo không phạm tội có tổ chức vì giữa các bị cáo không có sự câu kết chặt
chẽ. Hành vi phạm tội lần này của bị cáo Dũng không phải là tái phạm nguy hiểm
vì không thuộc một trong hai trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật
hình sự. Xét hành vi của bị cáo Dũng không thuộc trường hợp rất nghiêm trọng bởi
các cô gái bán dâm cần một người giúp đỡ nên không gặp Dũng thì sẽ là một người
khác. Lời bào chữa như trên của Luật sư không phải là khó bác bỏ bằng cách
chứng minh từng vấn đề với các chứng cứ đã được thẩm tra tại phần xét hỏi, vả lại
ngay chính lời bào chữa cũng có những điểm mâu thuẫn, không lôgíc và chặt chẽ
nhưng đại diện Viện kiểm sát đã không tranh luận hết về từng vấn đề Luật sư đưa
ra mà chỉ nêu rằng: giữa bị cáo Lục Văn Dũng và Nguyễn Văn An có sự câu kết
chặt chẽ thực hiện hành vi môi giới mại dâm. Bị cáo Dũng còn một tiền án chưa
được xóa án tích nên bị cáo phạm tội lần này là tái phạm nguy hiểm.
Một vấn đề rất phổ biến nữa là khi Chủ tọa yêu cầu Kiểm sát viên tranh luận
với Luật sư và bị cáo về vấn đề cần làm sáng tỏ thì đại diện Viện kiểm sátthường là
nêu lại lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, đọc lại bản cáo trạng hoặc chỉ kết
luận rằng tôi giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, chẳng hạn như trong phiên xử
vụ Lê Minh Thịnh, Ngô Văn Nhân về tội giết người, luật sư bào chữa của Thịnh

cho rằng thân chủ mình không phạm tội này bởi cái chết của nạn nhân là do hành
động thái quá của Nhân gây ra. Kiểm sát viên chỉ tranh luận Thịnh đưa dao cho
Nhân nên Nhân phạm tội gì thì Thịnh là đồng phạm tội ấy. Luật sư không đồng
tình, có sự phản biện lại thì kiểm sát viên chỉ đối đáp bằng một câu “giữ nguyên ý
6 Http://liendoanluatsu.org.vn/index.php/en/legal-documents/sua-doi-bo-sung-bo-luat-to-tung-hinh-su/796-bo-m-
tranh-tng-ti-phien-toa-c-s-hinh-thanh-phan-quyt-ca-toa-an.html
7Báo An Ninh số 668
[Type text] Trang 11
kiến”.Đây là việc thể hiện rõ nét nhất của năng lực, trình độ hạn chế của Kiểm sát
viên, và như thế đã vi phạm tinh thần tranh tụng đã được nêu trong Nghị quyết
08/NQ-TW, đồng thời vi phạm quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Một hiện trạng của việc tranh luận kém hiệu quả giữa Viện kiểm sát và luật
sư nữa mà nguyên do không phải chỉ từ phía Viện kiểm sát mà còn do nguyên nhân
khách quan khác, đó là do sự chênh lệch số lượng giữa hai bên là Viện kiểm sát và
luật sư, dẫn tới hạn chế khả năng tranh luận nhằm thực hiện chức năng của Viện
kiểm sát. Ta có thể thấy rõ điều này trong vụ án “Năm Cam và đồng bọn”
8
, theo đó
155 bị can với 24 tội danh khác nhau phải ra trước vành móng ngựa cùng với 238
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã được tống đạt quyết định
triệu tập có mặt tại phiên tòa; 39 bị hạicùng với hàng nghìn bút lục về vụ án này đã
được diễn giải tại phiên tòa. Tham dự phiên tòa có hơn 80 Luật sư nhưng chỉ có 2
Kiểm sát viên.
Ta thấy rõ, với sự chênh lệch như trên, khi mà chỉ có 2 kiểm sát viên thì khó
đảm bảo được việc tranh luận của Viện kiểm sát khi phải đối đáp lại với quá nhiều
luật sư, dẫn đến lúng túng và kém hiệu quả trong việc tranh luận, khó đảm bảo tính
hiệu quả trong hoạt động xét xử.
Nguyên nhân
Có thể thấy, do ảnh hưởng bởi quan niệm không đúng cho rằng việc xét hỏi
tại phiên tòa là trách nhiệm của HĐXX, còn Kiểm sát viên chỉ có nhiệm vụ bảo vệ

cáo trạng và kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chỉ thể hiện vai trò của mình ở
giai đoạn tranh luận. Thực trạng trên còn do luật quy định chưa rõ về trách nhiệm,
nghĩa vụ của Toà và Viện khiến vai trò của hai bên còn trộn lẫn vào nhau. Trách
nhiệm tìm sự thật của vụ án đặt lên vai Toà. Khi Viện chỉ “buộc” mà
không “chứng” thì Toà vẫn phải hỏi, phải xử
9
. Do vậy, việc xét hỏi để xác định tính
chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội chủ yếu vẫn do HĐXX (chủ yếu là
Thẩm phán –Chủ tọa phiên tòa) tiến hành; việc xét hỏi để làm sáng tỏ các chứng
cứ buộc tội, các tình tiết gỡ tội của Kiểm sát viên còn hạn chế.
8 />%93ng_ph%E1%BA%A1m
9Hoàn thiện một số quy định của BL TTHS hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa-Tạp chí
luật học số 7/2008
[Type text] Trang 12
Nguyên nhân chính của hạn chế trên là do BLTTHS chưa có đầy đủ những
quy định đáp ứng yêu cầu tranh tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm. Khi chưa sửa
đổi những những quy định hiện hành về vấn đề tranh tụng thì thực trạng này vẫn
không thể khả quan hơn dù cho chúng ta có đội ngũ Điều tra viên, Thẩm phán,
Kiểm sát viên, Luật sư giỏi nghiệp vụ đến mấy đi nữa.
Ngoài ra, còn một nguyên nhân dẫn đến việc tranh tụng tại phiên tòa không
đúng với tinh thần tranh tụng đó là yếu tố con người. Hiện nay còn có những
trường hợp mà năng lực, phẩm chất của Kiểm sát viên không đạt yêu cầu. Trong đó
vấn đề cơ bản nhất là ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp của một
số người tiến hành tố tụng chưa cao, một số khác thì sa sút về phẩm chất đạo đức,
không chịu rèn luyện bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp.
Trong quá trình xét xử, chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào vai trò chủ động
xét hỏi tranh luận của Kiểm sát viên. Do đó đòi hỏi họ phải vừa là người có cái tâm
trong sáng đồng thời vừa là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.
Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã có từ ngày 2/1/2002 nhưng tinh thần
của nó về tranh tụng không phải là đã được Kiểm sát viên quán triệt. Ngay khi có

Nghị quyết, việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa đã được Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao triển khai thực hiện ngay và quán
triệt đến từng cán bộ, nhưng việc nắm bắt và vận dụng nó còn tùy thuộc vào ý thức
mỗi người, nhất là trong giai đoạn hiện nay cơ chế để tạo ra tranh tụng vẫn còn
chưa hoàn thiện.
Năng lực của Kiểm sát viên có vai trò rất lớn đến chất lượng của quá trình
tranh tụng tại phiên tòa, được thể hiện ở hai khía cạnh là trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm khi tham gia phiên tòa, đó là là kỹ năng tranh tụng.
Trong đó trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có ảnh hưởng rất lớn vì chủ yếu các
trường hợp án bị cải sửa, hủy là do việc nắm và vận dụng pháp luật của Kiểm sát
viên còn hạn chế. Kinh nghiệm cũng có vai trò rất quan trọng bởi thực tiễn và lý
thuyết rất khác xa nhau, có những trường hợp do kinh nghiệm xét xử chưa nhiều
nên khi gặp những tình huống phức tạp thì ngay lập tức đưa hoạt động xét xử tại
phiên tòa vào đúng quỹ đạo là rất khó khăn. Đối với Kiểm sát viên ngoài việc nắm
vững những chi tiết của vụ án, việc nắm được những quy định của pháp luật thì kỹ
năng tranh tụng cũng đóng vai trò quan trọng bởi đôi khi những điều nắm được ấy
phải thể hiện ra bằng sự diễn thuyết và đối đáp ngay lập tức với Luật sư. Và để kỹ
năng được nhuần nhuyễn trở thành khả năng hùng biện thì họ cũng cần phải có sự
trải nghiệm nhiều lần qua các phiên tòa. Chất lượng Kiểm sát viên phụ thuộc rất
nhiều vào việc họ tự học tập nâng cao trình độ, nhưng còn có những người không
chịu học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, vì vậy có những sai sót
trong công tác.
[Type text] Trang 13
Ngoài ra trong hiện trạng đã nêu, chênh lệch số lượng hai bên là Viện kiểm
sát và luật sự dẫn đến không đảm bảo được hiệu quả tranh luận của Viện kiểm sát,
cho dù năng lực họ có giỏi đến mấy nhưng chắc chắn cũng ảnh hưởng ít nhiều đến
kết quả làm việc và khả năng đối đáp lại ý kiến, luận điểm của nhau.Nguyên nhân
của vấn đề này là do Điều 189 BLTTHS quy định: “ Đối với vụ án có tính chất
nghiêm trọng, phức tạp thì hai kiểm sát viên có thể cùng tham gia phiên tòa”. Điều
này đã hạn chế số lượng kiểm sát viên trong phiên tòa tối đa chỉ là hai người, gây

ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng.
Đề xuất hướng giải quyết
Theo Kiểm sát viên cao cấp Nguyễn Thanh Sơn (Viện Phúc thẩm III
VKSNDTC), muốn nâng chất tranh luận, tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa
thì trước hết chất lượng hồ sơ phải tốt. Một hồ sơ mà tố tụng vi phạm, chứng cứ
yếu thì dĩ nhiên chất lượng tranh luận, tranh tụng không thể đảm bảo. Đặc biệt,
kiểm sát viên phải nắm vững chứng cứ pháp luật khi tranh tụng, nắm được các văn
bản hướng dẫn. Ở cấp lãnh đạo thì tùy loại án mà phân công, sử dụng kiểm sát viên
phù hợp. Ở cấp phúc thẩm, với những án lớn, phức tạp, ngay khi xử sơ thẩm đã
phải bố trí kiểm sát viên ngồi theo dõi để sau này có sự chuẩn bị tốt ở giai đoạn xét
xử phúc thẩm
10
Thẩm phán Vũ Phi Long (Phó Chánh tòa Hình sự TAND TP.HCM) cho rằng
kiểm sát viên phải nắm chắc tố tụng và nội dung diễn biến vụ án ngay từ khi khởi
tố, điều tra. Tại phiên tòa, khi luật sư nêu lên các vi phạm tố tụng để nói việc điều
tra, truy tố, xét xử không đảm bảo thì kiểm sát viên phải có sự đối đáp thỏa đáng.
Kiểm sát viên phải phân tích, làm rõ những vi phạm mà luật sư nêu có phải là
nghiêm trọng, có cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không. Ngoài ra, kiểm
sát viên cũng phải có kiến thức pháp lý vững vàng để bảo vệ quan điểm buộc tội,
gỡ tội tại phiên tòa với sự hiểu biết, vận dụng đúng đắn các văn bản hướng dẫn
6
Theo viện trưởng VKSND quận 9 (TP.HCM), cần có văn bản hướng dẫn
hoặc quy chế nghiệp vụ quy định cụ thể những thao tác của kiểm sát viên tại phiên
tòa mà BLTTHS chưa quy định. Như tư thế khi đối đáp, phát biểu ý kiến; khi kiểm
sát viên thẩm vấn có lệ thuộc vào sự điều khiển của chủ tọa hay không; những vấn
đề bắt buộc kiểm sát viên phải tranh luận, những vấn đề không bắt buộc để tránh
việc vận dụng không thống nhất. Tương tự, các vướng mắc mới nảy sinh cũng cần
10 />[Type text] Trang 14
được hướng dẫn kịp thời. Ngoài ra, hằng năm VKSNDTC, VKSND TP cần hệ
thống hóa các văn bản hướng dẫn có liên quan đến việc giải quyết các vụ án hình

sự để cấp dưới vận dụng dễ dàng
6
.
Như vậy, nhằm phát huy những ưu điểm mà ta đã thực hiện được trong quá
trình cải cách tư pháp hoàn thiện hệ thống TTHS ở nước ta, đồng thời khắc phục
những hạn chế nêu trên trong quá trình hoạt động của Viện kiểm sát thì điều tiên
quyết và quan trọng nhất trong Bộ luật tố tụng hình sự phải thể hiện rõ tranh tụng
là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử
11
, đồng thời quy định rõ biện pháp
chế tài đối với hành vi không tích cực tranh luận của kiểm sát viên, từ đó cụ thể
hóa hơn nữa những quy định về tranh tụng tại phiên tòa, tạo ra cơ chế thích hợp và
hiệu quả cho quá trình tranh tụng. Từ việc thừanhận là một nguyên tắc thì tất cả
các cơ quan bảo vệ pháp luật và các chủ thể khác tham gia vào quá trình tố tụng
đều phải ý thức và hướng mọi hoạt động của họ theo nguyên tắc ấy, nhất là đối với
Kiểm sát viên-một bên của quá trình tranh tụng nên việc nâng cao chất lượng cũng
như ý thức tranh tụng của Kiểm sát viên.
Ví dụ như trong vụ án xét xử xét xử hình sự sơ thẩm vụ án Đỗ Thị Hương bị
truy tố về tội: “Hủy hoại tài sản” theo điều 143, BLHS tại TAND huyện Vân Đồn
trong các ngày 17/11 và 9/12/2010, kiểm sát viên Vũ Minh Đức đã bị kiểm điểm vì
“vi phạm quy chế tranh tụng”. Viện Trưởng VKSND huyện Vân Đồn Bùi Văn
Hiền nói: “Quá trình tranh luận Kiểm sát viên lập luận theo ý kiến chủ quan của
mình, chưa thận trọng cũng như tôn trọng quyền của người bào chữa, có ý kiến
phát biểu làm ảnh hưởng đến uy tín của luật sư và văn phòng luật sư Phạm Tiến
Mạnh. Trong quyền hạn, Viện Trưởng VKSND huyện Vân Đồn có trách nhiệm tổ
chức kiểm điểm và báo cáo VKSND tỉnh xem xét xử lý theo thẩm quyền đối với
Kiểm sát viên Vũ Minh Đức”
Ngoài ra cần quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và trong những văn bản
về tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát: (i) Nhiệm vụ buộc tội tại phiên tòa là của
Kiểm sát viên, (ii) trong thứ tự xét hỏi và tranh luận Kiểm sát viên luôn phải là

người đầu tiên
12
, (iii) những tranh luận và lời buộc tội của Kiểm sát viên không
đúng với những tình tiết tại phiên tòa là những tiêu chí để đánh giá chất lượng
11Bản chất của tranh tụng-Tạp chí KHPL số 4/2004
12 />ult.aspx?SkinSrc=%5BG%5DSkins%2F_default%2FNo+Skin&ContainerSrc=%5BG%5DContainers%2F_default
%2FNo+Container
[Type text] Trang 15
Kiểm sát viên, (iv) có quy chế về sự kiểm tra của lãnh đạo Viện kiểm sát về chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên, (v) số lượng kiểm sát viên tại
phiên tòa không giới hạn là hai người mà có thể tăng lên sao cho phù hợp với số
lượng luật sư trong phiên tòa.
Đồng thời, không chỉ cần cải cách về pháp lý mà cần quan tâm đến cả cải
cách về tổ chức. Những cơ quan có trụ sở chật hẹp thì các cấp ngành cần có sự
phối hợp chặt chẽ, đề ra kế hoạch chi tiết từng bước giao đất và cấp kinh phí để các
cơ quan đó được xây dựng sớm. Việc thực hiện cần có cơ chế giám sát theo từng
bước và dự kiến thời gian nào sẽ hoàn thành việc xây dựng trụ sở. Vì đây là đòi hỏi
cấp bách của các cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan xét xử nói riêng, nên việc
sớm có trụ sở sẽ tạo điều kiện rất lớn cho các cơ quan đó hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Những phương tiện và những thiết bị thiết yếu ở các cơ quan xét xử đều là nhằm
phục vụ nhiệm vụ xét xử nên việc thiếu thốn sẽ gây trở ngại rất lớn. Những cơ
quan phải xét xử lưu động ở cấp huyện cần được cấp kinh phí để phục vụ phiên tòa
hoặc cấp xe tải nhỏ để phục vụ nhiệm vụ này. Những cơ sở vật chất, trang thiết bị
thiết yếu cần được sự quan tâm để cấp đủ
Hơn thế nữa, ta còn cần cải cách về con người, các giải pháp vật chất – kỹ
thuật và có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng phù hợp với hoạt
động đặc thù của Điều tra viên, Kiểm sát viên… nhằm tăng cường số lượng, chất
lượng cán bộ tòa án. Số lượng cán bộ ở các cơ quan xét xử hiện nay là quá ít, cán
bộ luôn phải làm việc trong tình trạng thêm giờ, ngày nghỉ. Đây là một sức ép lớn
dẫn đến quá tải công việc. Số lượng cán bộ ở các cơ quan tăng lên không phụ thuộc

vào việc tuyển chọn cán bộ của ngành Tòa án mà phải phụ thuộc chỉ tiêu biên chế
Quốc hội giao, do đó mong rằng Quốc hội sớm bổ sung biên chế ngân sách cho
ngành Tòa án. Cùng với việc tăng về số lượng thì cũng cần nâng cao về chuyên
môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức, khuyến khích việc tự học tập nâng
cao trình độ để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ, đòi hỏi của cải cách tư pháp.
Các giải Các giải pháp này liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau,
nếu thực hiện tốt tất cả cách giải pháp trên, , giải pháp này là tiền đề và điều kiện
để tiến hành các giải pháp kia và ngược lạ, nhờ đó ta sẽ thực hiện tốt được việc
không chỉ khắc phục tốt những hạn chế, vướng mắc hiện này mà cón phát huy một
cách tích cực những ưu điểm mà Viện kiểm sát đã và sẽ đạt được trong tương lai.
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TRANH TỤNG
Giới thiệu về vấn đề
[Type text] Trang 16
Quá trình tranh tụng tại phiên tòa diễn ra với sự tham gia của ba bên: bên
buộc tội, bên gỡ tội và bên xét xử. Như đã nói ở trên về sự quan trọng của viện
kiểm sát và tòa án, để quá trình tranh tụng có hiệu quả, không thể thiếu sự tích cực
và tranh tụng hiệu quả của bên gỡ tội, xét chủ yếu ở đây là vai trò của luật sư.
Thực trạng
Luật sư chỉ định: vai trò mờ nhạt
Luật sư chỉ định thường không tranh luận mà chỉ xin giảm nhẹ: “Kính thưa
HĐXX, tôi là luật sư được chỉ định bào chữa cho bị cáo Về tội danh, tôi không
tranh luận với truy tố của Viện kiểm sát trong cáo trạng, chỉ mong HĐXX xem xét
đến các tình tiết, như phạm tội lần đầu; đã khắc phục một phần hậu quả; gia đình
có công để giảm nhẹ hình phạt cho thân chủ của tôi. Tôi xin cảm ơn HĐXX và vị
kiểm sát viên đã lắng nghe”. Đây là lời bào chữa gần như thành “công thức” được
hầu hết các luật sư tham gia án chỉ định dùng trong các phiên toà hình sự
13
.
Các luật sư chỉ định hầu nhưng không tham gia xét hỏi, tranh tụng qua loa và
chỉ “chăm” đề nghị toà giảm án cho thân chủ bằng các tình tiết giảm nhẹ. Điều

đáng nói là nếu không có luật sư, những tình tiết giảm nhẹ này cũng sẽ được công
tố viên nhắc tới trong phần kết luận vụ án.
Phần tranh tụng được coi là một giai đoạn quan trọng góp phần làm sáng tỏ
bản chất vụ án qua việc “đấu lý” giữa đại diện cơ quan công tố và luật sư, HĐXX
sẽ căn cứ vào kết quả này để đưa ra mức án với từng bị cáo. Tuy nhiên, giữa luật
sư chỉ định và công tố viên hầu như rất ít thấy những trận “thi đấu” căng thẳng về
luật học và những tình tiết pháp lý của vụ án.
Luật sư tham gia vụ án hình sự trong tư thế bị động và chưa được pháp
luật đảm bảo quyền làm sáng tỏ vụ án
Trong giai đoạn truy tố, sau khi kết thúc điều tra, luật sư thường đến liên hệ
với Viện kiểm sát để xin đọc hồ sơ vụ án, làm thủ tục xin gặp mặt bị can trong trại
tạm giam, đề xuất một số yêu cầu có liên quan. Tuy nhiên, yêu cầu này đôi khi còn
phụ thuộc vào sự đồng ý hay không đồng ý của kiểm sát viên. Trong rất nhiều
trường hợp, vì điều kiện chỗ làm việc chật hẹp, không có bàn làm việc hoặc khu
vực cho luật sư nghiên cứu hồ sơ, hoặc do yêu cầu truy tố, hồ sơ vụ án phức tạp
nên kiểm sát viên thường đề nghị luật sư “thông cảm” nghiên cứu hồ sơ khi đã
chuyển sang Tòa án. Thậm chí, có nơi trong thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa
13 Bảo Thắng, “Luật sư chỉ định – Có cũng như không?”,
[Type text] Trang 17
cho luật sư, còn đòi hỏi phải cung cấp “hợp đồng dịch vụ pháp lý” (đây là điều
không hợp lý vì trong vụ án hình sự, thực chất chỉ cần văn bản đề nghị nhờ luật sư
của bị can hoặc gia đình và trong trường hợp luật sư nhận bào chữa theo yêu cầu
của cơ quan tiến hành tố tụng).
Về chính bản thân và chuyên môn luật sự, thì nhiều luật sư chưa nghiên cứu
kỹ hồ sơ vụ án, tham gia xét hỏi mang tính chiếu lệ, khi phát biểu tranh luận chưa
đưa ra được những quan điểm và căn cứ pháp lý mang tính thuyết phục, lời lẽ tranh
luận chủ yếu là phản bác, chưa thể hiện được nét “văn hoá pháp đình”, thậm chí
phê phán cơ quan tiến hành tố tụng thiếu căn cứ, luật sư khi tranh luận lại cũng
không có ý kiến gì mới, tự lặp lại…
Về việc người bào chữa có quyền có mặt trong những hoạt động điều tra khác

tuy nhiên trong thực tiễn hành nghề, còn nhiều hạn chế liên quan đến việc tham gia
của luật sư trong tố tụng, như luật sư không được quyền có mặt chứng kiến việc
khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, thu giữ vật chứng, định giá hoặc
bán đấu giá tài sản thu giữ trong vụ án, … Vì vậy, bị can đến lượt mình cũng bị
hạn chế các quyền về nhân thân và tài sản do không được tham gia các hoạt động
tố tụng nêu trên. Điều đáng lưu ý là mặc dù pháp luật tố tụng quy định rất cụ thể về
quyền khiếu nại của những người tham gia tố tụng, nhưng rất ít khi các cơ quan
tiến hành tố tụng có văn bản trả lời hoặc giải quyết khiếu nại trong thời hạn luật
định
14
.
Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội Phạm Hồng Hải đánh giá, vai trò của luật sư
trong hoạt động tố tụng hình sự chưa được coi trọng đúng mức. Vì thế, trong nhiều
phiên tòa, sự hiện diện của luật sư chỉ mang tính hình thức, một thứ “trang điểm
thêm đẹp” trong quá trình xét xử. Quan điểm trên được tiến sĩ Phạm Hồng Hải nêu
ra tại hội thảo luật sư Việt Nam và hội nhập quốc tế do Đoàn luật sư Hà Nội tổ
chức sáng 14/10/2012. Ông Hải phản ánh, có thẩm phán coi thường và phủ nhận
vai trò của luật sư, gây khó khăn cho hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của bị cáo.
Nguyên nhân
 Về luật sư trong án chỉ định, theo khoản 2 Điều 57 BLTTHS: “Bị can, bị cáo hoặc
người đại diện hợp pháp của họ không mời được người bào chữa thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng
luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
14 Bộ Tư Pháp – Tài liệu hội nghị tổng kết thi hành Luật luật sư 2006 – Hà Nội ngày 6/2010
[Type text] Trang 18
Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ
chức mình trong trường hợp:
- Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy
định tại Bộ luật hình sự;

- Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất”.
Trên thực tế, trong hầu hết các vụ án có sự tham gia của luật sư chỉ định, có
thể thấy chất lượng bào chữa rất thấp. Thậm chí, nhiều luật sư miễn cưỡng tham
gia vụ án theo yêu cầu của lãnh đạo Đoàn luật sư. Thực tế có nhiều luật sư trong án
chỉ định cũng thật sự tâm huyết với nghề, nhưng có thực trạng trên là bắt nguồn từ
nhiều căn nguyên
Thứ nhất, thù lao ở mức thấp. Hiện các luật sư chỉ định chỉ được trả thù lao
120.000 đồng/ ngày xét xử, đây là quy định được áp dụng từ năm 2007. Trong khi
đó, Luật sư Nguyễn Quang Tiến (Công ty Luật Bảo Thiên, Đoàn Luật sư Hà Nội)
chia sẻ: “Một vụ án thông thường, các luật sư thường nhận được hàng chục triệu
đồng tiền thù lao, nhưng với các vụ án chỉ định tối đa chúng tôi nhận được không
quá 300.000 đồng. Trong khi đó, phải chạy xuôi chạy ngược hết cơ quan này đến
cơ quan khác, riêng tiền xăng xe cũng mất quá nửa thù lao, chưa kể phải làm cả tá
thủ tục rườm rà với các cơ quan tố tụng. Ở giai đoạn điều tra cũng như truy tố,
các luật sư hầu như không được thanh toán thù lao”. Luật sư Hà Đăng (Đoàn Luật
sư Hà Nội) cũng chia sẻ thêm: “Nếu làm án chỉ định theo dạng trợ giúp pháp lý,
chúng tôi còn “tươm” hơn chút khi được thanh toán 1,2 triệu đồng/vụ. Nhưng
cũng phải nói cho rõ, đây là án có sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, thường áp
dụng cho toà cấp huyện”. Với mức thù lao quá chênh lệch so với giá cả thị trường
như vậy, các luật sư trong án chỉ định, dù tâm huyết với nghề đến đâu, cũng khó có
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ bào chữa trong vụ án
15
.
Thứ hai, nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bào chữa chính là
sự thiếu hợp tác từ các cơ quan tố tụng. Với các án chỉ định, luật sư thường được
tiếp cận hồ sơ khi đã kết thúc điều tra. Đặc biệt là trong các án liên quan đến ma
túy. Đó cũng chính là lí do khiến cho trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, vai
trò của luật sư chưa được thể hiện rõ. Theo ý kiến của luật sư Phạm Tùng: “Cũng
dễ hiểu khi các luật sư chỉ định thường dùng “luật im lặng” trong quá trình xét xử.

Bởi họ thường không có thời gian nghiên cứu hồ sơ và không được tạo điều kiện
để nghiên cứu hồ sơ. Nhiều vụ án chỉ định, luật sư chỉ được cung cấp bản cáo
15 Bảo Thắng, “Luật sư chỉ định – Có cũng như không?”,
[Type text] Trang 19
trạng trước ngày mở toà. Bởi thế, họ không dám nói nhiều vì sợ hớ. Giải pháp
an toàn chính là “đồng ý với cáo trạng, với quan điểm của kiểm sát viên”.
• Trong bản đánh giá thực trạng đảm bảo quyền bào chữa, Liên đoàn Luật sư Việt
Nam đã chỉ ra rất nhiều quy định của pháp luật không đề cập đến vai trò luật sư.
Vai trò của luật sư từ giai đoạn điều tra, truy tố cho đến khi xét xử còn mờ nhạt,
ngoài nguyên nhân do cán bộ, cơ quan tố tụng làm khó thì mô hình tố tụng và quy
định pháp luật cũng chưa rõ ràng. Trong quá trình chuẩn bị cho tranh tụng tại phiên
tòa, cụ thể là trong giai đoạn truy tố hiện nay chưa có nhiều quy định cụ thể về sự
tham gia của người bào chữa. Thực tiễn tố tụng cho thấy nhiều hoạt động của VKS
như tiến hành phúc cung, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định tư pháp…
không có sự tham gia của người bào chữa. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 156 BLTTHS
quy định điều tra viên, kiểm sát viên có quyền tham dự giám định nhưng phải
thông báo cho người giám định biết trước, trong khi đó lại không đề cập đến luật
sư Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của VKS cũng không được thông báo cho
người bào chữa. Phần lớn các khiếu nại, tố cáo của người bào chữa đều không
được VKS trả lời hoặc giải quyết. Tương tự, trong giai đoạn xét xử, luật sư cũng
không được tòa thông báo về quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Thậm chí có
trường hợp quyết định trên còn đóng dấu “Mật”, ảnh hưởng đến việc nghiên cứu,
tìm hiểu vụ án của người bào chữa
16
Một vướng mắc khác trong giai đoạn xét xử là BLTTHS không quy định các
trường hợp người bào chữa được quyền chủ động đề xuất người làm chứng, chứng
cứ cũng như triệu tập những người liên quan khác có mặt tại phiên tòa nếu không
được sự chấp thuận của tòa. Luật cũng chưa thừa nhận chứng cứ do luật sư thu
thập để làm căn cứ xác định có hay không hành vi phạm tội cũng như chưa quy
định về quyền đánh giá chứng cứ của luật sư.

• Song song đó, Điều 218 BLTTHS quy định chủ tọa phiên tòa không được hạn chế
thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày
hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Nội
hàm của khái niệm “không liên quan đến vụ án” trên thực tế cũng được hiểu, diễn
dịch khác nhau khi chủ tọa cắt ý kiến của người bào chữa. Chất lượng và kết quả
tranh tụng vì vậy mà bị hạn chế
17
.
16 Phan Thương - Tiến Hiểu, “Bảo đảm quyền bào chữa – Bài 2: Luật sư chỉ có mặt “cho đủ tụ”?”,

17 Trích báo cáo số 251 ngày 29-10-2012 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam
[Type text] Trang 20
Ngoài ra, ở phiên tòa phúc thẩm, Điều 264 BLTTHS đề cập tới quyền bổ sung
chứng cứ mới hoặc bổ sung tài liệu, đồ vật của người bào chữa nhưng chưa quy
định rõ về trình tự điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật. Ở phiên họp giám
đốc thẩm, theo Điều 280 BLTTHS, khi xét thấy cần thiết, tòa triệu tập người bị kết
án, người bào chữa Điều 282 BLTTHS cũng quy định những người được triệu
tập được trình bày ý kiến… Tuy nhiên, rất hiếm hoi có việc luật sư được tham gia
và có cơ hội trình bày ý kiến bào chữa tại các phiên họp Giám đốc thẩm.
Đề xuất hướng giải quyết
Pháp luật tố tụng nên quy định mở rộng thêm về quyền điều tra thu thập
chứng cứ của luật sư trong giai đoạn điều tra và xét xử. Trong giai đoạn điều tra,
luật sư nên được quyền thông báo việc trưng cầu và kết quả giám định về thương
tật, thiệt hại tài sản, vật chứng, tài chính - kế toán, … được mời tham gia chứng
kiến việc khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, được thông báo thành
phần và kết quả giám định pháp y, được thông báo và tham gia chứng kiến việc
bán đấu giá tài sản, kê biên, niêm phong tài sản.
Luật sư nên được phép tiến hành lấy lời khai và đảm bảo các thủ tục chứng
thực việc lấy lời khai là hợp pháp đối với các đối tượng liên quan vụ án, có quyền
liên hệ các cơ quan có thẩm quyền để trả lời các yêu cầu của luật sư nhằm làm

sáng tỏ bản chất vụ án.
Luật sư cũng có quyền cung cấp các chứng cứ (vật chứng, lời khai) cho cơ
quan điều tra và được lập biên bản ghi nhận về việc cung cấp các chứng cứ này.
Pháp luật nên quy định các cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm và cá nhân có
nghĩa vụ chấp thuận và cung cấp các bằng chứng, tài liệu cần thiết theo yêu cầu
hợp pháp và chính đáng của luật sư. Luật sư không bị xem xét trách nhiệm liên
quan việc cung cấp các chứng cứ, tài liệu cho cơ quan điều tra, nếu việc cung cấp
đó được tiến hành công khai, hợp pháp, trừ trường hợp luật sư cố tình tạo ra hoặc
biết rõ chứng cứ, tài liệu là giả mạo.
Cần nhận thức quá trình thu thập chứng cứ, tiến hành điều tra của luật sư
không chỉ giúp cho khách hàng của mình chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, mà còn là phương thức tiếp cận với sự thật, bảo vệ sự nghiêm
minh của pháp luật, còn tiết kiệm được công sức, tiền bạc cho Nhà nước khi cuộc
điều tra được tiến hành một cách công khai, nhanh chóng và công bằng. Mặt khác,
để bổ sung cho quyền này, pháp luật tố tụng cần minh định rõ ràng quyền và nghĩa
vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng khi sắp xếp đưa vào hồ sơ toàn bộ hệ thống
các chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, tránh tình trạng bỏ sót những
chứng cứ có lợi cho việc chứng minh sự vô tội của bị can, bị cáo.
[Type text] Trang 21
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án của luật sư trong giai đoạn quyết định truy tố có
ý nghĩa hết sức quan trọng, có thể hạn chế được các vi phạm về thủ tục tố tụng
hoặc oan sai trong việc kết tội bị can, bị cáo. Thực tế chứng minh, nếu kiểm sát
viên tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia giai đoạn này, việc tiến hành lập
cáo trạng và xác lập các căn cứ truy tố bảo đảm căn cứ vững chắc hơn, tránh tình
trạng khiếu kiện hơn. Ngoài việc đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận người
bào chữa cho luật sư (như trong giai đoạn điều tra), Viện kiểm sát cần cho phép
luật sư đọc, ghi chép, photocopy hồ sơ vụ án và giải quyết các yêu cầu đề xuất của
luật sư về chứng cứ, giám định, tiến hành phúc cung, giám định lại và giám định
bổ sung, tổ chức đối chất, v.v… Trong giai đoạn sau khi kết thúc điều tra, chuẩn bị
lập cáo trạng truy tố, luật sư có quyền vào trại tạm giam gặp mặt và làm việc với bị

can mà không có bất cứ sự hạn chế nào, không có mặt điều tra viên, kiểm sát viên
và giám thị trại tạm giam. Ngoài ra, luật sư có quyền được nhận cáo trạng của Viện
kiểm sát và các thông tin liên quan việc giải quyết vụ án.
Cần quy định cụ thể về việc bảo đảm sự bình đẳng thật sự trong tranh tụng
tại phiên tòa giữa kiểm sát viên và luật sư. Khi có luật sư tham dự phiên tòa, cần
phải coi đánh giá của Tòa án về quan điểm pháp lý của luật sư trong bản án như
một tiêu chí của một bản án có hiệu lực pháp luật.
Đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ. Đội ngũ luật sư còn hạn chế về số lượng, chưa chuyên nghiệp. Vấn đề đặt ra
trước mắt cũng như lâu dài là cơ quan tố tụng và giới luật sư cần có các giải pháp
quyết liệt để củng cố số lượng, tăng cường chất lượng.
Nghị quyết 08 ngày 2-1-2002 và Nghị quyết 49 ngày 2-6-2005 của Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra là phán
quyết của Tòa án phải xuất phát từ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Cần nâng tính
ràng buộc pháp lí của các nghị định này lên.
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI VÀ BỊ CÁO TẠI PHIÊN TÒA
Giới thiệu về vấn đề
Bên buộc tội có viện kiểm sát và người bị hại (nếu có) còn bên bào chữa có
luật sư (người bào chữa) và bị cáo nhưng trên thực tế 2 chức năng này chưa thật sự
bình đẳng với nhau. Mặc dù Điều 20 BLTTHS và một số điều luật khác có quy
định sự bình đẳng tại phiên tòa, tuy nhiên điều kiện để thực hiện sự bình đẳng đó
lại chưa được pháp luật quy định cụ thể.
[Type text] Trang 22
Thực tiễn
Nhóm cho rằng tranh tụng chỉ thực sự bắt đầu từ giai đoạn xét xử tại phiên
tòa, chính vì vậy mà chủ thể tham gia tranh tụng chỉ bao gồm: bị cáo và người bào
chữa; kiểm sát viên – đại diện cho VKS và người bị hại ( trong trường hợp khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại ); Hội đồng xét xử tương ứng với ba
chức năng cơ bản trong TTHS đó là buộc tội, bào chữa và xét xử. thế nhưng vai trò
của bị cáo trong chức năng bào chữa và người bị hại trong chức năng buộc tội chưa

thực sự phát huy được vai trò vì định kiến cá nhân luôn cho rằng họ luôn tranh luận
sao cho lợi ích thuộc về mình nhiều nhất!
Thực tế bên công tố đưa ra trách nhiệm khá lớn cho bị cáo trong việc tìm
kiếm sự thật theo hướng nghiêng về phía anh ta cũng dẫn đến thiếu sót cơ bản khi
bị can không ở vị trí có nhiều khả năng để tìm kiếm chứng cứ. Nhưng quá trình để
nộp chứng cứ.
Bị cáo ra toà có chức năng là bào chữa tức là ra toà để xác định xem có phải
là tội phạm hay không nhưng trong suy nghĩ của toà thì như đã có tội rồi, trong
một số phiên xét xử sơ thẩm bị cáo cũng đã phải mặc áo tù khi ra “hầu toà” ví dụ:
xét xử Năm Cam và đồng bọn, các bị cáo trong vụ án “vườn điều” ở thị trấn Tân
Minh, huyện Hàm Tân (Bình Thuận)
18
, 28 bị cáo là các phạm nhân đang thụ án tại
Trại giam số 3. Tổng cục VIII - Bộ Công an đóng tại xã Nghĩa Dũng, Tân Kỳ,
Nghệ An đều mặc áo tù nhân trong mở phiên tòa hình sự sơ thẩm vụ án tàng trữ,
mua bán trái phép chất ma túy vào Sáng ngày 25/9 tại TAND tỉnh Nghệ An
19
, bị
cáo Lê Mạnh Quang trong phiên tòa xét xử sơ thẩm về tội tham ô ngày 8/11/2004,
TAND tỉnh Thanh Hóa
20
.
Tranh tụng đòi hỏi PLTTHS phải đảm bảo cho các bên đầy đủ các phương
tiện cần thiết để có thể thực hiện được chức năng của mình. Phương tiện của các
bên phải tương xứng với nhau và phải phù hợp với chức năng của chúng. Sẽ bất
bình đẳng khi pháp luật dành cho một bên quá nhiều phương tiện còn bên kia lại
18 />19 />20 />[Type text] Trang 23
quá ít. Tư tưởng bình đẳng này không chỉ thể hiện ở tại phiên tòa mà còn phải
được đảm bảo từ trước khi mở phiên tòa, ở đó các bên phải được đảm bảo các điều
kiện thuận lợi trong việc chuẩn bị các điều kiện cho cuộc tranh tụng tại phiên tòa.

“Có người cho rằng nếu bên buộc tội và bên bào chữa không thực sự bình đẳng và
Tòa án không độc lập trong quá trình xét xử thì sẽ không có tranh tụng hoặc tranh
tụng nửa vời”.
21
Mặt khác theo Điều 35 BLTTHS thì chỉ có luật sư, người đại diện hợp pháp
của bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân mới có thể trở thành người bào chữa
khi được yêu cầu. Trong khi số bào chữa viên nhân dân thì hầu như không tồn tại
trên thực tế, người đại diện hợp pháp thì chưa được pháp luật quy định cụ thể, đã
làm hạn chế khả năng của bên bị buộc tội trong việc lựa chọn người bào chữa.
Nguyên nhân
Theo quy định của BLTTHS thì bị can, bị cáo có quyền chứng minh sự vô tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Tuy nhiên, để bị can, bị cáo thực
hiện được các quyền này lại phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào thiện ý của cơ quan,
người THTT.
Mặt khác do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ chứng minh của bị
can, bị cáo vô hình chung chúng ta đã gạt bị can, bị cáo ra khỏi quá trình tố tụng,
chúng ta không xem họ với tính cách là một bên trong tranh tụng. Điều này cũng
tương tự như đối với người bị hại. Vì vậy, tại phiên tòa vai trò của bị cáo cũng như
người bị hại rất mờ nhạt. Đây cũng là điều làm hạn chế hiệu quả tranh tụng.
Đề xuất hướng giải quyết
Từ những suy nghĩ trên, chúng tôi kiến nghị pháp luật TTHS cần phải được
đổi mới theo hướng phân định rõ các chức năng tố tụng. Những quyền và nghĩa vụ
nào thuộc chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử phải được
quy định rõ. Trên cơ sở đó xác định rõ chức năng tố tụng của các chủ thể tham gia
thực hiện, theo hướng tăng cường các yếu tố tranh tụng.
Tóm lại, mỗi mô hình tố tụng có những mặt hạn chế và tích cực nhất định,
đồng thời có những điểm bất cập tương đồng. Áp dụng mô hình tố tụng nào là sự
lựa chọn không đơn giản của mỗi quốc gia trên cơ sở tính đến những hoàn cảnh,
điều kiện kinh tế, xã hội và truyền thống pháp luật của mình. Tuy nhiên, việc hiểu
21 ThS Lê Tiến Châu - Giảng viên Khoa Luật Hình sự, trường ĐH Luật TP. HCM

[Type text] Trang 24
rõ những mặt tích cực và hạn chế của mỗi mô hình luôn tạo ra sự chủ động tích cực
trong quyết định lựa chọn của quốc gia.
TÍNH TRUNG LẬP CỦA TÒA ÁN TRONG TRANH TỤNG
Giới thiệu về vấn đề
Tòa án là cơ quan có thẩm quyền nhân danh nhà nước bảo vệ công lý với
chức năng chính là thực hiện hoạt động xét xử, chỉ có Tòa án mới có quyền tuyên
bố một người có tội hoặc vô tội và áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp
khác đối với tội phạm.
Trong tranh tụng tố tụng hình sự, Tòa án đóng vai trò quan trọng là người
trọng tài độc lập trong quá trình xét xử tại phiên tòa. Tòa án bảo đảm sự bình đẳng
giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, bảo đảm sự thật khách quan giữa các bên và đứng
ngoài mọi tranh luận tại phiên tòa.
Ngoài nhiệm vụ là một vị trọng tài công minh, Tòa án còn là người tạo điều
kiện để phát huy được tính tích cực, chủ động của các chủ thể tham gia tranh tụng,
lắng nghe các luận điểm của các bên trình bày, xem xét tính hợp pháp và giá trị
chứng minh của các chứng cứ được đưa ra nhằm xác định sự thật vụ án. Tòa án
còn là người duy trì trật tự tại phiên toà, giám sát và điều khiển quá trình tranh tụng
giữa các bên, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự của tất cả các chủ thể
tham gia phiên toà.
Thực tiễn
Tuy nhiên, trên thực tiễn, nhiệm vụ và vai trò của Tòa án không chỉ dừng lại
ở đó, đã có nhiều bất cập xảy ra khi Tòa án đã đi quá quyền hạn của mình, chẳng
hạn như có nhiều chuyên gia lên tiếng về thực trạng Tòa án như trở thành một vị
Kiểm sát viên thứ hai khi lúc nào cũng tham gia vào xét hỏi khiến quá trình tranh
tụng giữa Kiểm sát viên và Bên bào chữa trở nên bị động và hạn chế.
Một số chuyên gia đã lên tiếng về thực trạng nêu trên, cụ thể là tại phiên họp
sáng ngày 27/3/2007 của Quốc hội khoá XI thảo luận về các Báo cáo tổng kết
nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) và Chánh
án Toà án nhân dân tối cao (TANDTC), ông Nguyễn Minh Thuyết đã phải đặt câu

hỏi: “Xét xử ở Toà án ở ta đã thực sự là tranh tụng chưa? Có bao nhiêu phần trăm
[Type text] Trang 25

×