Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.47 MB, 127 trang )


1

đại học quốc gia hà nội
khoa luật




bùi mạnh c-ờng




gắn công tố với hoạt động điều tra
trong tố tụng hình sự theo tinh thần
nghị quyết đại hội đảng lần thứ x -
một số vấn đề lý luận và thực tiễn




luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2012





2

đại học quốc gia hà nội
khoa luật



bùi mạnh c-ờng





gắn công tố với hoạt động điều tra
trong tố tụng hình sự theo tinh thần
nghị quyết đại hội đảng lần thứ x -
một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng




Hà nội - 2012



3
MỤC LỤC



Trang

Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1:

5
1.1.
Khái niệm về điều tra và công tố
5
1.1.1.


5
1.1.2.

10
1.2.
Lược sử mối quan hệ giữa công tố và điều tra ở Việt Nam
trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
17
1.2.1.
1945 đến
trước năm 1960
17
1.2.2.
Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 1988
21
1.2.3.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
24
1.3.
Mối quan hệ giữa công tố và hoạt động điều tra theo quy
định của pháp luật một số nước trên thế giới
27
1.3.1.

27
1.3.2.
-

31
1.3.3.

34

Chương 2:
40

4
NAY (SỐ LIỆU 5 NĂM: TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010)
2.1.
Mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra theo quy
định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành
40
2.2.
Những kết quả đạt được trong việc giải quyết mối quan hệ
giữa công tố với hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra vụ
án hình sự và nguyên nhân của những kết quả đạt được
51
2.2.1.
giữa công tố
án hình sự
51
2.2.2.
Nguyên nhân của những kết quả đạt được
58
2.3.
Một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra ở giai đoạn
điều tra vụ án hình sự và nguyên nhân của những hạn chế,

khó khăn, vướng mắc
62
2.3.1.

62
2.3.2.
Nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc
68

Chương 3:

77
3.1.
Quán triệt các quan điểm của đảng về tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra
77
3.2.
Nâng cao nhận thức của cán bộ, Kiểm sát viên về chủ
trương gắn công tố với hoạt động điều tra, về trách nhiệm
công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
80
3.3.
Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, công tác quản lý, chỉ đạo,
83

5
điều hành. tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện trưởng
Viện kiểm sát các cấp trong việc thực hiện chủ trương gắn
công tố với hoạt động điều tra

3.4.
Nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức; tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên
90
3.5.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho
các đơn vị làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố; đổi mới
cơ chế tiền lương, chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên
95
3.6.
Tăng cường mối quan hệ phối hợp, chế ước giữa Viện kiểm
sát và cơ quan điều tra trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm; tăng cường quan hệ phối hợp giữa các đơn vị thực
hành quyền công tố với các đơn vị thực hiện các khâu công
tác khác trong ngành
99
3.7.
Nâng cao chất lượng hoạt động tương trợ tư pháp hình sự;
tăng cường quan hệ với với các nước có nền công tố mạnh
để trao đổi, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm thực hành
quyền công tố
102
3.8.
Những giải pháp cụ thể trong hoạt động nghiệp vụ
103
3.9.
Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 để cụ thể hóa chủ trương gắn công tố với hoạt
động điều tra
110

3.9.1.
Tăng thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt
động kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
110
3.9.2.
Tăng thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc khởi tố vụ án
112
3.9.4.

114


117

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
119

6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
ĐTV

: Điều tra viên
KSV
: Kiểm sát viên
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của
Cơ quan điều tra (CQĐT) và Viện kiểm sát (VKS) đã đạt được nhiều thành
tích đáng kể, chất lượng điều tra, truy tố tội phạm đã có những chuyển biến rõ
rệt và tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn để xảy ra hiện tượng oan, sai hoặc bỏ lọt
tội phạm; vẫn còn những trường hợp khởi tố, bắt, giam giữ không đúng pháp
luật làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
vẫn còn những hiện tượng vi phạm pháp luật tố tụng hình sự của CQĐT, VKS.
Một trong những nguyên nhân đó là tình trạng "cắt khúc" trong tố tụng hình sự,
cơ chế gắn trách nhiệm công tố với hoạt động điều tra còn chưa được xác định
một cách rõ ràng; nhiều quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)
chưa hợp lý gây ra khó khăn, vướng mắc, bất cập cho VKS trong quá trình
thực hiện chức năng công tố ở giai đoạn điều tra, chưa đảm bảo "thực quyền"
công tố, hiệu lực các quyết định công tố của VKS trên thực tế.
Nhận thức của một số Kiểm sát viên (KSV) ngành Kiểm sát nhân dân
về chức năng công tố, về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của VKS khi thực hành

quyền công tố, về mối quan hệ giữa hai chức năng công tố và kiểm sát điều
tra của VKS, về mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra của CQĐT
còn chưa rõ ràng, đầy đủ nên gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong quá trình
giải quyết các vụ án hình sự.
Để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo
vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc cải cách tư
pháp. Công cuộc cải cách tư pháp ngày càng được chú trọng và đẩy mạnh,
đồng bộ với cải cách lập pháp và hành pháp. Trong những văn kiện, nghị
quyết quan trọng của Đảng về cải cách tư pháp có nhiều nội dung đề cập đến

8
cải cách tổ chức và hoạt động của CQĐT, VKS. Một trong những ch trương
được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và sau đó là Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề cập đến là "gắn công tố với hoạt động
điều tra".
Việc nghiên cứu chủ trương "gắn công tố với hoạt động điều tra" của
Đảng sẽ góp phần thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng trong thực
tiễn; nâng cao nhận thức của cán bộ, KSV ngành Kiểm sát nhân dân về vai
trò, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình thực hành quyền công tố;
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc gắn công tố với hoạt
động điều tra; đồng thời đưa ra một số kiến nghị sửa đổi luật tố tụng hình sự
nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương gắn công tố với hoạt động điều tra, đảm
bảo hiệu lực, thực quyền của VKS trong giải quyết án hình sự.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên quyết định chọn đề tài: "G
công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự theo tinh thần
Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề
tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề mối quan hệ giữa công tố và hoạt động điều tra đã được một

số sách, báo, tạp chí, công trình nghiên cứu, đề cập như cuốn "Thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra" do TS. Lê
Hữu Thể chủ biên; Chuyên đề "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra" do Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án trật tự
xã hội, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) thực hiện; GS.TSKH Lê
Cảm có bài "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố (nhìn nhận từ
góc độ Nhà nước pháp quyền)"; TS. Trần Văn Độ có bài "Một số vấn đề về
quyền công tố"; TS. Trần Đình Nhã đề cập đến "Chức năng công tố của Viện
kiểm sát nhân dân, mối quan hệ giữa việc thực hiện quyền công tố với các
hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử" Ngoài ra, còn một số bài viết

9
khác của các tác giả đăng tải trên Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học, cũng đề
cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến mối quan hệ giữa công tố và điều tra.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống, nghiên cứu sâu về chủ trương gắn công tố với hoạt động điều tra để
nâng cao chất lượng điều tra, truy tố theo tinh thần Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X. Do vậy, việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này
có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn mối quan hệ giữa công và hoạt động điều tra; so sánh, đối chiếu với
luật pháp một số quốc gia trên thế giới; nghiên cứu lịch sử mối quan hệ giữa
công tố với điều tra từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; phân
tích những kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn vướng mắc trong mối
quan hệ giữa công tố và điều tra hiện nay và nguyên nhân của kết quả, hạn
chế; tác giả đã đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường việc gắn công tố với
hoạt động điều tra, kiến nghị sửa đổi một số quy định của BLTTHS năm
2003, góp phần đảm bảo hoạt động điều tra, truy tố được khách quan, toàn
diện, đúng pháp luật.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu l là quyền công tố, thực hành quyền
công tố, mối quan hệ giữa công tố và điều tra theo những chủ trương của
Đảng và pháp luật của Việt Nam, có nghiên cứu một số nội dung theo pháp
luật các quốc gia khác; thực trạng mối quan hệ giữa công tố và điều tra theo
số liệu thống kê trong 5 năm (từ năm 2006 đến 2010).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của
Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp.

10
Quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, đánh giá, khảo sát thực
tiễn… để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Là cơ sở cho việc nghiên cứu, tìm hiểu một số nội dung về công tố và
điều tra.
Là cơ sở cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về mối quan hệ giữa công tố
và điều tra.
Là cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện một số quy định pháp luật
liên quan đến chủ trương tăng cường gắn công tố với hoạt động điều tra để
đảm bảo hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự.
Là cơ sở để những người làm thực tiễn nghiên cứu, vận dụng vào quá
trình tố tụng, tăng cường mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong trong việc
giải quyết đúng đắn các vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về công tố và hoạt động điều tra.

Chương 2: Thực trạng về mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều
tra tại Việt Nam (số liệu 5 năm: từ năm 2006 đến năm 2010).
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra.

11
Chương 1

HOẠT ĐỘNG

1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐIỀU TRA VÀ CÔNG TỐ
1.1.1 đ u tra
Trong các văn bản luật hiện nay của Việt Nam chưa có khái niệm
pháp lý về "điều tra", đồng thời cũng chưa được giải thích chính thức bởi các
cơ quan có thẩm quyền. Trong BLTTHS cũng như các văn bản hướng dẫn thi
hành chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về điều tra.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam cũng tồn tại các quan điểm khác
nhau về điều tra, theo Từ điển Luật học: "Điều tra là công tác trong tố tụng
hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ" [30].
Theo cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay, điều tra là hoạt động
của CQĐT trong điều tra vụ án hình sự, là tổng hợp tất cả các hành vi thực
hiện trong giai đoạn điều tra do CQĐT thực hiện.
"Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng
hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định truy
tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án" [3].
hoặc: "Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong
giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình

sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội" [5].
Hoạt động điều tra là hoạt động tố tụng nhằm phát hiện, thu thập, củng
cố, ghi nhận, thu giữ những thông tin của vụ án nhằm sử dụng làm chứng cứ
chứng minh các tình tiết của vụ án.

12
QĐT
VKS .
L tiếp tục
VKS
.
Hoạt động điều tra chủ yếu là do CQĐT tiến hành, VKS chỉ tiến hành
điều tra trong một số trường hợp nhất định. CQĐT là một mắt xích quan trọng
thực hiện nhiệm vụ chung của quá trình tố tụng hình sự. Đó là phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. CQĐT là cơ quan tiến hành tố
tụng, nằm trong hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng hình sự do BLTTHS quy
định. CQĐT thực hiện giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình sự là giai đoạn
điều tra. à giai đoạn đầu nên những sai lầm, thiếu sót của CQĐT trong quá
trình điều tra thường gây khó khăn cho giai đoạn truy tố, xét xử. Không hiếm
trường hợp những sai lầm thiếu sót của giai đoạn truy tố, xét xử bắt nguồn từ
giai đoạn điều tra. Chính vì vậy, hoạt động điều tra tiến hành khách quan, toàn
diện, đúng pháp luật .
Nhiệm vụ của hoạt động điều tra do CQĐT tiến hành là điều tra tất cả
các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Khi CQĐT trực tiếp phát hiện tội
phạm, cũng như sau khi tiếp nhận tin báo, tố giác của nhân dân, cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội về tội phạm xảy ra thì CQĐT phải có nhiệm vụ khởi tố
vụ án và tiến hành điều tra trong thời hạn theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự nếu có đủ cơ sở và căn cứ. Để điều tra khám phá tội phạm, CQĐT cần

phải áp dụng mọi biện pháp của BLTTHS quy định. Thực tiễn cho thấy,
không có BLTTHS nào có thể liệt kê tất cả các biện pháp và những phương
tiện có thể áp dụng trong quá trình điều tra để khám phá thủ phạm mà chỉ quy

13
định phạm vi chung nhất những biện pháp và phương tiện đó. Do đó, quá
trình điều tra, CQĐT ngoài áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật
còn phải áp dụng các biện pháp khác phù hợp với pháp luật.
Đặc biệt lưu ý, pháp luật yêu cầu CQĐT phải áp dụng mọi biện pháp
do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi tội
phạm. Điều này có nghĩa là, trong quá trình điều tra, nếu có cơ sở, CQĐT cần
phải áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội. Thực tiễn cho thấy, không hiếm trường hợp
VKS trả lại hồ sơ vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung do CQĐT chưa áp dụng hết
các biện pháp theo quy định của pháp luật để xác định tội phạm và người thực
hiện hành vi phạm tội. Như vậy, thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ đảm bảo tính
đầy đủ, tính toàn diện của hoạt động điều tra, giúp cho CQĐT tranh được
những sai lầm, thiếu sót. Đồng thời, trong quá trình điều tra, CQĐT cũng cần
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm.
CQĐT không chỉ tiến hành điều tra tất cả những tội phạm xảy ra mà
còn phải xác định được tội phạm người thực hiện hành vi phạm tội là nhiệm
vụ của giai đoạn điều tra. Như vậy, xác định tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội vừa là nhiệm vụ của CQĐT vừa là tiêu chí để đánh giá hiệu
quả của hoạt động điều tra. Bởi vì, chỉ sau khi xác định được tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội. CQĐT mới lập hồ sơ để đề nghị truy tố
người thực hiện hành vi phạm tội. Xác định được tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội cũng có nghĩa là đã khám phá tội phạm, chứng minh làm rõ
sự thật của vụ án đã xảy ra.
Sau khi điều tra xác định được tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội đáng phải truy cứu trách nhiệm

hình sự thì CQĐT phải kịp thời lập hồ sơ đề nghị truy tố. CQĐT cần xác định
chính xác những vấn đề cần chứng minh và thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ
chứng minh từng vấn đề đó, cần đưa hết tất cả những tài liệu, chứng cứ đã thu

14
thập được vào hồ sơ vụ án, nghiêm cấm những hành vi tẩy xóa, bớt xén, làm
mất mát hư hỏng hay đánh tráo tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án ảnh hưởng
đến tính khách quan, toàn diện của hoạt động điều tra.
Ngoài ra, CQĐT còn có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục
ngăn ngừa. Đây chính là nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm của CQĐT. Nhiệm
vụ này có thể xác định là hệ quả của việc thực hiện điều tra khám phá các tội
phạm xảy ra. Điều này có thể được giải thích là trong quá trình điều tra. CQĐT
phải chứng minh làm rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội và dựa trên
cơ sở đó với tư cách là một cơ quan tiến hành tố tụng tất yếu phải yêu cầu các
cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Như vậy,
nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm mà CQĐT phải thực hiện chỉ ở trong phạm vi
hẹp, chủ yếu là thông qua hoạt động điều tra làm rõ nguyên nhân và điều kiện
phạm tội dựa trên cơ sở đó yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp
khắc phục và ngăn ngừa. Hay nói cách khác, nhiệm vụ phòng ngừa của CQĐT
chính là phòng ngừa tội phạm dựa trên cơ sở tài liệu trong hồ sơ vụ án cụ thể.
Hoạt động điều tra :
Thứ nhất, hoạt động điều tra được tiến hành công khai theo các trình
tự, tủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Khi tiến hành các biện pháp
điều tra phải có mặt của những người mà luật định và họ phải ký vào biên bản
hoạt động điều tra (như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời
khai người làm chứng, người bị hại…). Tính công khai của hoạt động điều tra
thể hiện ở biện pháp và các thủ tục tố tụng được tiến hành, còn n i dung, kết
quả điều tra thì phải bí mật. Việc giữ bí mật điều tra là yêu cầu nghiệp vụ, một
nguyên tắc được luật định có ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại

của cuộc điều tra, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Tính công khai của hoạt động điều tra là tiêu chí cơ bản nhất để phân
biệt với hoạt động trinh sát được tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí mật

15
cả về nội dung, phương pháp để nắm bắt tin tức về hoạt động của các ổ nhóm
tội phạm, theo dõi và truy bắt các đối tượng phạm tội lẩn trốn, nhằm phòng
ngừa tội phạm.
Thứ hai, tùy theo đặc điểm của vụ án hình sự mà CQĐT áp dụng các
biện pháp điều tra cho phù hợp, nhưng các vụ án điều phải trải qua những thủ
tục chung như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lập hồ sơ vụ án hình sự, đề nghị
truy tố người phạm tội hoặc đình chỉ điều tra theo quy định pháp luật.
Thứ ba, phạm vi điều tra các tình tiết thực tế của vụ án rộng hơn phạm
vi những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự do luật định. Để xác
định được một tình tiết quy định tại Điều 63 của BLTTHS thì CQĐT phải làm
rõ được những tài liệu, chứng cứ liên quan. Chẳng hạn, để xác định ai là
người thực hiện hành vi phạm tội, trước tiên phải chứng minh người đó có
mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ án (thông qua các dấu vết, vật
chứng, lời khai người bị hại, lời khai người làm chứng…).
Thứ tư, hoạt động điều tra vụ án hình sự có thể phải áp dụng các biện
pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam và áp dụng ác biện pháp cưỡng
chế như khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể; do đó
thường tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
Thứ năm, trong tố tụng hình sự nước ta, hoạt động điều tra của CQĐT
phải chịu sự chế ước và kiểm sát chặt chẽ của cơ quan VKS. Điều này được
thể hiện thông qua việc luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn cho VKS để
bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp (xét phê
chuẩn các quyết định tố tụng của CQĐT, yêu cầu điều tra; quyết định áp
dụng, thay đổi các biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ các quyết định không có căn
cứ và trái pháp luật của CQĐT…). Điều này khác với nhiều nước theo truyền

thống tranh tụng, cơ quan công tố ít can thiệp vào quá trình điều tra, chủ yếu
chỉ tư vấn pháp luật cho CQĐT về hướng điều tra, chứng cứ và tội danh, áp
dụng pháp luật.

16
Có thể nói, hoạt động điều tra có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt
động công tố của VKS. Kết quả xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, tiến
hành các hoạt động điều tra ban đầu là cơ sở để VKS thực hành quyền công tố,
quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định hạn chế quyền công dân
đối với người phạm tội, thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng. Tác động
của kết quả điều tra đến hoạt động công tố không chỉ giới hạn ở số lượng,
chất lượng chứng cứ mà còn là nhận định, đánh giá tội phạm. Những sai lầm,
thiếu sót trong hoạt động điều tra tất yếu sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc giải
quyết vụ án hình sự như truy tố, xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm.
1. công
Nghiên cứu lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy, về cơ bản
khái niệm quyền công tố được biết đến ngay từ thời đại xa xưa của xã hội loài
người, được phát triển và dần hoàn thiện cùng với sự phát triển và hoàn thiện
bộ máy và các chức năng của Nhà nước. Quyền công tố xuất hiện do nhu cầu
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và nhu cầu duy trì an ninh chung của xã
hội, chống lại những hành vi xâm phạm lợi ích chung, lợi ích công cộng.
" "
1980 k của Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND).
iệ
" " "qu "
.
Quan điểm
công


17
, ngay cả khi VKS kiến nghị
các cơ quan nhà nước khắc phục vi phạm pháp luật trên lĩnh vực hành chính -
kinh tế - xã hội cũng là thực hành quyền công tố , "
VKS
" [15]
K
hi VKS
3
; công t
.
Hiến pháp và các luật. Theo quy định của pháp luật nước ta trước khi Hiến
pháp năm 1992 được sửa đổi thì VKS
theo
.
Quan điểm thứ hai cho rằng, "quyền công tố là quyền của Nhà nước
giao cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại

18
phiên tòa (thực hiện quyền công tố)" [24]
VKS
.
Quan điểm này đã quá thu hẹp nội dung, phạm vi quyền công tố, không phản
ánh được đầy đủ bản chất của quyền này. Hoạt động truy tố và buộc tội của
VKS tại phiên tòa chỉ là một số quyền hạn của VKS
VKS
VKS
.
Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố
tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đó là

hoạt động tố tụng của Điều tra viên (ĐTV), KSV, th
khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như
các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội.
ích chung
của toàn xã hội, do đó kẻ phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị
trừng trị bằng các chế tài hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng chế tài hình sự đối với người phạm tội được thực hiện bởi các cơ quan
nhà nước có thẩm CQĐT, VKS án
định, trong từng giai đoạn nh . Theo quan điểm nêu trên thì không chỉ

19
CQĐT và Cơ quan công tố mà cả Cơ quan xét xử và Cơ quan thi hành án đều
là chủ thể thực hành quyền công tố.
Quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố
. Quyền công tố
luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh nhà nước, chỉ được thực hiện
trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Chủ thể tham gia vào hoạt động thực hành
quyền công tố chỉ bao gồm CQĐT và Viện công tố. Riêng quyền truy tố kẻ
phạm tội ra Tòa và th N
.
xâm hại. Trên cơ sở quan điểm này, hệ thống tư pháp hình sự của Cộng hòa
Pháp được tổ chức theo hình thức tố tụng thẩm cứu, trong đó Viện công tố là
cơ quan trực tiếp chỉ đạo hoạt động điều tra, có quyền yêu cầu cảnh sát thực
hiện các hành vi tố tụng để thu thập các chứng cứ buộc tội.
Quan điểm thứ năm cho rằng, "công tố quyền là quyền được hành xử
nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã hội, với mục đích là Tòa án tuyên
một hình phạt đối với người phạm pháp" [13]. Đại diện cho quan điểm này là
các luật gia ở miền Nam nước ta trước năm 1975. Theo họ:
Hành vi đưa các phạm nhân ra trước Tòa để xét xử là sự
truy tố. Cái quyền truy tố ấy là công tố quyền, vì là quyền của cộng

đồng xã hội trừng trị kẻ gian manh qua các đại diện của xã hội. Và
các Thẩm phán được giao phó nhiệm vụ xử hành công tố quyền là
những Thẩm phán công tố [27].
. Tố quyền này được gọi
là công tố quyền, có đối tượng là sự áp dụng các biện pháp hình sự (hình phạt

20
và các chế tài khác). Theo các luật gia miền Nam, về bản chất, quyền công tố
thuộc về xã hội vì chỉ có xã hội mới có quyền quyền trừng phạt. Do đó, phạm
vi quyền công tố chỉ giới hạn trong tố tụng hình sự và trước Tòa án.
Trên đây là một số quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố.
Mỗi quan điểm đều có những cách lý giải khác nhau, có hạt nhân hợp lý
riêng. Tuy nhiên, xuất phát từ căn cứ khoa học, các quy định của pháp luật,
thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và
hoạt động công tố ở các nước khác cho thấy các quan điểm trên đã bộc lộ một
số bất cập như hoặc là đánh đồng quyền công tố với chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKS, dẫn đ
,
coi quyền công tố là quyền của VKS truy tố người phạm tội
coi quyền công tố là
một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền
công tố là một hoạt động độc lập của VKS nhân danh quyền lực công.
Có thể thấy rằng, điểm hạn chế chung nhất của hầu hết các công trình
nghiên cứu về quyền công tố là không phân định rõ được khái niệm, bản chất,
nội dung, phạm vi của quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Đa số các tác giả đều cho rằng
hai chức năng của VKS (chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật) như pháp luật trước đây quy định vừa có tính độc lập tương
đối, vừa liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có

những nội dung hòa nhập vào nhau, đan xen lẫn nhau không thể tách rời, tạo
nên sự thống nhất trong chức năng của VKS.
Chúng tôi cho rằng, quyền công tố chỉ xuất hiện trong hoạt động tố
tụng hình sự, nó gắn liền không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước,

21
nhân danh công quyền chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng
nhất là tội phạm. Trong hoạt động tố tụng hình sự, chúng ta thấy luôn luôn tồn
tại ba chức năng tố tụng cơ bản là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa
(gỡ tội), chức năng xét xử. Buộc tội, với tư cách là một chức năng tố tụng
luôn nhằm chống lại một cá nhân cụ thể và thực chất đó chính là hoạt động
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Người buộc tội có trách
nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc cụ thể đối với những cá nhân cụ thể và
có nhiệm vụ phải đưa ra những bằng chứng cụ thể cho sự cáo buộc đó. Trong
chức năng buộc tội, hình thức buộc tội nhân danh nhà nước (nhân danh quyền
lực công) giữ vai trò là động lực của hoạt động tố tụng. Nó được coi là trục
chính, thu hút hoạt động của tất cả những ai tham gia tố tụng.
Một điểm lưu ý là trong tài liệu của
(Kiểm sát viên), các gọi họ là "người
buộc tội nhân danh nhà nước". Và thuật ngữ "buộc tội nhân danh nhà nước"
được dịch ngắn gọn sang tiếng Việt, theo đúng nghĩa của nó, là "Công tố".
Về thực tiễn, luật tố tụng hình sự chia hoạt động tố tụng ra thành các
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hoạt động điều tra đúng
pháp luật là điều kiện tiên quyết và là tiền đề đảm bảo pháp chế để cơ quan
công tố tiến hành tốt hai hoạt động công tố tiếp theo là truy tố bị can và buộc
tội bị cáo tại phiên tòa xét xử của Tòa án. Để đảm bảo việc truy tố và buộc tội
đúng pháp luật, cơ quan Công tố phải đảm bảo cho hoạt động điều tra đúng
pháp luật, ngoài việc kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra của CQĐT (kiểm
sát hoạt động điều tra), cơ quan Công tố phải có những nhiệm vụ, quyền hạn
có tính chất quyết định đến việc giải quyết vụ án hình sự ngay từ khi phát hiện

tội phạm, ngay từ giai đoạn điều tra. Những nhiệm vụ, quyền hạn có tính chất
quyết định này là quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Đây cũng là luận
điểm được thừa nhận chủ yếu hiện nay và được thể hiện trong luật thực định
của Việt Nam hiện hành.

22
Từ những nội dung được trình bày trên, chúng tôi cho rằng: Quyền
công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội do một cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện (ở nước ta là VKS)
để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội; cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó truy tố người
phạm tội trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa.
, có thể thấy
:
.
.
.
VKS
.
công
VKS
VKS
.
1992, , BLTTHS), VKS
VKS

23
CQĐT
. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn

điều tra, theo quy định tại Điều 113 BLTTHS năm 2003, VKS có nhiệm vụ và
quyền hạn kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và lập hồ sơ
vụ án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố
tụng, áp dụng các biện pháp mà BLTTHS quy định để loại trừ việc vi phạm
pháp luật của các cơ quan hoặc cá nhân này. VKS có quyền yêu cầu CQĐT
khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu CQĐT cung
cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của ĐTV, yêu cầu Thủ trưởng CQĐT
xử lý nghiêm minh ĐTV đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra.
Về chủ trương "Gắn công tố với hoạt động điều tra": Nội dung gắn
công tố với hoạt động điều tra có thể được hiểu theo nghĩa gắn Cơ quan thực
hiện chức năng công tố với CQĐT và gắn việc thực hiện chức năng công tố
với các hoạt động điều tra. Tuy nhiên, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X và phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ máy VKS và CQĐT
hiện nay cũng như xu hướng trong thời gian tới thì không khả thi nếu tổ
chức CQĐT thuộc VKS, nằm trong hệ thống cơ quan VKS để VKS trực tiếp
chỉ đạo hoạt động điều tra. Do đó, gắn công tố với hoạt động điều tra theo chủ
trương của Đảng được hiểu là gắn việc thực hiện quyền công tố của VKS với
các hoạt động điều tra của CQĐT.
1.2. LƢỢC SỬ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG TỐ VÀ ĐIỀU TRA Ở VIỆT
NAM TRƢỚC KHI CÓ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 1945 đến
trƣớc năm 1960
Trước diễn biến phức tạp của tình hình cách mạng và đất nước sau
Cách mạng tháng , cơ quan thực hiện quyền công tố nhà nước được tổ

24
chức rất đa dạng, linh hoạt phục vụ nhiệm vụ cách mạng. Tại các phiên tòa
xét xử của Tòa án Quân sự, Tòa án binh hay Tòa án đặc biệt đều có chủ thể
thực hiện quyền công tố. Tuy nhiên, chỉ có trong Tòa án tư pháp mới có Viện
Công tố với nghĩa là một cơ quan có hệ thống, được tổ chức chặt chẽ tương

ứng với từng cấp Tòa án (trừ Tòa sơ cấp). Sự phát triển của ngành Công tố từ
năm 1945 đến trước năm 1958 (trước khi thành lập Viện Công tố độc lập) chủ
yếu gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của ngành Tòa án. Các
Thẩm phán của Công tố Viện (Thẩm phán buộc tội) do Chưởng lý đứng đầu.
Các Thẩm phán buộc tội hợp thành một đoàn thể độc lập đối với các Thẩm
phán xử án và duy nhất đặt dưới quyền quản lý của Chưởng lý. Chưởng lý giữ
toàn quyền công tố tức là các thẩm phán buộc tội thực hiện sự ủy quyền của
Chưởng lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền ra lệnh cho Chưởng lý nhưng
không được phép hành động thay Chưởng lý (các điều 49,51 Sắc lệnh 13).
Các Thẩm phán buộc tội tại Tòa án đệ nhị cấp được gọi là Biện lý,
Biện lý có các quyền: Nhận đơn khởi tố của tư nhân, biên bản về những việc
vi phạm do Ban tư pháp cảnh sát lập; điều khiển hoạt động và giám sát hoạt
động của Ban tư pháp cảnh sát trong quản hạt của mình, đình cứu, tạm đình
cứu hoặc miễn tố theo thẩm quyền; đưa vụ việc ra phiên tòa để xét xử hoặc
đưa vụ việc sang phòng dự thẩm để thẩm cứu (điều tra) (Điều 21 Sắc lệnh
51/SL); thực hành quyền công tố, truy tố bị can ra trước Tòa và buộc tội bị
can tại phiên tòa (đưa ra tất cả các bằng chứng, triệu tập nhân chứng và đương
sự đôi bên ra Tòa - Điều 23 Sắc lệnh 51/SL); Kháng cáo mệnh lệnh của Dự
thẩm (Điều 24 Sắc lệnh 51/SL); Tổ chức thi hành cấp tốc những mệnh lệnh
của Chánh án tại phiên tòa. Thi hành những bản án đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án (Điều 29 Sắc lệnh 51/SL).
Như vậy, trong thời kỳ này mặc dù cơ quan Công tố được tổ chức
trong hệ thống Tòa án, nhưng hoạt động của cơ quan Công tố hoàn toàn độc
lập với hoạt động xử án của Tòa án. Việc giải quyết truy tố hay không truy tố
cũng như việc quản lý các Thẩm phán buộc tội hoàn toàn thuộc thẩm quyền

25
của người đứng đầu Công tố viện (Chưởng lý). Mối quan hệ độc lập này càng
được khẳng định rõ tại Điều 17 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17 tháng 4 năm 1946:
"Ông Chánh án có quyền điều khiển và kiểm soát tất cả nhân viên khác trong

Tòa án, trừ các Thẩm phán buộc tội".
Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 256-TTg
quy định về tổ chức và nhiệm vụ của Viện Công tố. Theo đó, Viện Công tố
được tổ chức thành một hệ thống cơ quan độc lập, tách khỏi tổ chức của Tòa
án và sự quản lý của Bộ Tư pháp, đặt Viện Công tố Trung ương trực thuộc
Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang một Bộ. Viện Công tố
được tổ chức gồm Viện Công tố Trung ương, Viện Công tố địa phương, Viện
Công tố quân sự các cấp.
Viện Công tố có nhiệm vụ: Giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp
luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự những kẻ phạm pháp để bảo
vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công,
bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm công cuộc kiến thiết và cải tạo
xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi. Để thực hiện nhiệm vụ chung này, Viện
Công tố có những nhiệm vụ cụ thể sau: Điều tra và truy tố trước Tòa án
những kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc
xét xử của các Tòa án; giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc thi hành
các bản án và trong hoạt động của cơ quan giam giữ và cải tạo. Trong quá
trình thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, Viện Công tố có trách nhiệm áp dụng
các biện pháp thích đáng theo pháp luật để xử lý mọi hành vi vi phạm pháp
luật, mọi phần tử phạm pháp. Như vậy, ngoài nhiệm vụ điều tra, truy tố trước
Tòa án, Viện Công tố còn được giao một nhiệm vụ quan trong là giám sát
việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực tư pháp (giám sát hoạt động xét xử
của Tòa án; hoạt động thi hành các bản án của Tòa án; hoạt động giam, giữ,
cải tạo của các cơ quan giam, giữ, cải tạo).
Theo Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946 về việc tổ chức Tư pháp
Công an do Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành và các

×