Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

những nguyên nhân dẫn đến quyết định gia nhập asean của việt nam đầu thập niên 90

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.49 KB, 7 trang )

TIỂU LUẬN
Chủ đề: những nguyên nhân dẫn đến quyết định gia nhập ASEAN của Việt Nam đầu thập niên 90
Mục lục
Lời Mở Đầu
I. Quan hệ Việt Nam-ASEAN trước khi gia nhập
II. Những nguyên nhân gia nhập ASEAN của Việt Nam đầu thập kỉ 90
1.nguyên nhân khách quan
1.1 Bối cảnh quốc tế
1.2 Bối cảnh khu vực
2.Nguyên nhân chủ quan
2.1 tình hình trong nước
2.2 Lợi ích của Việt Nam
III. Thành tựu của Việt Nam sau khi tham gia ASEAN
Kết Luận
Tài liệu tham khảo
LỜi MỞ ĐẦU
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được thành lập năm 1967-ASEAN(association of Southeast
Asian Nations) từ 5 thành viên sang lập đầu (Thái Lan, Indonesia, Malaysia, singapo, Philipin) đến nay là
11 thành viên (Việt Nam,lào,campuchia,myama,brunay,Đông timo).Sau 35 năm thành lập và phát
triển,đến nay Asean đã trở thành khu vực có vị thế chính trị, tiềm năng kinh tế và nền văn hóa đậm đà
bản sắc,có quan hệ với nhiều trung tâm kinh tế lớn và khu vực khác trên thế giới.Việc Việt Nam gia nhập
ASEAN là một lựa chọn đúng đắn và phù hợp với xu thế thời đại,đánh dấu bước đi đúng đắn về đường
lối đội ngoại,đa dạng hóa, đa phương hóa. Thực tế chứng minh rằng việc Việt Nam gia nhập ASEAN đem
lại lợi ích không chỉ đối với riêng Việt Nam mà cả ASEAN. Vậy nguyên nhân tại sao Việt Nam lại đi đến
quyết định ra nhập ASEAN ? Đó là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động vào .
Do điều kiện tài liệu ít ỏi và thời gian chuẩn bị ngắn, ở đây em xin phép chỉ đưa ra “Những
nguyên nhân dẫn đến quyết định gia nhập ASEAN của Việt Nam đầu thập niên 90” dưới hình thức tài
liệu tiểu luận nghiên cứu ngắn. Mong thầy cô tận tình giúp đỡ sửa đổi.
Em xin chân thành cảm ơn.
I. Quan hệ Việt Nam –ASEAN trước khi gia nhập
Những năm 60 khi cuộc chiến tranh của thực dân Mỹ đang diễn ra ở cao trào và có sự tham gia


(trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước ASEAN. Việt Nam –ASEAN đã dần được thiết lập và
phát triển cùng với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước 1975. Đặc biệt
thong qua các cuộc viếng thăm các nước ASEAN của thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng 1978
mối quan hệ càng phát triển. Các bên bàn đến các vấn đề hợp tác kinh tế và an ninh chịnh trị
như khả năng kí kết hiệp ước không xâm lược lẫn nhau. Tuy nhiên sự kiện tiếp theo liên quan
đến Campuchia đã làm quan hệ hai bên trở nên xấu đi,thậm chí đối đầu vào những năm 80.
Cùng với những cố gắng trong việc tìm giải pháp hòa bình cho vấn đề Campuchia,quan hệ Việt
Nam-ASEAN được cải thiện trở lại và việc Việt Nam tham gia và tổ chức hợp tác khu vực của các
quốc gia Đông Nam Á này đã được đề cập đến năm 1989.Ba năm sau đó Việt Nam trở thành
quan sát viên của ASEAN (7/1992) và 3 năm tiếp đó trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
II. Những nguyên nhân gia nhập ASEAN của Việt Nam đầu thập kỉ 90.
1. Nguyên nhân khách quan
1.1 Bối cảnh quốc tế
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu,hệ thống XHCN tạm thời suy thoái.Các
nước TBCN tìm mọi cách gây sức ép chính trị,kinh tế,quân sự,dung diễn biến hòa
bình,áp đặt các giá trị dân chủ,nhân quyền nhằm gây ảnh hưởng đối với các nước XHCN
còn lại. Các nước đang phát triển có xu hướng đoàn kết lại chống sự áp đặt của các nước
lớn.
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và cách mạng thông tin phát triển mạnh gây
tác động lớn đến chính trị,kinh tế,xã hội các nước.Các quốc gia dần dần có xu hướng ảnh
hưởng và phụ thuộc lẫn nhau,ranh giới chủ quyền quốc gia suy giảm,xuất hiện ngày càng
nhiều các vấn đề toàn cầu.
Các cuộc chiến tranh lớn giữa các nước lớn và khu vực khó xảy ra nhưng chiến
tranh nhỏ đan xen: xung đột khu vực, xung đột tôn giáo và sắc tộc, chiến tranh thương
mại, chiến tranh thông tin…Nhưng xu thế hòa bình ổn định tương đối và hợp tác để
phát triển vẫn là xu thế chính.
Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế thế giới tiếp tục gia tăng. Thị trường
kinh tế thế giới trở thành một khối thống nhất và liên minh kinh tế, hội nhập kinh tế trở
thành xu thế tất yếu. Một loại tổ chức khu vực ra đời như khu vực tự do thương mại
ASEAN (AFTA) khu vực tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA)…

1.2 Bối cảnh khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động và có tác động
cao nhất của thế giới, là khu vực tập trung nhiều lợi ích của các nước lớn mà trong đó có
các nước Đông Nam Á.
Sau hiệp định Pari về Campuchia 1991 và đến năm 1993 Mỹ rút quân khỏi Đông
Nam Á, lần đầu tiên trong lịch sử Đông Nam Á không còn căn cứ quân sự và quân đội
nước ngoài, không còn đối đầu.
Giai đoạn 1992 -1995, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu kéo theo sự sụp đổ của
trật tự hai cực trong quan hệ quốc tế,dưa đến những thay đổi trong cán cân lực lượng
trên thế giới và khu vực. Việc giảm sự có mặt về quân sự của Hoa Kỳ và Nga đã tạo ra
những chỗ trống quyền lực ở khu vực. Một vài cường quốc trong khu vực cố gắng đẩy
mạnh vai trò chính trị , kinh tế, quân sự đã làm tăng mối lo ngại cho các nước ASEAN và
các nước Đông Nam Á khác. Thêm vào đó, sự rút lui của Hoa Kỳ đã làm cho chỗ dựa
truyền thống về an ninh của các nước ASEAN,rong khi vấn đề Campuchia chưa được giải
quyết, các vấn đề xung đột lại nảy sinh…Đó là những thách thức rất lớn đối với ASEAN
buộc họ phải tìm một cơ chế bảo đảm an ninh,gìn giữ nền hòa bình mỏng manh mới
giành được khu vực. Vì vậy vấn đề phát triển kinh tế là thách thức lớn nhất của ASEAN
cho vấn đề đấu tranh với các nước lớn chống bảo hộ mậu dịch, hai là tăng cường sức
mạnh khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác trong khu vực.

2. Nguyên nhân chủ quan
2.1 Tình hình trong nước
1986-1996 dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực kinh tế nhưng
Việt Nam vẫn là nền kinh tế thấp, cơ sở hạ tầng và dịch vụ ở mức trung bình của các
nước đang phát triển. Trong các doanh nghiệp trang thiết bị công nghệ phần lớn lạc
hậu , năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao,chất lượng sản phẩm không đủ sức
cạnh tranh ngay cả thị trường trong nước.Trình độ phát triển của nước ta so với các
nước trong khu vực bị thu hẹp.” tốc độ tăng GDP và GDP theo đầu người năm 1991 là
1,44 lần và năm 1997 là 1,60 lần “ [2, trang 84]
Việt Nam là một nước theo con đường XHCN. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và

Đông Âu, Việt Nam ít nhiều gặp khó khăn. Do trước kia “Liên Xô bù 25%-30% thâm hụt
ngân sách” nay Việt Nam mất viện trợ “có giá trị từ 1 tỷ USD/năm giảm xuống 0 năm
1999”[1].
Thêm nữa thời kỳ này Mỹ thi hành chính sách cấm vận với Việt Nam đã ngăn trở
các khoản viện trợ và đầu tư của tổ chức đa phương IMF, WB. Ngoài ra các lực lượng thù
địch đẩy mạnh chính sách diễn biến hòa bình.Tình trạng này buộc Việt Nam phải quan
hệ kinh tế với các nước trong khu vực thì ta vẫn đang trong thời kì khó khăn.
Chính vì vậy việc nước ta cần làm để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu là “ phát triển
quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á-Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông
Nam Á hòa bình,hữu nghị, hợp tác”. [6,trang 90]
2.2 Lợi ích của Việt Nam khi gia nhập
Về kinh tế,hội nhập ASEAN giúp Việt Nam có điều kiện tăng cường hợp tác kinh
tế khu vực, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường, hội nhập với thế giới.
ASEAN là thị trường lớn với dân số hơn 500 triệu người, nhịp độ phát triển nhanh (GDP
>300 tỷ) [1,trang 50]. Thêm vào đó, Việt Nam có điều kiện tranh thủ nguồn lực từ bên
ngoài và phát huy nguồn lực trong nước. Hơn nữa, ASEAN là tổ chức quan hệ rộng rãi và
chặt chẽ với các cường quốc và tổ chức kinh tế như Mỹ, Nhật Bản , Canada, EU…nên khi
gia nhập quan hệ Việt Nam với các nước trên sẽ làm mở rộng trao đổi hàng hóa và thu
hút vốn đầu tư.Mặt khác, Việt Nam và các nước trong khối có điều kiện tương đồng về
tài nguyên thiên nhiên, nông sản nhiệt đới…nên gia nhập ASEAN, Việt Nam có điệu kiện
phát huy lợi thế so sánh,khắc phục hạn chế,tăng cường cạnh tranh và hợp tác của nước
ta với các nước và khu vực trên thế giới.
Về chính trị, xã hội, đó là việc tăng cường hiểu biết,sự tin tưởng lẫn nhau giữa
các thành viên ,củng cố hòa bình,ổn định và hạn chế những nhân tố dẫn tới sự bất hòa,
mất ổn định trong khu vực. Đông Nam Á là nơi có nền văn hóa đậm đà bản sắc, mang
những nét tương đồng, gần gũi với Việt Nam. Chính vì vậy việc ra nhập ASEAN là điều
kiện tiếp thu tinh hoa văn hóa của trong nước làm giàu thêm văn hóa dân tộc. Hội nhập
để phát triển nước Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
III. Thành tựu của Việt Nam sau khi gia nhập ASEAN
Hợp tác kinh tế Việt Nam –ASEAN bước đầu đạt được những kết quả nhất định. “Quan

hệ kinh tế thương mại Việt Nam-ASEAN tăng bình quân 26,8%/năm [1,trang 49]. Quan hệ
mậu dịch hai bên phát triển, tạo ra những thị trường buôn bán sản phẩm mới. Trên cơ sở
hợp tác 2 bên cùng có lợi, đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN ở Việt Nam có điều kiện
thuận lợi, chính sacshd dầu tư thông thoáng , thị trường mới mở cửa chi phí lao động thấp…
Trước chính sách “mở cửa “ và hướng vào xuất khẩu mạnh của Việt Nam, các nước ASEAN
đã trở thành bạn hàng lớn của Việt Nam. “Về xuất khẩu trong vòng 13 năm qua (1980-1993)
giá trị xuất khẩu sang thị trường ASEAN tăng 51 lần từ 19 triệu lên 725 triệu USD. Rõ rang giá
trị và tốc độ xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường ASEAN tăng rất nhanh” [4,trang 105].
Thông qua AFTA, Việt Nam có điệu kiện mở rộng thị trường với các nước TBCN.
Về chính trị an ninh, Việt Nam ngày càng tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực và
thế giới như như ASEM, APEC, ARF… khi mà tình trạng khủng bố và các vấn đề xung đột khu
vực trên thế giới đang càng ngày gia tăng thi Việt Nam đang trở thành điểm đến an toàn và
ổn định cho tất cả các nước tạo điều kiện cho nước ta phát triển về mọi mặt.
KẾT LUẬN
Việt Nam gia nhập ASEAN tháng 7/1995 là một quyết định đúng đắn và kịp thời của
Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với xu thế hòa bình ổn định và hợp tác để phát triển, xu thế
khu vực hóa, toàn cầu hóa thế giới và đặc biệt là phù hợp với lợi ích quốc gia của ta. Lần đầu
tiên chúng ta được chứng kiến sự dung hòa với nhau của các xu thế vươn tới các hình thái
kinh tế, xã hội khác nhau từ những xuất phát điểm chênh lệch nhau về trình độ phát triển,
với sự lựa chọn chính trị khác nhau đang tồn tại và phát triển bền vững ổn định bên nhau.
Việt Nam đang thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các
quan hệ quốc tế khẳng định “ Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới , phấn đấu vì hòa bình ,độc lập và phát triển” [6,trang 147] Quan hệ VIệt Nam –
ASEAN đang ngày càng khởi sắc.
Tài Liệu Tham Khảo

1. Trần Quang Lân, Nguyễn Khắc Thân, tháng 6-1999. “ hội nhập kinh tế Việt Nam –
ASEAN”. NXB Thống kê Hà Nội.
2. TS Đinh Xuân Lý “ quá trình Việt Nam hội nhập Châu Á- Thái Bình Dương theo đường lối
của Đảng”. NXB Chính trị Quốc gia.

3. Ts Trần Quế, tháng 11-2003, “35 năm ASEAN hợp tác và phát triển”. NXB khoa học xã
hội.
4. Lược dịch Nguyễn Thị Quy, tháng 6-1994, “ kinh tế các nước trong khu vực, kinh nghiệm
và xu hướng phát triển”. NXB Viện khoa học xã hội.
5. Chính sách đối ngoại Việt Nam 1945-2000, Học Viện quan hệ quốc tế.
6. Đảng Cộng Sản Việt Nam, 1991, Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII. NXB Sự thật.

×