Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

chính sách hợp tác kinh tế giữa việt nam với asean giai đoạn 1995 - 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.2 KB, 15 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 30 năm ra đời, xây dựng và phát triển, Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á, viết tắt là ASEAN (The Association of South East Asian Nations) đã
ngày một lớn mạnh. Từ một ASEAN gồm 5 nước, đến nay ASEAN đã trở thành
một tổ chức gồm tất cả các nước trong khu vực chính thức tham gia vào
ASEAN tháng 7 năm 1995, nhưng trước đó đã có mối quan hệ với từng nước
thành viên ASEAN và là quan sát viên của ASEAN từ tháng 7/1992. Với sự chủ
động hội nhập khu vực, Việt Nam đã tận dụng và phát huy các lợi thế trong
quan hệ hợp tác ASEAN, góp phần hỗ trợ quan hệ song phương với từng nước
thành viên ASEAN. Đặc biệt, thông qua AFTA, Việt Nam sẽ có những điều
kiện thuận lợi tăng cường quan hệ, giao lưu văn hoá và nâng cao vị thế của Việt
Nam. Sau 5 năm tham gia ASEAN quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và từng nước
thành viên ASEAN đã được mở rộng và đem lại một số hiệu quả nhất định. Giá
trị thương mại, đầu tư, các hợp tác kinh tế khác giữa Việt Nam và ASEAN đã
củng cố cho tiến trình liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, nâng cao khả năng
cạnh tranh của kinh tế Việt Nam với các nước trong khu vực. Phân tích đánh giá
quan hệ kinh tế Việt Nam- ASEAN từ đầu thập kỷ 90, đặc biệt từ khi Việt Nam
trở thành thành viên chính thức của ASEAN (7/1995), thông qua các lĩnh vực
hợp tác kinh tế cụ thể, từ đó nêu lên một số triển vọng về quan hệ kinh tế giữa
hai bên . Bài tiểu luận không nhằm kể lại tiến trình Việt Nam gia nhập ASEAN
mà chủ yếu là nói về “chính sách hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với ASEAN
giai đoạn 1995_2000”.
2
Những nội dung chúng tôi trình bày trong bài viết của mình dưới đây chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót và rất cần sự đóng góp ý kiến, phê bình
các thầy, cô để hoàn chỉnh hơn nội dung cũng như đánh giá một cách đầy đủ
hơn về đề tài này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. Tiến trình Việt Nam gia nhập ASEAN:


1. Tổ chức ASEAN
ASEAN là tên viết tắt của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á (Association
of Southeast Asia Nations) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội
của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày
8 tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, Singapore, và Philippines, để tỏ rõ tình đoàn kết giữa các nước trong
cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn
tại những nước thành viên.
Đông Nam Á và ASEAN có tầm quan trọng chiến lược đối với Việt Nam và
là một bộ phận quan trọng trong chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa và
“láng giềng hữu nghị” của Nhà nước ta, vì nó liên quan trực tiếp đến môi trường
an ninh và phát triển của đất nước. Hơn nữa, hợp tác ASEAN không chỉ bó hẹp
trong phạm vi khu vực Đông Nam Á và 10 nước thành viên ASEAN, mà còn
liên quan nhiều đến quan hệ và chính sách của các đối tác quan trọng bên ngoài
2. Tiến trình Việt Nam gia nhập ASEAN:
Ngày 28-7-1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN.
Trong 15 năm qua, Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao vị thế
của ASEAN trên trường quốc tế. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của ASEAN, tổ chức này đã có những chuyển biến quan trọng về cả lượng
và chất, trở thành nhân tố thiết yếu cho hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở
Đông Nam Á, Đông Á Thái Bình Dương và thế giới. Việt Nam gia nhập
ASEAN cũng là kết quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa, chủ động tích cực hội nhập khu vực và thế giới mà
Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra. 15 năm qua, Việt Nam đã có những đóng góp
to lớn cho quá trình phát triển vào ASEAN như tổ chức thành công hội nghị cấp
3
cao ASEAN 6 năm 1998, đóng góp vào xây dựng Chương trình hành động Hà
Nội và các biện pháp cụ thể để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020; tham gia xây
dựng văn kiện Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN vào thời điểm này có rất nhiều lý do, một lý

do khái quát nhât là do thời cơ đã đến, các yếu tố nội tại và yếu tố bên trong đều
cho thấy VN tham gia ASEAN lúc này là bước đi đúng đắn và hợp lý. Thứ nhất
là do tình hình ASEAN, lúc này các xung đột tại khu vực đã được giải quyết,
vai trò của kinh tế được nhấn mạnh,sức mạnh kinh tế của các nước cũng gia
tăng, ASEAN cần có môi trường hòa bình và ổn định, cũng như một thị trường
rộng lớn. Vì thế lúc này ASEAN đưa ra một sáng kiến về diễn đàn khu vực để
lôi kéo các nước, trong bối cảnh đó xuất hiện khái niệm “ASEAN mở rộng”.
Những mong muốn của ASEAN về hòa bình ,ổn định, mở rộng đã phù hợp với
chủ chương, chính sách đối ngoại rộng mở của chúng ta là đa dạng hóa, đa
phương hóa, mối quan tâm hàng đầu trong hợp tác khu vực. Việc VN gia nhập
ASEAN chính là kết quả của đường lối đối ngoại đó. Việt Nam gia nhập
ASEAN là phù hợp với xu thế khu vực hóa đang diễn ra trên thế giới cũng như
ở khu vực, đáp ứng lợi ích của cả nước ta và ASEAN là cần có môi trường hòa
bình, ổn định và đẩy mạnh hợp tác vì lợi ích phát triển.
II. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn này:
3. Trước khi gia nhập
Từ ngày được thành lập-8/ 8/ 1967 đến năm 1975 , ASEAN và Việt Nam ở
trong tình trạng đối đầu căng thẳng. Chính sách của ta trong giai đoạn này là
hoàn toàn khép kín với ASEAN. Có thể thấy nguyên nhân là trong chiến tranh
xâm lược của Mỹ tại VN, hầu hết các nước ASEAN đã dính líu trực tiếp hay
hay gián tiếp vào cuộc chiến. và lúc đó chúng ta coi tất cả các nước tiếp tay cho
Mỹ ngụy là kẻ thù của nhân dân ta. Do vậy, chúng ta dễ dàng chấp nhận rằng
ASEAN là khối quân sự trá hình, và hết ức dè dặt thận trọng trong quan hệ.
Sau khi kí hiệp ước Bali (2/1976) quan hệ giữa các nước Đông Dương nói
chung và Việt Nam nói riêng với ASEAN bước đầu được cải thiện. lúc này
chúng ta đã có chính sách cởi mở hơn với các nước ASEAN do chiến tranh đã
kết thúc và nhận thấy cần có môi trương trên. Chúng ta đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với các nước như Indonesia , Philippin, Singapore, Thái Lan; ký một
số hiệp định hợp tác thương mại,…Nhưng đến cuối thập kỉ 70 và giữa thập kỉ
80 quan hệ đó lại trở lên căng thẳng, lấy cớ VN đưa quân vào Campuchia trước

việc nhóm pôn-pôt có hành động xâm lược ở biên giới Tây Nam và thi hành
4
chính sách diệt chủng đối với nhân dân Camphuchia, nhiều nước thực hiện
chính sách bao vây cô lập Việt Nam. Các hoạt động của ASEAN chịu ảnh
hưởng của “vấn đề Camphuchia” , điều này làm quan hệ Việt Nam- ASEAN trở
nên lạnh nhạt trì trệ. Giữa những năm 80 khi tình hình Campuchia dần hoà
dịu,quan hệ giữa các nước thành viên ASEAN có nhiều biến đổi sâu sắc, chuyển
từ đối đầu sang đối thoại.
Tuy nhiên, thập niên 90, với những biến đổi quan trọng trên thế giới, đặc biệt
với sự chấm dứt của chiến tranh lạnh, là bước ngoặt to lớn của hợp tác khu vực,
đòi hỏi các quốc gia Đông Nam Á phải có những cố gắng vượt bậc mới có thể
đưa hợp tác khu vực phát triển sang giai đoạn mới
1
. Hợp tác kinh tế được chú
trọng và nổi dần lên như một đương lối phát triển rất quan trọng- cần tập trung
phát triển kinh tê thay vì những quan tâm về chính trị như trước đây. VN cũng
tranh thủ những thời cơ đó để thực hiển đổi mới tư duy và chính sách của mình.
Nhận thấy không thể đóng cửa khép kín mà có thể phát triển được, nên VN bắt
đầu thực hiện chính sách “hướng ngoại”,”Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới”, có sự đổi mới trong tư duy đối ngoại cho phù
hợp với những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực, đó là
phải tập trung cho sự nghiệp giữ vững hòa bình và ra sức phát triển kinh tế.
Cụ thể, trong gia đoạn đó, Việt Nam chủ trương thực hiện chính sách đối
ngoại mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại cả về chính trị,
văn hoá, khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội, v.v với tất cả các nước, trong đó
đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng đã đề ra chủ trương phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với
các nước Đông Nam Á Nghị quyết Bộ chính trị khóa VI ( 5/1988) xác định
không đối lập hai nhóm nước, cần xây dựng chính sách toàn diện với Đông
Nam Á, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực

2
.“Môi trường quốc tế khu
vực thay đổi, vận động nội tại của Đông Nam Á trong đó có quan hệ Việt Nam-
ASEAN thay đổi. Tất cả những điều này đòi hỏi những phương pháp tiếp cận
hoàn toàn mới để xây dựng Đông Nam Á từng bị phân chia theo sự kình địch về
ý thức hệ thành Đông Nam Á của một cộng đồng đa dạng liên kết với nhau bởi
1 Trần Thị Thu Lương, Dấu ấn Việt Nam trong tiến trình phát triển ASEAN- những đóng góp và những bài học cho hội
nhập, TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, tập 10, sô 09 – 2007, tr. 15, ĐHQG-HCM
2 Ngoại giao VN 1945-2000, tr.348, NXB chính trị -quốc gia
5
những mối quan hệ an ninh và thịnh vượng chung vì sự tiến bộ và phát triển”
3
.
Những đổi mới có tính chất đột phá trong đường lối đối ngoại của Việt Nam đã
góp phần quan trọng cải thiện tình hình,nhờ đó tiến độ hội nhập vào khu vực
của Việt Nam trở nên nhanh chóng và vững chắc. Việt Nam đã chủ động rút
quân tình nguyện tại Cămpuchia, tích cực đổi mới tư duy để thoát khỏi ảnh
hưởng của quá khứ chiến tranh lạnh. Sau khi có giải pháp hòa bình về vấn đề
Campuchia, quan hệ của Việt Nam với từng nước ASEAN cũng như với tổ chức
ASEAN đã có những bước phát triển nhanh chóng.
Kết quả 28/7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập vào Hiệp hội liên kết khu
vực Đông Nam Á. Việc Việt Nam gia nhậpASEAN đã đánh dấu chấm dứt sự
đối đầu giữa hai khối ASEAN và Đông dương hình thành dưới thời chiến tranh
lạnh, mở ra một bước ngoặt trong lịch sử phát triển hợp tác khu vực ở Đông
Nam Á. Sự tham gia của Việt Namvà ASEAN đã mở đầu cho quá trình tham
gia hợp tác khu vực của tất cả các quốc gia còn lại, biến ước mơ nhất thể hoá
khu vực của ASEAN được đề cập trong “Tuyên bố Băng Cốc” năm 1967 thành
hiện thực. Hợp tác khu vực của ASEAN nhờ đó đã bước lên bình diện mới để
đối phó một cách hiệu quả với những biến động đầy phức tạp của thế giới thời
kỳ hậu chiến tranh lạnh. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng đánh dấu thắng

lợi cho chặng đường trở lại cội nguồn Đông Nam Á của Việt Nam.
4. Sau khi gia nhập ASEAN
Sau khi gia nhập ASEAN, chúng ta thi hành đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ đi đôi với đa phương hóa đa dạng hóa các quan hệ quốc tế và tại trên
nhiều lĩnh vực. Đảng ta chỉ rõ, trong hoạt động đối ngoại cần nắm vững những
tư tưởng quan trọng. đó là đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính để xây dựzng
thành công và và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN; thứ hai là phải giữ vững
độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đa phương hóa đa dạng hóa; thứ ba, nắm
vững hai mặt đấu tranh và hợp tác trong quan hệ quốc tế, trên từng vấn đề và
thời điểm cụ thể, tranh đối đầu trực diện đưa mình vào thế cô lập; thứ tư là chú
trọng hợp tác khu vực song đồng thời mở rộng quan hệ với các nước lớn, chủ
động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu; cuối cùng là phải
thống nhất giữa các bộ phận trong thực hiện đường lối đối ngoại.Việt Nam đã
đảm nhiệm tốt vai trò nước điều phối quan hệ đối ngoại giữa ASEAN với các
3 Nguyễn Dy Niên, Tiến tới một Đông Nam Á trong thế kỷ XXI Băng Cốc 22/3/1993, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản
sắc, tr.147, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6
nước lớn như Mỹ, Nga, Nhật… Cùng với quan hệ Việt -Trung được cải thiện
nhanh chóng trong thập niên qua, vị thế địa lý chiến lược và sự phát triển năng
động của Việt Nam thực sự đã và đang đóng góp một phần quan trọng làm cho
ASEAN-Trung Quốc xích lại gần nhau hơn, hiểu biết và hợp tác nhiều hơn.Việt
Nam cũng đóng vai trò không nhỏ trong cân bằng chiến lược và ảnh hưởng giữa
các nước lớn, đặc biệt là trong cân bằng chiến lược Mỹ-Trung. Đây là vấn đề
lớn, có ý nghĩa trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á.
Trong quan hệ với các nước, nguyên tắc của Việt Nam muốn làm bạn với tất
cả các nước, quan hệ bình đẳng với các nước và nguyên tắc này đóng vai trò rất
lớn trong việc giữ ổn định tại khu vực, nhất là liên quan tới các vấn đề nhạy cảm
và nhiều tranh cái như vấn đề biển Đông.
Việt Nam đã tham gia chủ động, tích cực, khá đầy đủ và có hiệu các hoạt
động hợp tác của Hiệp hội, có những đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp

tác như chính trị, an ninh, kinh tế, chuyên ngành, mà đỉnh cao là chủ trì và tổ
chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội tháng 12/1998
với chủ đề “đoàn kết, hợp tác vì hoà bình, ổn định và phát triển đồng đều”. Các
văn kiện và quyết định của Cấp cao Hà Nội, nhất là Tuyên bố Hà Nội và
Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) với thời gian thực hiện trong 6 năm, đã
xác định rõ phương hướng và các biện pháp cụ thể cho hợp tác và phát triển của
ASEAN trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới, tạo đà cho hợp tác của
ASEAN vượt qua khủng hoảng, góp phần khôi phục lòng tin của cộng đồng
quốc tế đối với vai trò và tương lai phát triển của ASEAN. Cùng với việc chủ
động thúc đẩy thực hiện Chương trình Hành động Hà Nội, coi đó là trọng tâm
và ưu tiên hoạt động của ASEAN cũng như giữa ASEAN với bên ngoài, nhất là
các nước đối thoại, ta đã chủ động đưa ra các sáng kiến, nhất là trong lĩnh vực
phát triển (như phát triển Tiểu vùng Mêkông, nhất là Hành lang Đông – Tây ),
giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách của ASEAN (ma tuý trong thanh niên)
Ta cũng đã cố gắng đóng góp vào việc thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định và hợp
tác ở khu vực, tham gia tích cực vào những cố gắng của ASEAN biến Hiệp ước
Thân thiện và Hợp tác (TAC) thành bộ quy tắc ứng xử không chỉ trong quan hệ
giữa các nước Đông Nam á và giữa các nước này với các nước ngoài khu vực;
xây dựng quy tắc ứng xử ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (COC);
đóng góp tích cực vào quá trình soạn thảo Quy chế hoạt động của Hội đồng Tối
7
cao để giải quyết hoà bình các tranh chấp theo quy định của Hiệp ước; tham gia
ký Hiệp ước Khu vực Đông Nam á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ)
4
.
Như vậy ta có thể thấy rõ có những sự thay đổi lớn trong chính sách đối
ngoại của Việt Nam trước và sau khi giai nhập ASEAN. Nếu trước đó do những
phức tạp và bất ổn định của tình hình quốc tế và khu vực, chính sách đối ngoại
của Việt Nam còn khép kín, chưa tích cực và chủ động trong mọi mối quan hệ
quốc tế, thì đến giai đoạn sau, do có sự thay đổi trong nhận thức và tư duy mới,

Đảng và Nhà nước ta đã hoạch định một chính sách đối ngoại mới phù hợp với
tình hình mới, tất nhiên vẫn những có những nguyên tắc bất di bât dịch, luôn đặt
lợi ích quốc gia,độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ lên hàng đầu. Từ một hợp
tác có tính chất đóng cửa thành một hợp tác có tính chất mở cửa. Từ hợp tác bởi
các mục tiêu chính trị sang hợp tác do thị trường thúc đẩy, từ hợp tác giữa các
nền kinh tế có trình độ phát triển tương tự nhau sang hợp tác giữa các nền kinh
tế có trình độ phát triển chênh lệch nhau, từ hợp tác hướng vào bên trong và
chia sẻ thị trường sang hợp tác hướng ra bên ngoài và góp chung nguồn lực,
v.v
5
Bước chuyển biến này là kết quả của quá trình liên tục đổi mới của tất cả
các quốc gia trong ASEAN trong đó có thể coi Việt Nam là một thí dụ điển
hình.
III. Những tác động của CSDN đó đối với kinh tế Việt Nam
1. Hợp tác kinh tế nội bộ ASEAN:
Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh Asean họp tại Singapore đã quyết định
thành lập một khu vực thương mại tự do Asean (Asean Free Trade Area) gọi tắt
là AFTA, theo đó trong vòng 10-15 năm giảm dần thuế quan đánh vào sản
phẩm công nghiệp chế tạo và nông sản chế biến xuống dưới 5% và ký hiệp định
chung về hợp tác kinh tế. Giữa các nước ASEAN hình thành các tam-tứ giác
phát triển nhằm tận dụng sự liên kết, tạo nên sức mạnh chung cho toàn khối
6
4 />5 Trần Thị Thu Lương, Dấu ấn Việt Nam trong tiến trình phát triển ASEAN- những đóng góp và những bài học cho hội
nhập, TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, tập 10, sô 09 – 2007, tr. 15, ĐHQG-HCM
6Vũ Khoan, Việt Nam và ASEAN, tr.324, trích giáo trình Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II (1975-2006),
T.S Nguyễn Vũ Tùng biên soạn.
8
Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung (Common Effective Preferential Tariff – CEPT). Về thực chất CEPT là
một thỏa thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc cắt giảm thuế quan

trong nội bộ xuống còn 0 – 5% thông qua những kế hoạch cắt giảm thuế khác
nhau. Trong vòng 5 năm khi đạt mức thuế ưu đãi cuối cùng các nước thành viên
sẽ tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch nhập khẩu và những hàng rào phi quan thuế
khác. Khi Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN thì việc gia nhập AFTA
là tất yếu. Tuy nhiên việc gia nhập AFTA đã có những tác động không nhỏ đến
nền kinh tế của Việt Nam cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực
a. Thuận lợi
• Khi gia nhập AFTA , hàng hoá của Việt nam sẽ được hưởng thuế
suất ưu đãi thấp hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà các nước ASEAN dành
cho các nước thành viên WTO, từ đó có điều kiện thuận lợi hơn để hàng
hoá Việt nam có thể thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên
ASEAN.
• Bên cạnh những thuận lợi thu được từ hoạt động thương mại trong
nội bộ khối , khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm
phán thương mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế,
cũng như các tổ chức thương mại quốc tế lớn như Mỹ, nhật, EU hay
WTO
7
• Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có
nhiều lĩnh vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN
như VN có thế mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và
ta cũng có nhu cầu nhập nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp
hơn từ các khu vực khác trên thế giới.
8
• Một mặt Doanh nghiệp được lợi do tăng được khả năng cạnh tranh
so với các nước ngoài ASEAN về giá cả, mặt khác người tiêu dùng được
hưởng lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn.
• Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử
dụng vốn và kỹ thuật cao trong khu vực
7 />nam-thuc-hien-tt.vhc

8 />9
b. Khó khăn :
• Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất
nhập khẩu giảm.
• Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi
quan thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh
nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chơi cạnh
tranh khốc liệt trên thị trường khu vực : cạnh tranh thúc đẩy sản xuất phát
triển, nhưng đồng thời có thể gây khó khăn và phá sản một số các doanh
nghiệp.
Gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế và các doanh
nghiệp Việt Nam để chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường thế giới
9
2. Hợp tác với các khối kinh tế ngoại khối:
Đại hội lần 9 đã phát triển lời tuyên bố năm 1991: “Việt Nam muốn là bạn
và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới cùng phấn đấu
vì hòa bình, độc lập, và phát triển”
10
. Vận dụng đường lối, quan điểm trên,
Đảng và Nhà nước ta đã vạch rõ những nguyên tắc, nhiệm vụ, bước đi trong
việc hoạch định chính sách đối ngoại nhằm đạt được những thành tựu cao nhất
trong quá trình hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
Cụ thể, Việt Nam luôn tham gia tích cực vào các hoạt động của ASEAN và từ
đó mở rộng hội nhập vào các tổ chức khu vực và liên khu vực. Cần phải khẳng
định rằng chính sách này của ta là hết sức đúng đắn, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại. Đa phương hóa, chúng ta sẽ có thêm đối tác, mở rộng việc
hợp tác ra mọi lĩnh vực và kinh tế là một trong những mục đích hàng đầu.
Những năm gần đây, quan hệ hợp tác kinh tế giữa ASEAN với các đối tác
ngoài khối đã bước sang giai đoạn phát triển mới, cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Cùng với nỗ lực đẩy nhanh hội nhập trong nội khối, ASEAN đã tích cực

mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác ngoài khối bao gồm Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand, EU, Mỹ. Là một thành viên tích
cực, Việt Nam đang cùng các nước ASEAN đồng thời đàm phán thành lập các
khu vực mậu dịch tự do (FTA) với 6 đối tác gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Úc và New Zealand. Theo dự kiến các cuộc đàm phán này sẽ
9 />10 Việt Nam trong tiến trình thống nhất đất nước, đổi mới và hội nhập, Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, tr 38.
10
kết thúc vào cuối năm 2006, đặt cơ sở pháp lý để Việt Nam cùng các nước
ASEAN hội nhập sâu sắc hơn với các nền kinh tế lớn trong khu vực.
Trong hoạt động của ASEAN, hợp tác kinh tế nổi dần lên như một hướng
quan trọng
11
. Cùng với tiến trình đàm phán các thỏa thuận FTA, ASEAN và các
nước đối tác tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ hợp tác kinh tế theo các kênh
ASEAN Cộng 1 (với từng nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), ASEAN
Cộng 3 (với nhóm 3 nước Trung-Nhật-Hàn), và giữa ASEAN với từng đối tác
Ấn Độ, EU, Hoa Kỳ và mới đây cơ hội hợp tác với Canada đã được mở ra
12
.
Nhiều chương trình, dự án hợp tác cụ thể thuộc các lĩnh vực khác nhau đã được
triển khai, trong đó Việt Nam đóng vai trò nước điều phối, đăng cai, tổ chức
hoặc tích cực phối hợp, cử đại diện tham gia. Nổi bật trong số các quan hệ hợp
tác này, Việt Nam đã được giao là nước điều phối của ASEAN trong quan hệ
hợp tác với EU. Ta đã chủ động đề xuất định hướng tăng cường hợp tác và các
biện pháp cụ thể thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa hai khu vực.
Như vậy, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động
ngoại giao đã chuyển hướng mạnh mẽ sang phục vụ kinh tế, trong đó nhiệm vụ
hàng đầu là tạo môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện quốc tế thuận lợi để
phát triển kinh tế đất nước, lấy việc mở rộng kinh tế đối ngoại làm trọng tâm.
Hoạt động ngoại giao đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng chính sách,

khuôn khổ pháp lý cho quan hệ kinh tế đối ngoại, nghiên cứu đánh giá các vấn
đề chính trị, kinh tế quốc tế tác động đến Việt Nam, nghiên cứu chính sách kinh
tế, tìm hiểu tiềm năng thế mạnh của các nước, thúc đẩy hợp tác bình đẳng, cùng
có lợi giữa Việt Nam với các nước. Hoạt động ngoại giao nói chung hay chính
sách mở rộng hợp tác kinh tế ra ngoài khối ASEAN nói riêng đã góp phần mở
rộng thị trường xuất khẩu, gia tăng đối tác thương mại, thu hút đầu tư nước
ngoài, viện trợ phát triển và công nghệ tiên tiến, đưa đất nước ngày càng đi lên
sánh vai cùng các cường quốc năm châu cùng bạn bè thế giới.
3. Cải tiến Cơ chế giải quyết tranh chấp trong ASEAN
Cải tiến Cơ chế giải quyết tranh chấp được xem là một trong những trọng
tâm của công tác củng cố thể chế hợp tác kinh tế ASEAN phục vụ mục tiêu hội
nhập ngày càng sâu sắc hơn của nền kinh tế Việt Nam cũng như khu vực. Triển
11 Vũ Khoan, Việt Nam và ASEAN, tr.318, trích giáo trình Chính sách đối ngoại Việt Nam, tập 2(1975-2006),
T.S Nguyễn Vũ Tùng biên soạn.
12 />11
khai đàm phán từ năm 2003, đến nay cơ chế giải quyết tranh chấp mới của
ASEAN được xây dựng trên cơ sở tham khảo mô hình của WTO và thực tiễn
các thoả thuận khu vực khác đã hoàn thành gồm 3 cấp tham vấn (ACT)- trọng
tài (ACB) - tòa án (DSM).
13

4. Đẩy nhanh hội nhập các ngành ưu tiên tiến tới Cộng đồng Kinh tế
ASEAN
So với các bước thực hiện qua trình hợp tác ASEAN được triển khai từ năm
1995, việc đẩy nhanh hội nhập các ngành ưu tiên tiến tới Cộng đồng Kinh tế
ASEAN của Đảng và Nhà nước ta mãi sang năm 2003 mới bắt đầu được đề
xuất và thực hiện. Sở dĩ có sự chậm trễ này là do tình trạng “chậm phát triển về
thể chế và sự vắng bóng của các cơ chế đa phương”
14
. Đó cũng là bởi vì chủ

nghĩa khu vực trong giai đoạn này cho đến trước cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ châu Á 1997/98 mới chỉ “tiền trưởng thành” (premature stage). Thêm
vào đó, khi thực hiện việc đẩy nhanh hội nhập với ASEAN, các nhà lãnh đạo
Việt Nam thực sự cũng không thể bỏ qua yếu tố “Sự tranh chấp quyền lực” của
“lãnh đạo đầu tầu” như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc , Nga dù muốn hay không
cũng sẽ tạo sự ảnh hưởng nhất định đối với ASEAN cũng như tiến trình Việt Nam
hội nhập ASEAN
15
Việc đẩy mạnh các ngành ưu tiên tiến tới Cộng đồng kinh tế ASEAN của ta
đã và đang từng bước đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Chính sách này
được tái nhấn mạnh qua lời phát biểu tại cuộc họp báo sau khi kết thúc Hội nghị
Bộ trưởng kinh tế ASEAN không chính thức cuối tháng 2/2010, diễn ra tại Pu-
tra-jay-a, Thủ đô hành chính của Ma-lai-xi-a của Chủ tịch luân phiên Hội nghị
Bộ trưởng ASEAN - Bộ trưởng Bộ Công thương Việt Nam Vũ Huy Hoàng:
“Việt Nam nhấn mạnh, ưu tiên hàng đầu của ASEAN là thực thi đầy đủ cam kết
và chương trình hợp tác kinh tế nội khối.”
16
. Có thể nói, việc Việt Nam thúc
đẩy thiết lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) góp phần ASEAN trở thành
13 />14 Hội nhập kinh tế Đông Á: Từ góc nhìn của Hàn Quốc và Ấn Độ (2005, tr.29 - 30) - PGS.TS. HOÀNG THỊ THANH
NHÀN
*
15 Các vấn đề quốc tế số 3/2008, Thông tấn xã Việt Nam, tr.43
16 />12
một khối có sự liên kết vững chắc, một thị trường duy nhất có cơ sở sản xuất
thống nhất, trong đó có sự lưu thông tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư vốn và
nhân công có tay nghề sẽ thúc đẩy cải cách hệ thống pháp luật và nền hành
chính quốc gia trong nước, tiếp cận được nhiều hơn các yếu tố bên ngoài, nhất
là vốn, thị trường và công nghệ hiện đại, làm tăng cơ hội việc làm và nâng
nhanh mức sống của dân chúng.

IV. Thành tựu và thách thức về kinh tế trong những năm 1995-2000
1. Thành tựu:
Giai đoạn này, có thể nói ta đã đạt được những thành tựu kinh tế quan trọng,
góp phần không nhỏ vào thành công của sự nghiệp đổi mới. Trước hết cần phải
nhắc đến chính là những thành tựu mà ta đã đạt được từ kế hoạch phát triển kinh
tế- xã hội 5 năm 1996- 2000. Sau khi gia nhập ASEAN, kế hoạch này được đưa
ra trong ĐH Đảng khóa VIII diễn ra từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996 tại Hà Nội.
Sau 5 năm thực hiện, kế họach 5 năm 1995-2000 đã đạt nhiều thành tựu trên tất
cả các lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới, trong đó có những thành tựu kinh tế
đáng ghi nhận.
Nhìn chung, Phát triển kinh tế giữ được nhịp độ cao, những mục tiêu chủ yếu
của kế họach hoàn thành vượt mức, cụ thể: tổng sản phẩm trong nước tăng
7% /năm, công nghiệp tăng 13,5% /năm. Cơ cấu kinh tế cũng thay đổi: tỉ trọng
công nghiệp tăng lên 36.6% và tỉ trọng nông nghiệp giảm còn 24.3%. Đây có
thể nói là sự chuyển dịch hợp lý, là kết quả của chính sách kinh tế phù hợp với
thời kỳ này. Mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm
1997, những con số trên có thể nói là những thành tựu quan trọng, mang đến
một niềm lạc quan về sự phát triển không ngừng của kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh đó, cùng với các ngành kinh tế trong nước, kinh tế đối ngoại cũng
phát triển mạnh mẽ: xuất khẩu đạt 51.6 tỉ USD, nhập khẩu 61 tỉ USD, có quan
hệ buôn bán với hơn 140 nước. Trong đó, ASEAN là thị trường rộng lớn, có
tầm quan trọng đối với xuất nhập khẩu của ta. Để khuyến khích, thúc đẩy kinh
tế đối ngoại phát triển hơn nữa, nhà nước đã mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho
tư nhân. Vốn đầu tư nước ngoài nhìn chung cũng tăng, đạt trên 40 tỉ USD, mặc
dù chủ yếu là trong giai đoạn trước khi xảy ra khủng hoảng kinh tế trong khu
vực. Theo số liệu thống kê từ năm 1996 đến tháng 6/1997, tốc độ thu hút đầu tư
nước ngoài đã tăng lên nhanh chóng. Tổng số dự án đầu tư của ASEAN đã tăng
lên 328 dự án với tổng số vốn cam kết lên tới 7.815 triệu USD, tăng hơn 2 lần
so với thời kỳ trước 1/1/1996. Đầu tư của toàn ASEAN đã chiếm gần 30% tổng
13

mức đầu tư của tất cả các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Ba quốc
gia, gồm Xingapo, Malaixia và Thái Lan chiếm giữ các vị trí lần lượt thứ 5, thứ
7 và 12 trong số các quốc gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, theo số liệu tháng
6/1995, và đến tháng 6/1997 đã chiếm giữ các vị trí lần lượt thứ 1, thứ 7 và 8.
Có thể thấy được hiệu quả đạt được từ những điều chỉnh kịp thời về chính sách
đầu tư của Nhà nước ta cũng như từ việc hợp tác và đầu tư quốc tế trong khuôn
khổ ASEAN. Có thể nói, gia nhập ASEAN là cột mốc quan trọng đánh dấu một
giai đoạn phát triển phù hợp với xu thế hợp tác mạnh mẽ của thời đại, đặc biệt
là về đầu tư nước ngoài. Nhiều công trình, nhà máy, khách sạn do các nước
ASEAN đầu tư đã mọc lên ở hầu khắp các thành phố lớn, các khu công nghiệp
của nước ta đã khẳng định rõ vị trí của các nước láng giềng Đông Nam Á trong
tiến trình mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam. Một điểm đáng chú ý nữa
chính là Việt nam đã bắt đầu đầu tư ra một số nước, tuy với số vốn và quy mô
còn hạn chế.
2. Khó khăn
Tuy nhiên, đánh giá một cách toàn diện, gia nhập ASEAN không chỉ mang
đến cho nền kinh tế nước ta những cơ hội quý báu để phát triển mà còn mang
đến không ít những thách thức. Trước hết đó chính là sự nghèo nàn về kinh
nghiệm so với các nước trong khu vực. Trước khi gia nhập ASEAN, Việt Nam
là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, vừa mới chập chững những bước
đổi mới đầu tiên. Chính vì thế, kinh nghiệm so với các nước trong ASEAN bấy
giờ của ta là khá ít. Đặc biệt, trong giai đoạn 1995- 2000, ta phải đương đầu với
những tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á- đây là một việc không hề
dễ dàng. Cụ thể, từ cuối năm 1997 trở đi, dòng FDI vào Việt Nam giảm mạnh.
Năm 1997 là năm thứ 10 thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, cũng là năm đầu
tiên thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung, nhưng cả năm chỉ có 65 dự án của ASEAN
được cấp giấy phép với số vốn đăng ký là 994,0 triệu USD. Trong hai năm 1998
và 1999, tình hình không có nhiều khả quan.
Thứ hai, ASEAN là thị trường lớn nhưng cũng là đối thủ lớn. Nền kinh tế còn
non trẻ của Việt Nam rất khó có thể dành được lợi thế trong sự cạnh tranh với

các nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực như Thái Lan, Singapor,
Malayxia… Nếu không kịp thời tạo ra cho mình những thế mạnh, ta rất dễ bị tụt
hậu.
KẾT LUẬN
14
Sau 5 năm từ khi gia nhập ASEAN ( 1995_2000 ) Việt Nam đã có những
bước nhảy vọt trong tiến trình hội nhập khu vực . Với sự lãnh đạo sáng suất và
đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và nhà nước. Nhưng quan trọng nhất la
Việt Nam gia nhập ASEAN sẽ có lợi cho xu thế hòa bình và hợp tác, hỗ trợ cho
việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa,
mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với tất cả các nước theo khẩu hiệu: “ Việt
Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đầu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Thị Thu Lương, Dấu ấn Việt Nam trong tiến trình phát triển ASEAN- những đóng góp và những bài học cho hội nhập,
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, tập 10, sô 09 – 2007, tr. 15, ĐHQG-HCM
2
Ngoại giao VN 1945-2000, tr.348, NXB chính trị -quốc gia
3
Nguyễn Dy Niên, Tiến tới một Đông Nam Á trong thế kỷ XXI Băng Cốc 22/3/1993, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản
sắc, tr.147, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4
/>5
Trần Thị Thu Lương, Dấu ấn Việt Nam trong tiến trình phát triển ASEAN- những đóng góp và những bài học cho hội
nhập, TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, tập 10, sô 09 – 2007, tr. 15, ĐHQG-HCM
6
Vũ Khoan, Việt Nam và ASEAN, tr.324, trích giáo trình Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II (1975-2006),
T.S Nguyễn Vũ Tùng biên soạn.
7
/>nam-thuc-hien-tt.vhc

8
/>9
/>10
Việt Nam trong tiến trình thống nhất đất nước, đổi mới và hội nhập, Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, tr 38.
11
Vũ Khoan, Việt Nam và ASEAN, tr.318, trích giáo trình Chính sách đối ngoại Việt Nam, tập 2(1975-2006),
T.S Nguyễn Vũ Tùng biên soạn.
12
/>13
/>14
Hội nhập kinh tế Đông Á: Từ góc nhìn của Hàn Quốc và Ấn Độ (2005, tr.29 - 30) - PGS.TS. HOÀNG THỊ THANH
NHÀN
*
15
Các vấn đề quốc tế số 3/2008, Thông tấn xã Việt Nam, tr.43
16
/>15

×