Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến kinh tế Việt Nam Chính sách khắc phục kinh tế của Việt Nam trước cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.5 KB, 37 trang )

KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH TOÀN CẦU
ĐẾN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI VÀ
VIỆT NAM
Nhóm15
K084020135 K08402A Đoàn Văn Hiệp
K084020116 K08402A Nguyễn Thị Lan Chi
K084020120 K08402A Nguyễn Văn Dũng
K084020164 K08402A Phạm Minh Nghiệp
K084020204 K08402A Bùi Thị Liên Tri

GVBM: LÊ TUÁN LỘC
LỜI MỞ ĐẦU
Gần 25 năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức ấn tượng
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Từ một nước có nền kinh tế kém phát
triển, xuất phát điểm và tốc độ tăng trưởng rất thấp, đến nay Việt Nam đã trở thành một trong
những nước có tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và luôn được nhìn nhận như là một trong những trụ cột đóng
góp có hiệu quả vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trong suốt thời kỳ tiến hành đổi mới
kinh tế, FDI luôn chiếm khoảng 16%-20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam. Bên
cạnh việc bổ sung nguồn vốn đầu tư, FDI là kênh quan trọng để thực hiện chuyển giao công
nghệ và kỹ năng quản lý, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực và
đăc biệt, góp phần tích cực thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và
khu vực. Điều đáng chú ý nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) và cùng với việc cải thiện mạnh mẽ khuôn khổ luật pháp về
đầu tư và môi trường kinh doanh từ cuối năm 2006, Việt Nam đã có bước bứt phá ngoạn mục
bằng làn sóng thứ hai về thu hút FDI với đỉnh cao của nó là năm 2008, lần đầu tiên đạt được
con số thu hút FDI kỷ lục: hơn 64 tỷ USD vốn đăng ký và trên 11,4 tỷ USD vốn thực hiện.
Tuy nhiên, chiều hướng này đã không thể tiếp tục khi thế giới từ nửa cuối năm 2008 đã phải
đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu “trăm năm mới có một lần”. Cuộc khủng


hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã có tác động to lớn đến nhịp độ tăng trưởng,
khả năng mở rộng xuất khẩu và đầu tư ở mọi nền kinh tế. Tình hình càng đặc biệt nghiêm
trọng đối với các nền kinh tế có độ mở thị trường cao, tăng trưởng dựa trên đẩy mạnh xuất
khẩu và FDI trở thành một bộ phận quan trọng của tổng đầu tư xã hội như ở Trung Quốc và
Việt Nam.
2
MỤC LỤC
I. Giới thiệu về cuộc khủng hoảng
II. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng
III. Đầu tư gián tiếp FII(FPI)
1. Khái niệm
2. Các loại hình FPI:
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FPI:
4. Thực trạng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2006-2008
5. Sự cần thiết và tiềm năng thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) tại Việt Nam
IV. Đầu tư trực tiếp FDI
1. Khái niệm
2. Vai trò của FDI trong 20 năm đổi mới nền kinh tế của Việt Nam vừa qua
3. Bối cảnh phát triển mới của Việt Nam và vai trò của FDI
4. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
5. Nhân tố tác động đến thu hút FDI:
6. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 2006
V. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến kinh tế Việt Nam
Chính sách khắc phục kinh tế của Việt Nam trước cuộc khủng hoảng tài chính
thế giới 2008:
• Đối với chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá :
• Khuyến khích đầu tư và xuất khẩu :
• Đảm bảo an sinh xã hội :
• Đối với vấn đề thu hút và sử dụng FDI
• Đối với thị trường chứng khoáng

• Kết quả đạt được của Việt Nam sau thời kì khủng hoảng
• Đầu tư phát triển
• Lạm phát và giá cả:
• Thu chi ngân sách
• Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại
• An sinh xã hội :
• Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
3
I GIỚI THIỆU CUỘC KHỦNG HOẢNG
Như chúng ta đã thấy răng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đạt kỷ lục vào
năm 2008 với trên 64 tỷ USD tăng 222% so với năm 2007, tình hình trên thế giới cùng
thời điểm theo nhận định nhiều chuyên gia diễn biến của thị trường bất động sản năm
2008 là năm kỳ lạ nhất từ trước đến giờ, giá nhà đất liên tục xụt giảm, chứ không như
trước đây giá nhà đất chỉ đứng yên và có chiều hướng đi lên chứ không bao giờ đi
xuống…và cũng chính năm này đây đã xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính có tầm ảnh
hưởng đến hầu như tất cả các nước trên thế giới và nhất là các nước có nền kinh tế
mạnh…như Mỹ, EU…và đặc biệt là hàng loạt các sự kiện sảy ra ở phố Wall nổi bật là
lehman Brothers, American International Group đã xụp đổ trong năm nay…tại sao chỉ
trong năm 2008 này sảy ra hàng loạt các sự kiện tài chính kinh điển chúng ta hãy tìm
hiểu nguyên nhân tại sao, tác động của nó đến nền kinh tế như thế nào và cùng tìm ra
các biện pháp tốt nhất cho các quốc gia…
II NGUYÊN NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008
 Cuối năm 2001, khi nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái, FED đã liên tục cắt giảm
lãi suất. Chính sách tiền tệ mở rộng đã khuyếch trương các hoạt động kinh tế. Đến
giữa năm 2002, nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhưng mối lo ngại về việc suy thoái có
thể quay trở lại đã khiến Chủ tịch FED, Alan Greenspan, và đồng nghiệp quyết định
giữ nguyên lãi suất chỉ đạo ở mức 1% trong suốt 2 năm 2003 và 2004.
 Hơn nữa giá nhà từ cuối năm 2002 lại liên tục tăng, khiến cho tất cả các chủ thể
đầu muốn kiếm lợi từ hoạt động kinh doanh này đặc biệt là các dân ngèo muốn đổi
đời, vay tiền ngân hàng với lãi suất thấp và đầu tư mua bất động sản.

 Cơ chế cho vay và cổ phiếu hóa:
o các ngân hàng cho vay tín dụng dưới chuẩn và thu giấy nợ, sau khi thu các giấy
nợ ngân hàng thực hiện chứng khoán hóa, ở đây ta gọi là chứng khoán nợ, và sau đó
ngân hàng bán chứng khoán nợ này dưới dạng trái phiếu, một điều đặc biệt ở đây là
trái phiếu được phân chia ra thành nhiều gói được định mức tín nhiêm với các hệ số
khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và có cuống lãi suất khác nhau
o Như vậy các nhà đầu tư có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình thành từ
chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Đây cũng chính là động lực kích
thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa và làm bùng nổ
cho vay dưới chuẩn.
o Ngân hàng đầu tư có lẽ là người hưởng lợi nhiều nhất. vừa được hưởng lãi suất
cho vay dưới chuẩn, vừa thu lãi từ nghiệp vụ chứng khoán hóa…điều nay làm thu hút
nhiều ngân hàng ở Mỹ và thế giới làm theo.
4
 Cho tới giữa năm 2006, Nền kinh tế Mỹ đã bước vào năm thứ 4 tăng trưởng
liên tục và những dấu hiệu lạm phát gia tăng mạnh đã xuất hiện. Một loạt các chỉ số
giá khác cũng gia tăng. FED đã phản ứng lại bằng cách liên tục tăng lãi suất ( do lượng
tiền giao dich M2 trên thị trường quá nhiều vượt quá nhiều so GDP), từ đây thị trường
nhà đất bắt đầu suy giảm
Thời hạn lãi suất đã đến, người vay không có tiền để trả nợ. thị trường bất động sản lúc này
lại tụt dốc mạnh do đầu tư vào bất động sản không còn có lợi(lãi suất cao) mọi gười ồ ạt bán
đất làm cho giá nhà đất giảm rất mạnh dẫn đến tình trạng bán nhà không được, thậm chí bán
được nhà thì cũng không đủ để thanh toán nợ nần. tình trạng ngân hàng không lấy được vốn,
ngân hàng lại phải gấp rút thanh toán trái phiế…chính phủ Mỹ khi thấy dấu hiệu khủng hoảng
nhanh chóng giảm mức lãi suất xuống thấp nhưng thị trường tài chính và bất động sản đã ngẹt
cứng…gây ra cuộc khủng hoảng lây lan trên toàn thế giới…
III ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP FII (FPI)
1. Khái niệm
Khoản 3 điều 3 Luật đầu tư quy định “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông
qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và

thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham
gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Như vậy, theo đó, đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment, hay
thường được viết tắt là FPI) là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các
hoạt động mua tài sản tài chính của nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này
không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh
nghiệp.
2. Các loại hình FPI:
Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài bao gồm: Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu
và các loại giấy tờ có giá khác thông qua quỹ đầu tư chứng khoán hoặc thông qua các
định chế tài chính trung gian khác.
Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào các nước tồn tại dưới các loại quỹ hoặc các
công ty tài chính dưới một số dạng như:
Quỹ tương hỗ: Là quỹ được điều hành bởi công ty đầu tư nhằm huy động vốn
cổ đông và đầu tư vào chứng khoán, trái phiếu, hợp đồng option, hàng hoá hay các
chứng khoán trên thị trường tiền tệ, thường phát hành chứng khoán quỹ để huy động
5
vốn. Đây là một loại chứng khoán tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nhỏ có khả năng tiếp
cận với một danh mục đầu tư đa dạng và có một sự quản lý chuyên môn. Mỗi cổ đông
đều có cơ hội được hưởng lãi từ hoạt động đầu tư của quỹ nhưng đồng thời cũng phải
chịu lỗ nếu như đầu tư không thành công.
Quỹ trợ cấp và hưu bổng: được thành lập để tạo nguồn thu nhập cho những
người về hưu và không còn khả năng làm việc. Các quỹ này nhận tiền đóng góp của
công nhân, chủ doanh nghiệp và sử dụng nguồn ngân quỹ có được đầu tư vào cá loại
trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đô thị, đầu vào cổ phiếu, trái phiếu
của doanh nghiệp. Các loại quỹ này thường có quy mô nhỏ do đó việc đầu tư bị hạn
chế.
Công ty bảo hiểm (Insurance Firm): gồm bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi
nhân thọ (bảo hiểm trách nhiệm và tài sản). Các công ty bảo hiểm có ưu điểm nổi bật
là có tiềm lực tài chính mạnh nên khả năng đầu tư lớn nhưng lại có rủi ro cao, do đặc

tính của ngành.
Các tổ chức tài chính (Financial Corporation): các tổ chức hoặc các tập đoàn
kinh tế lớn khi muốn đầu tư vào thị trường nước ngoài thường thiết lập các quỹ đầu tư
trên thị trường đó. Đầu tư dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật, mua cổ phần hoặc huy động
vốn. Các quỹ này không trực tiếp tham gia vào việc điều hành và quản lý doanh nghiệp
mà chỉ thông qua việc hỗ trợ và tư vấn kỹ thuật. Việc cấp vốn được thực hiện thông
qua các trung gian tài chính là ngân hàng. Loại quỹ này có tiềm lực tài chính mạnh,
quay vòng vốn nhanh nên khả năng đầu tư vào thị trường cao. Tuy nhiên để tiếp cận
được nguồn vốn này thì các doanh nghiệp phải đáp ứng các nhu cầu khắt khe hơn từ
phía nhà đầu tư.
Quỹ đầu tư mạo hiểm (Venture Capital Funds): đầu tư mạo hiểm là việc các
chuyên gia đầu tư tiến hành bỏ vốn vào các công ty có tiềm năng mặc dù còn mới. Nhà
đầu tư không trực tiếp tham gia vào quá trình kinh doanh của công ty mà đóng vai trò
cố vẫn, hỗ trợ các giải pháp điều hành tiên tiến để thúc đầy sự phát triển kinh doanh.
Những lĩnh vực mà nhà đầu tư lựa chọn thường là những lĩnh vực có khả năng phát
triển cao. Nhà đầu tư mạo hiểm thường đầu tư vào những lĩnh vực mới, lĩnh vực công
nghệ cao nên quỹ đầu tư mạo hiểm trở thành người đỡ đầu cho các công ty mới hình
thành, thiếu vốn và uy tín. Các quỹ đầu tư mạo hiểm thường được thành lập tư các
công ty hoặc tập đoàn kinh tế lớn nên có tiềm lực kinh tế mạnh, đội ngủ chuyên gia
đầu tư hung hậu, có khả năng phân tích tình hình đầu tư. Các chiến lược đầu tư thường
là dài hạn và đã có sự tính toán tỉ mỉ. Các quỹ đầu tư mạo hiểm thường thu lợi rất lớn
nếu dự án thành công, nhưng rủi ro, nếu xảy ra, cũng có hậu quả nặng nề hơn các hình
thức đầu tư khác.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FPI:
6
- Bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và môi
trường pháp lý quốc tế thuận lợi).
- Nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
- Mức độ tự do hóa và cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính và sự thân thiện, sự
thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi trường đầu tư trong

nước.
- Sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói riêng,
của các thể chế thị trường nói chung ở nước tiếp nhận đầu tư.
Ngoài ra dòng FPI cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các yếu tố khác như:
- Sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng khoán, chất lượng của các cổ
phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và Nhà nước phát hành, cũng như các chứng
khoán có giá khác lưu thông trên thị trường tài chính.
- Sự đa dạng và vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian (trước
hết là quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư tài chính các loại, các quỹ đầu tư đại
chúng, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thành viên).
- Sự phát triển và chất lượng của hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khoán,
trong đó có các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vẫn và dịch vụ định mức hệ số tín
nhiệm của doanh nghiệp và chứng khoán do doanh nghiệp phát hành.
Dòng FPI tỷ lệ thuận theo cấp số nhân cũng với sự gia tăng quá trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt
động hiệu quả ở trong nước, cùng với việc mở rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu
tư nước ngoài trong doanh nghiệp.
4. Thực trạng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2006-2008:
Giai đoạn hậu WTO: năm 2006 đánh dấu thời điểm Việt Nam gia nhập WTO,
đây là một dấu mốc quan trọng cho đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Ở giai
đoạn này, cùng với sự đi lên của thị trường chứng khoán, luồng vốn liên tục tăng
nhanh và liên tục thu hoạch thành công. Có 19 công ty quản lý quỹ được hình thành và
trên 1000 nhà đầu tư trên khắp thế giới đăng ký tài khoản tại Việt Nam, trong đó có
7
nhiều công ty đa quốc gia. Chỉ riêng thời điểm cuối năm 2006, vốn FPI là trên 2 tỷ
USD, cao hơn tất cả các giai đoạn trước cộng lại, và đến năm 2007 đạt đến mức kỷ
lục, khoảng 8 tỷ USD. Vào giai đoạn này, lượng đầu tư chủ yếu vào thị trường trái
phiếu. Việc bùng nổ FPI góp phần thúc đẩy hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển
mạnh.
5. Sự cần thiết và tiềm năng thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) tại Việt Nam

a. Sự cần thiết thu hút FII
Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với
sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu
tư gián tiếp (FII). Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất, thì
FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu
quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý nhà
nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối
quan hệ kinh tế.
Đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn FII mang một ý nghĩa rất quan trọng. Để thực
hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư
rất lớn (khoảng 140 tỷ USD) cho giai đoạn (2006-2010) để xây dựng, từng bước hoàn
thiện kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong
quá trình cải cách và cổ phần hóa nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi
gia nhập WTO. Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các
kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK). Các mối quan hệ
kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các hiệu ứng tốt tác
động đến các doanh nghiệp. Lợi ích của hội nhập không những được đánh giá thông
qua sự luân chuyển (vào, ra) dễ dàng của dòng hàng hóa, dòng người mà còn có cả
dòng vốn.Việc tham gia của các nhà đầu tư FII sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường
tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập
giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những
dao động “phi thị trường” và góp phần giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ
kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…).
Hơn nữa, FII có thể giúp vốn cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp tăng
trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh, do vậy FII rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp trong nước đang thiếu vốn.
Tuy nhiên, dòng vốn FII cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh huy động vốn
từ nước ngoài khác. Do vậy, thúc đẩy thu hút FII ổn định, tương xứng với tiềm năng,
góp phần tạo động lực phát triển thị trường vốn, nâng cao năng lực quản trị của nhà

doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu WTO là vấn đề cần được quan tâm.
8
b. Tiềm năng thu hút FII
Theo khảo sát của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) gần đây cho thấy, vào năm 2001 lợi
nhuận từ vốn FII thế giới tăng gấp 2 lần vốn FDI. Trong vòng 4 năm, đầu tư gián tiếp
toàn cầu đã tăng 2 lần; nước có tỷ trọng đầu tư gián tiếp lớn nhất là Mỹ chiếm 24,5%,
tiếp đó là Anh chiếm 10%. Dòng vốn FII đang trỗi dậy mạnh mẽ sau cuộc khủng
hoảng tài chính 1997 và đang chuyển hướng đầu tư sang các quốc gia đang phát triển
có tiềm năng, nhằm hạn chế các rủi ro đầu tư.
Hiện có khoảng trên 100 định chế đầu tư tài chính chuyên nghiệp trên thế giới đang
quản lý một khối lượng tài sản khổng lồ, khoảng 300 tỷ USD. Chỉ cần họ chấp nhận
đầu tư vào Việt Nam 0,1% là chúng ta đã có khoảng 300 triệu USD.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các yếu tố sản xuất trong quá trình tái sản xuất hàng
hóa, dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nơi này sang nơi khác, nhằm phát huy lợi
thế so sánh của mỗi quốc gia thông qua các cam kết mở cửa thị trường. Việt Nam đang
nổi lên như một quốc gia có nhiều tiềm năng thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh vị trí
địa lý thuận lợi, chính trị ổn định, tiềm năng tăng trưởng kinh tế dài hạn, Việt Nam còn
là một quốc gia có nhiều lợi thế so sánh hấp dẫn nhà đầu tư như: nguồn lao động, thị
trường, tài nguyên. Hơn nữa, vận nước đang lên, Việt Nam ngày càng khẳng định vai
trò, vị trí và tầm quan trọng của mình trên bản đồ kinh tế khu vực và thế giới. Sự quan
tâm của khu vực và thế giới tới Việt Nam, đặc biệt là thời điểm Việt Nam gia nhập
WTO, cộng với sự thành công của các nhà đầu tư hiện hữu tại đây sẽ mở ra cơ hội lớn
trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII) là một tiềm năng rất lớn đối với thu hút
vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Với các yếu tố thuận lợi khách quan, Việt Nam
hoàn toàn có khả năng khai thác tiềm năng dòng chảy vốn FII của thế giới phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
c. Thực trạng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam
Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng nguồn vốn FII
vẫn còn hạn chế. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam có xu

hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI. Một số quỹ
mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD
cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn (1991-1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng lên 3,7%
(2004), tỷ lệ này còn quá thấp so với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút FII/FDI
trong khoảng 30-40%).
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đầu tư FII vào Việt Nam trong thời gian gần đây
cũng đã tăng rất mạnh. Biểu hiện rõ nhất là việc đầu tư vào thị trường chứng khoán
của các tập đoàn tài chính quốc tế trong thời gian qua đã không ngừng gia tăng. Đến
9
cuối năm 2006, khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp được công bố thông qua
các quỹ đầu tư chính thức.
Theo các nhà đầu tư, lý do để họ hướng về Việt Nam là Chính phủ đã khẳng định vai
trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế, tính chuyên
nghiệp hoá từng bước của môi trường đầu tư và sự thành công của những nhà đầu tư
hiện hữu. Bên cạnh đó, phải kể đến những bước tiến mới trong lĩnh vực tài chính của
Việt Nam bao gồm: việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ ra nước ngoài và trái
phiếu tư nhân, thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC);
quá trình cổ phần hoá đang diễn ra tại Việt Nam bao gồm cả ngân hàng thương mại
quốc doanh; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống điện và giao thông,
cải cách khung pháp lý dành cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, để có thể thu hút thêm nguồn vốn FII tương xứng với tiềm năng của nền
kinh tế và thị trường, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cải thiện môi trường
đầu tư, đặc biệt là khung pháp lý, cơ chế và sách lược phát triển thị trường chứng
khoán
d. Một số công ty Quản lý quỹ chủ yếu
1. Dragon Capital
2. VinaCapital
3. Mekong Capital
4. Indochina Capital
e. Một số quỹ đầu tư chủ yếu

1. Prudential
2. Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL)
3. Vietnam Growth Fund (VGF)
4. Vietnam Dragon Fund (VDF)
5. Vietnam Opportunity Fund (VOF)
IV ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP (FDI):
1. Khái niệm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức
đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ
sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ
sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được
một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
10
Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong
phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là
các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là
"công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".”
2. Vai trò của FDI trong 20 năm đổi mới nền kinh tế của Việt Nam vừa qua
2.1. Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài (12/1987): trong bối cảnh
phát triển kinh tế - xã hội còn rất thấp. Hạ tầng cơ sở nghèo nàn, khoa học công nghệ lạc
hậu, nguồn nhân lực phần lớn chưa qua đào tạo,…Trong khi đó, nhu cầu phát triển luôn
phải đối mặt với sức ép cần vồn đầu tư, công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh xuất khẩu,… để khai
thác lợi thế so sánh nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giải quyết công ăn việc làm và ổn
định đời sống xã hội. Mặt khác, từ những năm cuối thập kỷ 80 đến hết thập kỷ 90 của thế kỷ
trước, xu hướng đầu tư quốc tế vào các nước đang phát triển chủ yếu tập trung vào các ngành
khai thác, công nghiệp chế tạo và những ngành cần nhiều lao động. Trong bối cảnh phát triển
đó, Việt Nam rất khó thu hút FDI vào các ngành công nghệ cao, sản xuất những sản phẩm có
giá trị gia tăng lớn hoặc vào những ngành phải đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của bảo

vệ môi trường. Vì vậy, việc định hướng thu hút FDI vào những ngành mà Việt Nam có lợi thế
tự nhiên, phù hợp với trình độ phát triển và đón bắt được xu hướng đầu tư quốc tế là khá phù
hợp. Do đó, mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng FDI đã đóng góp rất tích cực, có vai
trò như những trụ cột đối với thành công của chính sách đổi mới nền kinh tế.
2.2. Đóng góp quan trọng dễ thấy nhất đó là tăng cường nguồn vốn đầu tư cho tăng
trưởng. Vốn FDI (giải ngân) đã tăng từ 2,451 tỷ USD năm 2001 lên 8,100 tỷ USD năm
2007 và đạt được khoảng 40 tỷ USD trong gian đoạn 1988 đến nay. Đóng góp của FDI
trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã
tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do
ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 20%) và trong 5 năm
2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng
16%. Ưu điểm vượt trội của nguồn vốn này so với các nguồn vốn đầu tư khác là đi kèm
theo chuyển giao công nghệ, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp nhận kiến thức quản lý hiện đại. Mặt
khác, so với các nguồn vốn nước ngoài khác, vốn FDI “ít bị nhạy cảm” trước những biến
động của thị trường tài chính toàn cầu. Thực tế ở các nước Đông Nam Á bị khủng hoảng tài
chính năm 1997 đã chứng minh rất rõ đặc điểm này.
2.3. Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI là một trong những kênh chủ yếu, có
tính đột phá để nâng cao năng lực công nghệ của Việt Nam. Chuyển giao công nghệ qua các
dự án FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân lực vận hành, quản lý và nhờ học qua làm (learning
by doing), nhờ đó đã hình thành được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ, tay
nghề khá cao. Khảo sát cho thấy, có 44% doanh nghiệp FDI thực hiện đào tạo lại lao động
với các mức độ khác nhau (cho khoảng 30% số lao động tuyển dụng). Đối với một số khâu
chủ yếu của dây chuyền công nghệ tiên tiến hoặc đặc thù, lao động sau khi tuyển dụng được
11
đưa đi bồi dưỡng ở các doanh nghiệp mẹ ở nước ngoài. Đến nay, hầu hết các công nghệ có
trình độ tiên tiến và đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cao ở Việt Nam được tập trung
trong khu vực có vốn FDI.
2.4. Đẩy mạnh xuất khẩu cũng là đóng góp nổi bật, thể hiện rõ nét vai trò của FDI
trong suốt 20 cải cách kinh tế vừa qua. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực FDI đạt
10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch

xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%, tính cả dầu thô thì tỷ trọng
này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007 (xem
biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng xuất khẩu của
cả nước (1996-2007)
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng rất nhanh, từ 18,398 triệu USD năm
1996 tăng lên 30,120 USD năm 2000 và đạt tới 84,015USD năm 2006. Ngay cả trong
những năm xuất khẩu của các ngành kinh tế khác tăng chậm hoặc giảm thì xuất khẩu của
khu vực FDI vẫn tăng cao, nhờ đó duy trì được tốc độ tăng xuất khẩu của cả nước khá cao
trong nhiều năm. Cũng cần lưu ý rằng khu vực FDI có mức thặng dư thương mại khá cao.
Điều đó góp phần làm giảm mức thâm hụt thương mại chung cho cả nền kinh tế.
2.5. Tạo việc làm là những đóng góp quan trọng, không thể phủ nhận của khu vực
FDI. Tính đến năm 2007 khu vực có vốn FDI đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động
trực tiếp, trong đó nhiều lao động đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Mặc dù so với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì số việc làm được tạo ra còn hạn chế, nhưng “chất lượng” của
lực lượng lao động trong khu vực FDI tốt hơn rõ rệt. Nhiều cán bộ, công nhân trong khu
12
vực FDI đã và đang là những “hạt nhân” để phát triển lực lượng lao động trình độ, tay nghề
cao của Việt Nam. Thêm vào đó, số việc làm tạo ra nhờ hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI
cũng có thể là một con số đáng kể .
2.6. Mặt khác, trong suốt 20 năm qua, FDI đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân
sách Nhà nước. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp FDI đã nộp
ngân sách đạt 1,49 tỷ USD; gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách
trong khối doanh nghiệp FDI đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm
2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn FDI đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời
kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.
2.7. Bên cạnh những đóng góp tích cực như đã khái quát trên, FDI cũng đã và đang
tạo ra không ít những vấn đề, tác động tiêu cực, làm bức xúc dư luận xã hội. Chất lượng thu
hút FDI còn thấp, thiếu tính bền vững là một thực tế khó bác bỏ. Biểu hiện rõ nhất của hạn
chế này là phần giá trị gia tăng còn thấp. Như chúng ta đã biết các doanh nghiệp FDI tại

Việt Nam hiện đóng góp một tỷ lệ quan trọng về kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, theo số
liệu tổng hợp từ Tổng cục Thống kê, UN, và JETRO do Giáo sư Trần Văn Thọ từ Đại học
Waseda (Tokyo) thực hiện, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam hầu như không thay đổi từ
2004–2006, trong đó nông thủy sản, thực phẩm và các mặt hàng giá trị gia tăng thấp như
dệt, may, và tạp phẩm chiếm đến 49,4% so với tỷ lệ 14,5% của các quốc gia Đông Á và Ấn
Độ. Và ngược lại, đối với các ngành chế tạo đòi hỏi công nghệ cao hơn như máy móc các
loại, máy phát điện, máy công cụ, xe hơi và bộ phận xe hơi, đồ điện tử và IT thì Việt Nam
chỉ chiếm tỷ lệ 7,5% so với 54,6% của Đông Á và Ấn Độ…Phần lớn các doanh nghiệp FDI
tập trung khai thác lợi thế lao động rẻ, nguồn tài nguyên sẵn có, thị trường tiêu thụ “dễ tính”
để lắp ráp, gia công sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu2.
Liên kết giữa khu vực FDI với các doanh nghiệp nội địa còn rất ít, chưa hình thành
được các ngành công nghiệp phụ trợ, liên kết sản xuất theo chuỗi cung ứng hàng hoá. Thông
thường công nghiệp phụ trợ có thể tạo ra 80-95% giá trị gia tăng cho sản phẩm tuy nhiên
hiện các doanh nghiệp sản xuất-lắp ráp ở VN phải nhập khẩu từ 70%-80% lượng sản phẩm
phụ trợ3. Do hạn chế này mà phần giá trị được tạo ra ở Việt Nam còn thấp, nhiều doanh
nghiệp FDI khó phát triển được qui mô và đầu tư chiều sâu nên gần đây đã xuất hiện xu
hướng một số dự án FDI đã chuyển sản xuất ra nước khác hoặc đóng cửa hay phải chuyển
sang lĩnh vực đầu tư mới ở Việt Nam.
2.8. Cùng với những hạn chế trên, hậu quả gây ô nhiễm môi trường từ các dự án FDI
đang được bộc lộ rõ và làm huỷ diệt môi trường sống nghiêm trọng. Gần đây, dư luận xã hội
rất bức xúc về chất thải của dự án VEDAN (chủ đầu tư Đài Loan) đã làm huỷ diệt cả dòng
sông Thị Vải, gây thiệt hại lớn về người và của của cư dân trong vùng. Nhiều vụ ô nhiệm
môi trường trầm trọng của các dự án FDI khác cũng đang được phát giác. Rõ ràng,
những hậu quả này là rất nặng nề và làm giảm tính bền vững của tăng trưởng kinh tế.
2.9. Nguyên nhân của những hạn chế đã nêu có nhiều. Song, trước hết phải nhìn từ
phía nước chủ nhà. Về khách quan, do điều kiện phát triển còn thấp, thiếu kiến thức và kinh
13
nghiệm trong thu hút, sử dụng FDI nên chưa có nhiều sự lựa chọn và không lường hết được
những hậu quả là điều khó tránh khỏi. Mặt khác, nhiều hạn chế bắt nguồn từ nguyên nhân
chủ quan vì chú trọng đến lợi ích trước mắt, có tính cục bộ, bất chấp hậu quả lâu dài, chạy

theo “bệnh thành tích”, có tính số lượng. Việc trao quyền cho địa phương trong việc thu hút
FDI một mặt làm tăng tính chủ động của địa phương trong việc vận động, khuyến khích
FDI, song mặt khác cũng tạo ra hiệu ứng cạnh tranh thu hút FDI bằng mọi giá, làm giảm
chất lượng dự án dẫn đến hiện tượng ‘racing to the bottom’. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh
chính sách FDI còn khá chậm, chưa phù hợp với bối cảnh phát triển mới của Việt Nam.
3. Bối cảnh phát triển mới của Việt Nam và vai trò của FDI
3.1. Bước sang thế kỷ 21, mở đầu bằng Hiệp định BTA với Hoa Kỳ (2001), Việt
Nam đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới, tích luỹ được các điều kiện cần thiết cho phát
triển và hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế toàn cầu. Tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao
(khoảng 8% năm) trong nhiều năm, đã có dự trữ ngoại tệ đáng kể (khoảng 20 tỷ USD năm
2008), cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực đã được cải thiện rõ rệt và vị thế của Việt Nam đã
được nâng cao trong cộng đồng quốc tế. Dù vậy, gần đây nền kinh tế Việt Nam đang phải
đối mặt với nhiều khó khăn thách thức của lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng giảm mạnh (dự
kiến 6/5-6.7%).
3.2. Sau 5 năm thực hiện BTA, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
toàn cầu và đã trở thành thành viên chính thức của WTO vào năm 2006. Việc gia nhập
WTO đã tạo ra sự “đột phá” trong hội nhập quốc tế của Việt Nam và đã thu hút được sự
quan tâm của đông đảo cộng đồng kinh doanh quốc tế, trong đó đặc biệt là giới đầu tư nước
ngoài. Bối cảnh phát triển mới này đã giúp Việt Nam có nhiều cơ hội được “lựa chọn” các
nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải mở cửa hơn cho các nhà đầu tư
nước ngoài và đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ việc thực hiện các qui định của WTO.
3.3. Thực trạng và nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi
hơn so với thập kỷ của thời kỳ đầu thực hiện chính sách đổi mới. Các lợi thế “có tính tự
nhiên” trong thu hút FDI đã mất dần hấp dẫn. Giá lao động đã tăng cao và xuất hiện nhiều
vụ đình công, thiếu hụt lao động có tay nghề, nhiều lĩnh vực đầu tư thu hồi vốn nhanh, hấp
dẫn đã bão hoà. Cơ sở hạ tầng, năng lượng, dịch vụ kỹ thuật, nguồn nhân lực chưa đáp ứng
được yêu cầu của các nhà đầu tư. Khả năng hấp thụ vốn FDI do vậy đã đến mức ‘bão hòa’.
Mặt khác, trong những năm gần đây, thị trường tài chính ở Việt Nam đã phát triển khá
mạnh và đầu tư nước ngoài gián tiếp (FPI) cũng gia tăng nhanh, dòng vốn FPI ròng ước đạt
khoảng 6 tỷ USD năm 2007, chiếm 50% tổng lượng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam1.

Thêm vào đó, nguồn vốn kiều hối chuyển về nước hàng năm cũng rất lớn, năm 2006
là 6,82 tỷ USD, đứng hàng thứ hai ở khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Philippines (14,8 tỷ
USD)2. Con số này tương đương với 11,21% GDP và tính bình quân mỗi người Việt Nam ở
nước ngoài gửi về nước trong năm 2006 là 3.398,42 USD. Tính chung ở châu Á, Việt Nam
đứng hàng thứ tư về số tiền gửi về, sau Ấn Độ (24,5 tỷ USD), Trung Quốc (21,07 tỷ USD)
14

×