Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

tổng quan về chẩn đoán hình ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.22 KB, 9 trang )


1
Chương 1.
TỔNG QUAN CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH

Mục tiêu học tập
1. Trình bày được lịch sử phát triển của ngành Chẩn đoán hình ảnh (CĐHA).
2. Phân tích được nguyên lý vật lý của các kỹ thuật X quang, Siêu âm, trình bày được sơ lược
nguyên lý Cắt lớp vi tính và Cộng hưởng từ.

I. Lịch sử phát triển của ngành chẩn đoán hình ảnh
Ngày 8 tháng 11 năm 1895, Wilhelm Conrad Rontgen (1845 - 1923) - giáo sư vật lý lý
thuyết Đại học Wuzburrg, Đức, đã công bố khám phá ra tia X, Rontgen đã được trao giải
Nobel Vật lý đầu tiên và được xem là ông tổ của ngành chẩn đoán hình ảnh hiện đại.
Phim X quang đầu tiên là tấm kính tráng nhũ tương muối bạc, sau nhiều năm được thay thế
bằng phim tráng nhũ tương 2 mặt cảm thụ tia X.
Trong những thập kỷ từ 1910 - 1920, Bucky - Potter đã cải thiện chất lượng hình ảnh nhờ
xóa được các tia khuyếch tán bằng lưới chống mờ. Coolidge, Bowers tạo ra bóng có dương
cực quay, tăng tuổi thọ cho bóng X quang.
Vấn đề tương phản luôn được nghiên cứu để cải thiện chất lượng hình ảnh:
- Tương phản tự nhiên có 4 đậm độ cơ bản: calci, nước, mỡ, không khí.
- Các chất tương phản đã được sử dụng như Bismuth, các muối Iode, không khí được dùng để
tăng đối quang cho một số tạng trong cơ thể đã được xử dụng từ những năm 1930.
- Khắc phục các chi tiết nằm ở các độ sâu khác nhau bằng chụp nghiêng, chụp chếch, chụp
cắt lớp thực hiện giữa năm 1930.
- Năm 1950 bóng tăng sáng và tự động hóa chương trình thăm khám ở trong buồng có ánh
sáng, truyền hình, quay phim, chụp ảnh.
- Năm 1958, siêu âm bắt đầu áp dụng khám sản phụ sau đó khám bụng.
- Năm 1970 phát triển chụp cắt lớp vi tính (CLVT), đến năm 1979 Hounsfield nhận giải
Nobel Y học. Đầu tiên ứng dụng CLVT cho đầu, sọ não sau đó toàn cơ thể.
Nhờ kỹ thuật số hóa đã mở ra cho hình ảnh X quang một hướng mới, X quang số hóa. Phim


thường chuyển thành phim in bằng tia Laser là tiền đề cho môn Chẩn đoán hình ảnh hiện đại
ra đời. Đáng kể là X quang can thiệp hay X quang điều trị cho phép xác định chính xác vị trí
chọc dò sinh thiết, dẫn lưu các nang, ổ áp xe, tụ dịch, nong mở các động mạch, đặt các Stent,
bịt tắc các nhánh mạch máu đang chảy hoặc mạch nuôi cấp máu cho u
- Hình ảnh Cộng hưởng từ xuất hiện là một cuộc cách mạng trong chẩn đoán hình ảnh. Đến
tháng 11 năm 2003 Lauterbur và Mansfield được giải thưởng Nobel Y học.
Bác sĩ chẩn đoán hình ảnh hiện nay không những phải biết vận hành, sử dụng nhiều loại
máy móc hiện đại, mà phải có kiến thức cơ bản không những về y khoa mà còn về lý sinh, vật
lý, tin học. Sau hơn 100 năm X quang đã trở thành một ngành rộng với kiến thức hiện đại, đòi
hỏi nhiều kỹ năng, kỹ xảo. Với hình ảnh X quang mới, các nhà lâm sàng cũng phải nắm được
các vấn đề cơ bản, cũng phải được đào tạo lại cách đọc phim với hình ảnh mới.


2
Trong khuôn khổ đào tạo chính quy trên thế giới hiện nay của ngành Chẩn đoán hình ảnh
(CĐHA) (Radiology, Diagnostic Imaging, Imagerie Médicale) bao gồm các môn học:
- X quang thường quy hay quy ước (Conventional Radiology) gồm các kỹ thuật chẩn đoán
dùng tia X từ thời Rontgen ứng dụng cho đến nay vẫn còn một vai trò nhất định trong chẩn
đoán hàng ngày. Một vấn đề thời sự gắn liền với X quang thường quy là X quang kỹ thuật số
(Computed Radiography) đang được cập nhật nhằm số hoá các hình ảnh X quang để lưu trữ,
xử lý như các ảnh kỹ thuật số khác.
- Siêu âm hay siêu âm cắt lớp (Ultrasound, Sonography, Echographie, Echotomographie) bao
gồm các kỹ thuật siêu âm cổ điển và hiện đại, yếu tố vật lý cơ bản là áp dụng sóng siêu âm.
- Cắt lớp vi tính hay Cắt lớp điện toán (Computed Tomography Scanner - CT,
Tomodensitométrie - TDM, Scanographie). Ứng dụng đo tỉ trọng của mô sau khi tia X đi
xuyên qua cơ thể, nhờ máy vi tính thu thập dữ liệu, tái tạo ảnh nhờ kỹ thuật số.
- Cộng hưởng từ trước đây còn gọi là cộng hưởng từ hạt nhân (Magnetic Resonance
Imaging). Phối hợp sự tính toán của máy vi tính và sự cộng hưởng từ trường có trong nhân H
+


của nước trong các mô của cơ thể để tạo ảnh.
- Chụp mạch máu và X quang can thiệp (Angiography and Interventional Radiography):
Bằng cách đưa các catheter qua đường các mạch máu ta có thể bơm thuốc cản quang để chụp
hoặc để can thiệp điều trị một số bệnh. Cũng từ thập kỷ 1970, kỹ thuật số ra đời phát triển
nhanh chóng, đã tạo tiền đề cho CĐHA nói chung và chụp mạch máu nói riêng có những
thành tựu mới. Do đó kỹ thuật số hóa hình ảnh thay thế dần các kỹ thuật quy ước, chụp mạch
máu có tên mới là “Chụp mạch máu số hóa xóa nền” (Digital Subtraction Angiography -
DSA).
Qua hình ảnh số hóa, việc xác định xâm nhập vào các mạch máu nhỏ trong cơ thể trở nên dễ
dàng và chính xác hơn, nhờ đó các nhà X quang có thể mượn đường các catheter để đưa hóa
chất và các vật liệu khác vào tiêu điểm cần can thiệp để điều trị, đó là X quang can thiệp.
Chính lĩnh vực này, mà ngày nay người ta có xu hướng xếp khoa CĐHA vào cụm các khoa
lâm sàng, chứ không hẳn là khoa Cận lâm sàng như trước.
Ngoài ra còn có một số bộ phận chẩn đoán bằng hình ảnh, nhưng không thuộc khoa CĐHA
như Nội soi, chụp Nhấp nháy đồng vị phóng xạ (Scintigraphy, Positron Emission
Tomography -PET, Single Photon Emission Computed Tomography - SPECT).

II. Các cơ sở vật lý của CĐHA
1. X quang quy ước
1.1. Cơ chế phát sinh ra tia X
Tia X được tạo ra nhờ chuyển đổi năng lượng từ các hạt electron thành các photon năng
lượng (quang năng) bên trong bóng phát tia X, dạng năng lượng mới này được điều chỉnh
qua các thông số về điện như: điện thế - KV, cường độ dòng điện - mA, thời gian phát tia X -
sec.
- Bóng X quang: là một bóng thủy tinh, bên trong là chân không (bóng Coolidge). Có hai
cực:
Cực âm: (cathode) được cấu tạo bằng cuộn dây tungsten đặt trong một thanh kim loại có
hình chiếc tách được đốt nóng lên bởi nguồn điện từ 6 – 10 vôn, có chức năng cơ bản là tạo ra
các hạt đ
iện tử (electron), rồi tập trung lại thành luồng hướng vào đích là cực dương.



3
Cực dương: (anode) hay đối âm cực là thanh kim loại rắn, có độ nóng chảy cao, có số
nguyên tử Z lớn như bạch kim (74), wolffram, tungsten - rhenium, molybdenum, Rhodium
nối với cực dương của dòng điện có hai chức năng cơ bản là chuyển năng lượng điện thành
bức xạ tia X và tải nhiệt.
- Sản xuất ra tia X: Khi đốt nóng âm cực tạo ra các hạt điện tử (HĐT), dưới tác dụng của độ
chênh điện thế cao ít nhất là 40.000volt, các HĐT bị lực hút kéo về dương cực với vận tốc rất
lớn. Khi các HĐT va chạm với cực dương tạo ra nhiệt năng (99%) và bức xạ tia X (< 1%).
Lực gia tốc của các HĐT phụ thuộc vào hiệu số điện thế của dòng điện được tính bằng KV và
chất lượng của chùm HĐT phụ thuộc vào cường độ dòng điện tính bằng mA.
- Bản chất của tia X: là một bức xạ điện từ, gồm các sóng dao động theo chu kỳ hình sin,
cùng nhóm với các sóng vô tuyến điện, ánh sáng, các bức xạ I ông hoá như tia vũ trụ, tia
Gamma, các bức xạ đồng vị. Trong số phổ sóng điện từ này ta thấy ở cực cao là tai Hồng
ngoại 7200 A
0
, tiếp đến là ánh sáng trắng 3900 A
0
, ở cực thấp là tia Vũ trụ, tia X bước sóng
từ 5A
0
- 0,01 A
0
, A
0
= 10
-6cm
có bước sóng từ 0,01 – 0,0001A
0

, tia Gamma .
- Tính chất của tia X:
+ Có khả năng đâm xuyên qua cơ thể người, khả năng này phụ thuộc nhiều vào yếu tố như độ
dài sóng của tia, bề dày, trọng lượng nguyên tử của vật.
+ Tia kích sáng một số muối kim loại, ứng dụng để chiếu trên màn huỳnh quang hay trên
bóng tăng sáng truyền hình.
+ Tia có khả năng ion hóa, ứng dụng cho việc chế tạo các buồng đếm, các loại detector đo
lường, dùng trong kỹ thuật số.
+ Tia tác dụng lên nhũ tương trên phim ảnh, đi theo mọi hướng và theo đường thẳng.
+ Số lượng tia sẽ giảm đi theo tỷ lệ nghịch với bình phương của khoảng cách.
+ Tia có tác dụng sinh học ứng dụng trong xạ trị liệu, thận trọng đối với các dòng tế bào non,
tủy xương tạo huyết, thủy tinh thể, bào thai kỳ đầu.
1.2. Cơ chế tạo ảnh X quang
- Nguyên lý chiếu X quang cổ điển:
+ Ứng dụng tính chất đâm xuyên qua cơ chất của tia X.
+ Tính chất suy giảm chùm tia X sau khi đi qua các cơ chất khác nhau.
+ Tích chất kích sáng muối kim loại trên màn huỳnh quang.
+ Nguyên lý hình chiếu trong không gian ba chiều, cho phép phân tích được hình ánh sáng tối
bình thường, bệnh lý các cơ quan trong cơ thể trong buồng tối.
- Nguyên lý chiếu X quang tăng ánh sáng truyền hình:
Với nguyên tắc như trên, nhưng thay màn huỳnh quang bằng bóng tăng độ sáng. Làm tăng
sáng lên hàng ngàn lần, cho phép chiếu được trong buồng ánh sáng thường.
- Nguyên lý chụp X quang thường quy:
+ Ứng dụng tích chất đâm xuyên qua cơ chất của tia X.
+ Nhờ tác dụng của tia X lên nhủ tương có muối Bạc trên phim.
+ Với kỹ thuật tráng rữa phim và hiệu ứng suy giảm tia X khác nhau sau khi qua các mô khác
nhau, ta có hình ảnh trắng đen, xáp trên phim. Độ tương phản của trắng và đen có được ta gọi
là độ đối quang (contrast).



4
- Nguyên lý chụp Cắt lớp cổ điển:
+ Thay vì bóng X quang và phim cố định trong chụp thường quy, trong chụp cắt lớp cổ điển
có sự di chuyển đồng bộ ngược chiều giữa bóng và phim để xóa các chi tiết trên và dưới lớp
cắt. Ngày nay người ta bỏ phương pháp này, vì độ phân giải trên hình ảnh rất thấp chất lượng
không cao.
1.3. Chất lượng của hình ảnh X quang
Chất lượng hình ảnh Y học nói chung, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phương pháp ghi
hình, đặc điểm của thiết bị, người vận hành kỹ thuật Chất lượng hình ảnh phụ thuộc vào 5
yếu tố sau: độ tương phản, hình mờ, hình nhiễu (noise), ảnh giả (artifact), hình biến dạng.
Riêng hành ảnh X quang có hai yếu tố quan trọng:
- Độ tương phản (contrast): tức là độ đối quang, do sự khác nhau giữa vùng sáng và vùng đen
trên phim, nó phụ thuộc vào kỹ thuật chụp và người quan sát. Ta biết rằng sau khi đi xuyên
qua cơ thể tia X bị hấp thụ và bị suy giảm một cách khác nhau, vì vậy sự tác dụng lên nhũ
tương trên phim cũng khác nhau: nơi nào không bị suy giảm sẽ tạo nên vùng đen, nơi nào bị
suy giảm nhiều tạo nên vùng trắng. Tương tự ta có những vùng xám nhiều hay ít tùy thuộc
vào hệ số hấp thụ, và xuất hiện thuật ngữ “nấc thang xám” (gray scale). Trong hình ảnh X
quang thường quy có 4 nấc cơ bản là đen của không khí, xám sẫm của mỡ, xám nhạt của nước
và mô nềm, trắng của xương.
- Sự rõ nét của hình ảnh (sharpness): là sự phân biệt giữa các đường khác nhau trên phim, độ
rõ nét càng cao đường bờ càng rõ. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như:
+ Kích thước tiêu điểm phát tia, nếu càng nhỏ độ nét càng cao và ngược lại.
+ Khoảng cách vật phim, càng gần phim càng rõ và ngược lại.
+ Sự cố định của vật tạo cho hình ảnh rõ nét, nếu chuyển động tạo hình mờ.
+ Thời gian chụp, càng ngắn hạn chế được sự chuyển động, hình ảnh càng rõ.
1.4. Cách đọc phim X quang gồm 2 giai đoạn
- Phân tích hình ảnh: là động tác quan sát, mô tả về:
+ Tư thế bệnh nhân.
+ Phương pháp chụp.
+ Hình dáng, kích thước, vị trí, tính chất của hình ảnh bình thường hoặc bất thường khi so

sánh với giải phẫu X quang, tập hợp thành các triệu chứng, hội chứng. Trong giai đoạn này
cần tránh sai lầm hoặc bỏ sót, do đó cần quan sát tỉ mỉ.
- Tổng hợp các dấu hiệu: là giai đoạn tổng kết, đối chiếu các dấu hiệu nói trên với triệu chứng
lâm sàng, các xét nghiệm khác. Để hướng đến chẩn đoán gần đúng với giải phẫu bệnh nhất.
Giai đoạn này rất phụ thuộc vào kỹ năng của từng nhà chẩn đoán hình ảnh học.
1.5. Các hình ảnh cơ bản của X quang thường quy
- Tăng độ cản quang (hyperdensity): khi ta thấy một vùng trắng hơn so với mức bình thường
với chính nó.
- Giảm độ cản quang (hypodensity): còn gọi là hình quá sáng, biểu hiện một vùng xám hơn
mức bình thường của nó.
- Hình khuyết: có thể gặp trong các trạng rỗng, là hình xâm nhập vào lòng ống tiêu hóa hoặc
trong các xương của cơ thể làm cho thuốc cản quang không ngấm được. Do các nguyên nhân
sau:


5
+ Chèn ép từ bên ngoài: gây ra triệu chứng đầy đủ khu trú, việc chẩn đoán sẽ dựa trên
góc nối để phân biệt khối u ở trong hay ở ngoài thành ống, u ở trong thành góc nối là góc
nhọn; ở ngoài thành là góc tù. Dựa trên tâm của cung tròn so với thành: tâm ở trong là trong
thành, tâm ở ngoài là ngoài thành.
- Hình lồi: là hình xâm lấn vào trong thành ống tiêu hóa, tương ừng là các ổ loét hay túi thừa
tạo nên cái túi và thuốc cản quang sẽ chui vào. Ta dễ thấy hình này khi chụp tiếp tuyến hay
chụp nghiêng.
- Hình hơi dịch: hơi nằm trên và mức dịch nằm ngang, hình này chỉ thấy khi chùm tia đi song
song với mức dịch, cho dù ở bất kỳ trước thế nào.
2. Siêu âm cắt lớp
2.1. Cơ sở vật lý của siêu âm
- Cơ chế phát sóng âm: Sóng âm được tạo ra do chuyển đổi năng lượng từ điện thành các
sóng xung tương tự như phát xạ tia X, phát ra từ các đầu dò, có cấu trúc cơ bản là gốm áp
điện (piezo-electric). Sóng âm thanh chỉ truyền qua vật chất mà không truyền qua được chân

không, vì không có hiện tượng rung.
Một trong những đặc điểm cơ bản nhất là tần số sóng âm phụ thuộc vào bản chất của vật có
độ rung khác nhau. Đơn vị đo tần số là Hertz, tức là số chu kỳ dao động trong một giây.
- Bản chất của Siêu âm: để hiểu được siêu âm ta phải hiểu âm thanh, đó là những dao động
sóng hình sin có tần số từ 20Hz - 20.000Hz. nếu sóng âm tần số thấp < 20Hz gọi là Hạ âm, >
20.000Hz gọi Siêu âm. Trong lĩnh vực Y tế người ta dùng sóng âm với tần số từ 2 MHz đến
20 MHz (1 MHz = 10
9
Hz) tùy theo yêu cầu thăm khám.
- Tính chất của Siêu âm:
+ Sự lan tuyền của sóng âm - Sự suy giảm và hấp thu:
Trong môi trường có cấu trúc đồng nhất, sóng âm lan truyền theo đường thẳng, và bị mất
năng lượng dần gọi là suy giảm. Sự suy giảm theo luật nghịch đạo của bình phương khoảng
cách. Sự hấp thu quan trọng của năng lượng âm gặp vật chất tạo nhiệt. Tuy nhiên sự mất năng
lượng trong siêu âm không giống bức xạ tia X, vì ở đây còn có hiệu ứng quang từ hoặc hiệu
ứng Compton. Vận tốc truyền sóng âm phụ thuộc vào độ cứng và tỷ trọng của môi trường vật
chất xuyên qua, trong cơ thể người: mỡ 1450; nước 1480; mô mềm 1540; xương 4100 m/s.
+ Sự phản xạ hay phản hồi:
Trong môi trường có cấu trúc không đồng nhất, một phần sóng âm sẽ phản hồi ở mặt phẳng
thẳng góc với chùm sóng âm tạo nên âm dội hay âm vang (echo), phần còn lại sẽ lan truyền
theo hướng của chùm sóng âm phát ra. Như vậy, ở đường ranh giới giữa hai môi trường có trở
kháng âm (acoustic impedance), ký hiệu là Z, Z khác nhau tùy thuộc cấu trúc của vật chất đặc
biệt là số nguyên tử. Sóng phản hồi sẽ thu nhận bởi đầu dò, sau đó được xử lý trong máy và
truyền ảnh lên màn hình (display), hoặc ghi lại trên phim, giấy in hoặc trên băng đĩa từ. Tất
nhiên các sóng phản hồi không được thu nhận bởi đầu dò sẽ bị biến mất theo luật suy giảm.
+ Sự khúc xạ, nhiễu âm:
Khi chùm sóng đi qua mặt phẳng phân cách với một góc nhỏ, chùm âm phát ra sẽ bị thụt lùi
một khoảng so với chùm âm tới còn gọi là nhiễu âm. Chính điều này sẽ tạo ra ảnh giả.
- Đầu dò (Transducer - Probe): làm nhiệm vụ vừa phát vừa thu sóng âm phản hồi. Nó bao
gồm một hoặc nhiều miếng gốm áp điện (piezo-eletric), khi có dòng điện xoay chiều tần số

cao khích thích vào miếng gốm này làm cho nó co giãn và phát ra xung siêu âm. Ngược lại


6
khi miếng áp điện rung lên do sóng siêu âm dội trở về sẽ tạo ra một xung động. Sóng siêu âm
lan truyền vào các mô trong cơ thể, gặp các mặt phẳng sẽ gặp các sóng âm dội trở về. Mỗi âm
dội mà đầu dò thu nhận được sẽ chuyển thành tín hiệu điện, từ tín hiệu này sẽ được chuyển
thành tín hiệu trên màn hình, và tất cả chùm sóng âm quét tạo nên hình ảnh siêu âm.
Tùy theo máy và hãng sản xuất, các đầu dò quét được nhờ một hệ thống cơ khí hay điện tử,
với chùm thăm dò theo hình chữ nhật hay rẽ quạt.
+ Đầu dò quét cơ học:
Trong đầu dò có bộ chuyển động được gắn với tinh thể gốm áp điện hoặc một tấm gương
phản âm. Chức năng của bộ này giống như một bộ đèn pha quét ánh sáng chùm đơn, chuyển
động nhờ một bánh xe hoặc một chuyển động kế. Các dao động sóng sẽ phản chiếu nhờ tấm
gương.
+ Đầu dò quét điện tử:
Các tinh thể gốm áp điện được xếp thành một dãy theo chiều ngang (tuyến tính), được mở ra
một cửa sổ (aperture) nhỏ lớn phụ thuộc vào số lượng tinh thể, chiều rộng của chùm sóng âm
khi phát ra.

Đầu dò Bộ phận xử lý Bộ phận hiển thị

- Các loại kỹ thuật siêu âm:
+ Siêu âm kiểu A (Amplitude): ghi lại sóng phản hồi bằng những xung nhọn, mà vị trí tương
ứng với chiều sâu và biên đô tỷ lệ thuận với cường độ của âm vang. Kiểu A ít có giá trị về
chẩn đoán. Mà dùng để kiểm tra sự chính xác của máy siêu âm.
+ Siêu âm kiểu B hay 2 chiều (2D - bidimention): mỗi sóng xung kiểu A đều được ghi lại
bằng một chấm sáng nhiều hay ít tùy theo cường độ của âm dội. Sự di chuyển của đầu dò trên
da bệnh nhân cho phép ghi lại cấu trúc âm của các mô trong cơ thể nằm trên mặt phẳng quét
của chùm tia, đây là phương pháp siêu âm cắt lớp (Echotomography). Hình thu được từ các

âm vang này sẽ được lưu trữ trong bộ nhớ và chuyển thành tín hiệu trên màn truyền bằng các
chấm trắng đen, xám.
+ Siêu âm kiểu Động (Dynamic): là một kiểu hai chiều với tốc độ quét nhanh, tạo nên hình
ảnh theo thời gian thực (real time). Kiểu Động so với kiểu B tựa như điện ảnh so với chụp
ảnh.
+ Siêu âm kiểu TM (Time Motion): trong kiểu siêu âm này âm vang sẽ ghi lại theo kiểu A,
nhưng chuyển động theo thời gian nhờ màn hình quét ngang thường xuyên. Do đó những cấu
trúc đứng yên trên màn hình là một đường thẳng, còn những cấu trúc chuyển động là một
đường cong ngoằn nghèo tùy theo sự chuyển động của cơ quan thăm khám. Siêu âm kiểu này
thường dùng để khám tim.
BỘ PHẬN
PHÁT SÓNG
ÂM


BỘ PHẬN THU
SÓNG ÂM
MÁY VI TÍNH
MÀN HÌNH

MÁY IN

CÁC ĐĨA
LƯU TRỮ


7
+ Siêu âm kiểu Doppler (Động): Dùng hiệu ứng Doppler của siêu âm để đo tốc độ tuần hoàn,
xác định hướng của dòng máu và đánh giá lưu lượng máu. Có 3 loại Doppler: D. liên tục, D.
xung, D. màu, người ta thường phối hợp hệ thống D. với siêu âm cắt lớp theo thời gian thật

gọi là siêu âm DUPLEX. Ngày nay người ta còn mã hóa các dòng chảy của siêu âm chính là
siêu âm Động-màu, siêu âm D năng lượng (Power Doppler), siêu âm tổ chức (tissue doppler)
và siêu âm chiều rất tiện cho việc thăm khám Tim-Mạch, sản khoa.
2.2. Tạo ảnh siêu âm
Theo nguyên tắc vật lý, người ta ứng dụng các tính chất sau đây của siêu âm cho vấn đề tạo
ảnh:
- Tính lan truyền qua vật chấn của sóng âm.
- Tính phản hồi khi qua các mặt phẳng phân cách.
- Chuyển sóng âm thành năng lượng điện sau đó mã hóa số phát trên màn cảm quang âm cực
(photocathode) của màn hình. Vì sóng âm sẽ suy giảm cường độ theo luật nghịch đảo của
bình phương khoảng cách, do đó muốn có một hình ảnh siêu âm đẹp, ta cần có những đầu dò
thích hợp với chiều sâu của câu trúc thăm dò, ngoài ra cần điều chỉnh tốc độ khuyếch đại của
các âm vang nông và tăng cường độ khuyếch đại của âm vang sâu, làm cho cường độ của
chúng đồng đều gọi là đều chỉnh bù theo độ sâu (Deep gain compensation DGC - Time gain
compensation TGC).
- Ta có thể vừa xem ảnh siêu âm qua màn hình, vừa có thể nối với hệ thống in
nhiệt, laser - camara - chụp phim polaroid hay ghi băng từ, đĩa từ để lưu trữ.
2.3. Các hình ảnh cơ bản của siêu âm
- Cấu trúc của dịch lỏng: (bàng quang, túi mật, u nang) có cấu trúc đồng đều thể hiện một
vùng rỗng âm (anechogen, echo - free). Sóng âm dễ dàng truyền trong môi trường lỏng nên ít
bị suy giảm hơn các vùng xung quanh, do đó có hiện tượng tăng âm phía sau một cấu trúc
dịch đồng nhất (acoustic enhencement).
- Cấu trúc đặc có đậm độ cao hơn nhu mô ở chung quanh: sẽ thể hiện bằng một vùng tăng âm
(hyperéchogène, echo rich), tuy nhiêm cũng có các loại u giảm âm và sau vùng tăng âm là
vùng giảm âm (attenuation posterieur).
- Một số cấu trúc rất đặc: (vôi hóa, sỏi, xương) có tác dụng nhu một lá chắn, sóng âm sẽ phản
hồi hoàn toàn ở bề mặt phân cách tạo nên vùng âm rất rõ, phía sau là một vùng trống âm tức
là sóng âm đã bị chặn lại bởi lá chắn. Vùng này được gọi là “bóng lưng” (Cône d’ombre
postérieur, acoustic shadowing).
- Một số vùng giảm âm (hypoéchogène, echo- poor) do có cấu trúc nửa lỏng nửa đặc, ví dụ ổ

áp xe hay một u hoại tử có thể có hình siêu âm giống nhau.
- Hơi trong các tổ chức có tác dụng làm khuyếch tán, phản hồi, hấp thụ và khúc xạ ngay tại bề
mặt tiếp xúc. Điều này làm cho ta rất khó đánh giá các cấu trúc ở sau bề mặt này, người ta
thường dùng thuật ngữ “bóng lưng bẩn” (dirty acoustic shadow) để mô tả hơi ở trong ống tiêu
hoá.
2.4. Nghiên cứu ảnh siêu âm
Một trong những ưu điểm của thăm khám siêu âm là cho phép cắt lớp tất cả các mặt phẳng
trong không gian, mà không chỉ cắt ngang như cắt lớp vi tính. Đồng thời có


8
thể tái tạo thành ảnh ba chiều (3 dimention - 3D) và 4 chiều (4D). Điều này đòi hỏi các bác sỹ
thăm khám siêu âm cần phải nắm rất chắc giải phẫu định khu cơ thể và kỹ thuật khám siêu
âm.
Trong thực tế người khám phải cắt rất nhiều lớp khác nhau, với các góc quét khác nhau để
chẩn đoán, còn khi chụp chỉ ghi lại những hình ảnh đặc trưng mà thôi. Giống như cắt lớp vi
tính, theo quy ước những lớp được cắt ngang được trình bày như khi người quan sát đứng ở
phía chân nhìn lên. Những lớp cắt dọc chiều quy ước đầu bệnh nhân ở bên trái người quan sát,
chân ở phía phải.
3. Sơ lược về Cắt lớp vi tính và Cộng hưởng từ
3.1. Chụp cắt lớp vi tính (CLVT)
Còn được gọi là Cắt lớp điện toán, chụp Cắt lớp đo tỷ trọng (Computed, Tomography
Scanner, Tomodensitométrie, Scannography).

- Dựa trên nguyên lý cơ bản của X quang cổ điển, tức là sự hấp thụ tia X khác nhau của các
mô trong cơ thể tùy theo tỷ trọng của chính nó và trên các đo lường tính toán sự khác nhau về
tỉ trọng nhờ máy tính điện tử. Sự tái hiện hình ảnh lên màn hình hoặc trên phim, khi Gantry
quét vòng tròn cho những hình ảnh cắt lớp ngang qua cơ thể. Vì vậy trên sơ đồ khối của máy
chụp CLVT ta có 3 cụm chức năng chính:



Gantry Bộ phận xử lý Bộ phận hiển thị

+ Cụm phát (bóng phát tia X) và thu tín hiệu tia X (detector): gọi là GANTRY.
+ Cụm đo lường, tính toán, xử lý, lưu trữ dữ liệu số hóa: Máy vi tính.
+ Cụm tạo ảnh (tái cấu trúc hình ảnh - Imaging Reconstruction): Màn hình (Monitor, display),
máy in Laser, các ổ đĩa từ, đĩa quang (Magnetic Optical Disc).
- Đã có nhiều thế hệ máy ra đời nhằm cải tiến chất lượng và hiệu quả chẩn đóan, gần đây nhất
là sự ra đời của máy CLVT thế hệ mới, Cắt lớp diện toán cực nhanh (Electron Beam Ultrafast
Scanner - EBUS - EBCT), cho phép thấy được những hình ảnh chuyển động theo thời gian
thực (real time), chẳng hạn cho ta có thể xem phổi, khí quản hoạt động trong các kỳ hô hấp
(Webb WR và cs 1992).

3.2. Chụp Cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Imaging)
BÓNG
PHÁT TIA X


BỘ PHẬN
THU TÍN
HIỆU
MÁY VI TÍNH
MÀN
HÌNH

MÁY IN

CÁC ĐĨA
LƯU TRỮ



9
- Dựa trên nguyên lý cộng hưởng từ trường của các hạt nhân H
+
có trong dịch nội và ngoại
bào, các tổ chức trong cơ thể.
- Dựa trên các phép đo lường tính toán sự khác nhau (algorythm) về tín hiệu từ (magnetic
signal) của các mô cơ thê nhờ máy tính điện tử và kỹ thuật số.
- Sự tái hiện hình ảnh lên màn hình hoặc trên phim, khi Gantry quét vòng tròn qua cơ thể cho
ta những hình ảnh cắt lớp ngang, dọc đa chiều (Multiptlanar) tùy trường nhìn được chọn.

Gantry Bộ phận xử lý Bộ phận hiển thị

CÁC BỘ PHẬN
CỘNG
HƯỞNG TỪ
TRƯỜNG
MÀN
HÌNH


MÁY IN

CÁC ĐĨA
LƯU TRỮ
MÁY VI TÍNH





TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bài giảng Chẩn đoán hình ảnh Trường Đại học Y khoa Hà Nội, NXB Y học, Hà Nội
2001.
2. Bài giảng Chẩn đoán hình ảnh đại học, Trường đại học Y khoa Huế, 2003-2004.
3. Bài giảng Chẩn đoán hình ảnh sau đại học, Trường đại học Y khoa Huế, 2004.
4. P. Sprawls. Physical principles of Medical Imaging. An Aspen Publication, Maryland,
1993.
5. Euclide Seeram. Physical Principles Clinical Applications and Quality control. WB
Saunders 1994.
6. J.P. Monnier. Abreges d’lmagerie Medicale. Masson, Paris 1994 (Đã dịch sang tiếng
Việt năm 1998).
7. Doyon D, Cabanis E-A, I ba Zizen M-T, Roger B. Principles de base d’IRM. 4e
edition. Masson, Paris 2004. I: 1-18.
8. Doyon D, Cabanis E-A, I ba Zizen M-T, Roger B, Frija J, Pariente D, Idy I, Peretty.
Semiologie en Imagerie par Resonance Magnetique. 4e edition. Masson, Paris 2004.
II: 29-54.

×