Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Các mô hình phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.03 KB, 90 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hội nhập và phát triển như hiện nay, số lượng ngân
hàng mới được thành lập ngày càng nhiều khiến cho tình hình cạnh tranh
ngày càng trở nên gay gắt. Các ngân hàng không chỉ tìm kiếm, tiếp thị khách
hàng mới, mở rộng thị trường mà còn phải vừa tìm cách phát triển, hoàn thiện
các dịch vụ, sản phẩm; vừa đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Trong bối cảnh đó, hoàn thiện công tác quản trị rủi ro là một hoạt động quan
trọng, cần thiết đối với mỗi ngân hàng.
Trên thế giới, hệ thống quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng đã
được xây dựng, phát triển từ lâu. Ở Việt Nam, công tác quản trị rủi ro mới
được đưa vào sử dụng và đang trong quá trình hoàn thiện. Trong quá trình áp
dụng, công tác quản trị rủi ro đã cho thấy vai trò và hiệu quả của mình. Hiện
nay, có những ngân hàng 100% vốn nước ngoài tham gia kinh doanh tại Việt
Nam như HSBC (Việt Nam), Standard Chartered Việt Nam,…Họ có công
nghệ, nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quản trị rủi ro. Sắp tới có thể những
ngân hàng lớn của thế giới sẽ tham gia vào thị trường Việt Nam, các ngân
hàng thương mại trong nước đang đứng trước những thách thức lớn.
Nền kinh tế thế giới vừa trải qua cuộc khủng khoảng tài chính. Hậu quả
của nó ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ kinh tế thế giới, không ít ngân hàng
bị phá sản. Bài học của nó về quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng có giá
trị quan trọng. Càng khiến cho quá trình hoàn thiện công tác quản trị rủi ro ở
các ngân hàng thương mại Việt Nam diễn ra nhanh chóng.
Hiện nay, các ngân hàng chủ yếu sử dụng 2 mô hình: xếp hạng tín
dụng khách hàng doanh nghiệp và xếp hạng tín dụng cá nhân để phân tích,
đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay. Các ngân hàng xây dựng


cho mình mô hình xếp hạng tín dụng riêng nhưng đều có chung mục đích là
ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, giảm bớt tỷ lệ nợ xấu phải trích dự
phòng rủi ro, đáp ứng các yêu cầu của Basel và Ngân hàng nhà nước.
Bởi vì những lý do trên, em đã chọn đề tài “Các mô hình phân tích,
đánh giá rủi ro tín dụng và ứng dụng mô hình Logistic trong xếp hạng tín
dụng doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng GP.Bank” để làm đề tài nghiên
cứu cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần:
Chương I: Tổng quan về rủi ro tín dụng và các mô hình phân tích, đánh giá rủi ro
tín dụng trong kinh doanh ngân hàng thương mại.
Chương II: Một số mô hình đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của
ngân hàng GP.Bank.
Chương III: Ứng dụng mô hình Logistic trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại
ngân hàng GP.Bank.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của thầy giáo
TS.Trần Trọng Nguyên – Khoa Toán kinh tế; cảm ơn các cán bộ nhân viên trong
Ngân hàng GP-bank nói chung cùng các anh chị Phòng Hỗ trợ tín dụng chi nhánh
Thăng Long nói riêng đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÁC MÔ HÌNH PHÂN TÍCH,
ĐÁNH GIÁ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1- KHÁI QUÁT VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Rủi ro tín dụng là gì?
Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt –
hàng hóa tiền tệ. Đa phần trong đó là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Tài
sản của NH chủ yếu là các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng khoán) với
tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh NH

có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau song đều có chung bản chất,
đó là khả năng xảy ra những tổn thất cho NH. Hoạt động tín dụng mang lại nhiều
lợi nhuận nhất cho ngân hàng, đồng thời cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro
nhất.
Rủi ro tín dụng là kết quả của việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng
và trong hợp đồng tín dụng ngân hàng nhận được cam kết là sẽ thanh toán cả gốc và
lãi đầy đủ đúng hạn của khách hàng. RRTD phát sinh trong trường hợp ngân hàng
không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ
gốc và lãi không đúng kỳ hạn.
Theo quan điểm quản lí toàn bộ ngân hàng, RRTD là không thể tránh khỏi,
là khách quan. Nhiều quan điểm cho rằng RRTD là bạn đường trong kinh doanh, có
thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Do vậy, RRTD dự kiến luôn được xác
định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng.
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy theo mục đích, yêu
cầu nghiên cứu. Tùy theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro tín dụng thành
các loại khác nhau.
- Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được chia thành các loại
sau đây:
Rủi ro giao dịch là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do
những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng.
Rủi ro giao dịch bao gồm: rủi ro lựa chọn (rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá
và phân tích tín dụng, phương án vay vốn để quyết định tài trợ của ngân hàng); rủi
ro bảo đảm (rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như mức cho vay, loại tài
sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo,…); rủi ro nghiệp vụ (rủi ro liên quan đến công tác
quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp
hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề).
Rủi ro danh mục là RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế
trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành rủi ro nội tại (xuất
phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của khách hàng vay vốn, lĩnh vực kinh

tế) và rủi ro tập trung (rủi ro do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào một số
khách hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc
cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao).
- Căn cứ theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro thì rủi ro tín
dụng được phân thành rủi ro khách quan, rủi ro chủ quan.
1.1.3. Đặc điểm của rủi ro tín dụng.
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc điểm
của rủi ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. RRTD có những đặc điểm cơ bản sau:
Rủi ro
tín dụng
Rủi ro
giao dịch
Rủi ro
danh mục
Rủi ro
lựa chọn
Rủi ro
đảm bảo
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro
nội tại
Rủi ro
tập trung
- RRTD mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao
quyền sử dụng vốn cho khách hàng. RRTD xảy ra khi khách hàng gặp những tổn
thất, thất bại trong quá trình sử dụng vốn. Nói cách khác, những rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây ra RRTD của ngân
hàng.
- RRTD có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng,

phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của RRTD do đặc trưng ngân hàng là
trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ.
- RRTD có tính tất yếu, tức là luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của
NHTM: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt
được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho bất cứ
khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng.
1.1.4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
1.1.4.1. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
 Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới:
- Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:
- Sự tấn công của hàng nhập lậu.
- Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng
thừa về đầu tư trong một số ngành:
 Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
- Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều
luật,văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng
ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động
ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như
một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng
và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực
cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ
kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và
phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò kiểm toán
chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu.
- Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:

Hiện nay ở VN chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã
hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng
khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng
nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và
hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật. Đó cũng là thách thức
cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế
trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng.
1.1.4.2. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan
 Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch.
 Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay
- Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng.
- Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay.
- Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan
hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của
các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng
ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi,
đang định hướng mô hình phát triển ở VN. Trong phạm vi tầm tay của các ngân
hàng, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát
hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời
gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và
nhân viên của họ và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật
chất. Do vậy biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp
liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của
cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho

rằng con đường quản lý rủi ro tín dụng của ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn
một nửa.
1.1.5. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng.
Tuy RRTD là khách quan, song ngân hàng phải quản lí RRTD nhằm hạn chế
đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh
RRTD, ngân hàng cụ thể hóa thành những chỉ tiêu hoặc dấu hiệu chính phát sinh
trong hoạt động tín dụng phản ánh RRTD:
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.
- Nợ có vấn đề
- Tính đa dạng hóa của tài sản.
- Tình hình tài chính và phương án của người vay( các yếu tố của người vay)
hoặc xếp hạng tín dụng người vay.
- Đảm bảo tiền vay
- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng
- Môi trường hoạt động của người vay.
1.2- CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG.
1.2.1- Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho
vay tại ngân hàng.
Đối với ngân hàng, cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản trong nền
kinh tế thị trường. Hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh
ngân hàng; vừa là nguồn thu nhập chủ yếu, vừa là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro
nhất đối với ngân hàng. Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường
chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng 1/2 đến 2/3
tổng thu nhập của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu
hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào trạng
thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Vậy nên, hoàn thiện và tăng hiệu quả hệ thống quản
trị rủi ro tín dụng luôn là mục tiêu quan trọng của mọi ngân hàng.

Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình nhận dạng, đo lường, kiểm soát và giải
quyết hậu quả của rủi ro tín dụng. Mỗi ngân hàng có những điều kiện, mục tiêu hoạt
động tín dụng khác nhau cho nên rủi ro tín dụng của từng ngân hàng là khác nhau.
Do đó, mỗi ngân hàng phải tự xây dựng riêng cho mình hệ thống quản trị rủi ro tín
dụng phù hợp với điều kiện hoạt động và mục tiêu đề ra.
1.2.2- Ủy ban Basel và công tác quản trị rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân
hàng.
Sau hàng loạt vụ sụp đổ của các ngân hàng vào thập kỷ 80, một nhóm các
Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) đã tập
hợp tại thành phố Basel, Thụy Sĩ vào năm 1987 tìm cách ngăn chặn xu hướng này.
Sau khi nhóm họp, các cơ quan này đã quyết định hình thành Uỷ ban Basel về giám
sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision), đưa ra các nguyên tắc
chung để quản lý hoạt động của các ngân hàng quốc tế.
Trải qua hơn 20 năm phát triển, từ chỗ là diễn đàn trao đổi kinh nghiêm,
hợp tác quốc tế về thanh tra và giám sát ngân hàng, Ủy ban Basel ngày nay đã
trở thành cơ quan xây dựng và phát triển các chuẩn mực ngân hàng được quốc tế
công nhận. Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu, 2 Hiệp
ước Basel I và Basel II; thực chất là đưa ra các nguyên tắc trong quản trị rủi ro
tín dụng, bảo đảm tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng.
Ứng dụng trong việc xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên
tắc Basel có một số điểm cơ bản:
- Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín
dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận
tham gia.
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng.
- Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì mộ quá
trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và quản lý
rủi ro tín dụng.
1.2.3. Đo lường rủi ro tín dụng.
Các nhà kinh tế, các nhà phân tích ngân hàng đã sử dụng nhiều mô hình

khác nhau để đánh giá RRTD. Bao gồm các mô hình phản ánh về mặt định lượng
(quantity models) và những mô hình phản ánh về mặt định tính – phương pháp
chất lượng, phương pháp chủ quan hay phương pháp truyền thống (quality,
subjective, expert, or traditional methods) của RRTD. Ngoài ra, các mô hình này
không loại trừ nhau, nên một ngân hàng có thể sử dụng nhiều mô hình để phân
tích đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng.
1.2.4. Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
Theo quy định của ngân hàng nhà nước theo nội dung quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày
25/04/2007 của Thống đốc ngân hàng nhà nước thì tổ chức tín dụng thực hiện phân
loại nợ thành 5 nhóm như sau:
- Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng
thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như
các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán;
- Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ.
- Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày.
- Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày.
- Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại
nợ như trên, tổ chức tín dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ
khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu
đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.
Tỷ lệ trích lập và công thức tính dự phòng cụ thể.
Cho dù được phân loại theo phương pháp nào, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
đối với các nhóm nợ 1, 2, 3, 4, và 5 lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Quyết
Định 493 đưa ra cách tính số tiền dự phòng bằng công thức hoàn toàn mới khác với

cách tính dự phòng quy định tại các quy định trước đây. Theo các quy định trước
đây, số tiền dự phòng chỉ đơn giản bằng tỷ lệ trích dự phòng nhân với tài sản có
từng nhóm. Trong khi đó, Quyết Định 493 đưa ra công thức tính số tiền dự phòng
như sau:
R = max {0, (A-C)} x r
trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị khoản nợ
C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết Định
493 quy định đối với từng loại tài sản bảo đảm)
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Như vậy, số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ
và tỷ lệ trích lập dự phòng, mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị
tài sản bảo đảm sau khi được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị khoản nợ, thì
số tiền dự phòng cũng bằng không có nghĩa là tổ chức tín dụng trên thực tế không
phải lập dự phòng cho khoản nợ đó.
Tóm lại, Quyết định 493 đặt ra yêu cầu quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao hơn
đối các ngân hàng. Đồng thời, chi phí phát sinh từ những thay đổi trên sẽ chuyển
sang khách hàng vay nên chi phí cho vay sẽ có thể tăng. Các ngân hàng cũng sẽ ưu
tiên cho việc cho vay có bảo đảm để giảm gánh nặng về dự phòng rủi ro. Đó là một
phương pháp để giảm thiểu rủi ro tín dụng.
1.3. CÁC MÔ HÌNH PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ RỦI RO TÍN DỤNG.
1.3.1. Mô hình định tính về rủi ro tín dụng.
1.3.1.1. Phân tích tín dụng.
Đối với mỗi đơn xin vay, cán bộ tín dụng cần phải trả lời được 3 câu hỏi
cơ bản sau:
- Người xin vay có thể tín nhiệm và Anh biết họ như thế nào?
- Hợp đồng tín dụng có được ký kết một cách đúng đắn và hợp lệ, nhằm bảo vệ
được ngân hàng và người gửi tiền, và người xin vay có khả năng hoàn trả nợ vay
mà không cần đến một sức ép nào?
- Trong trường hợp khách hàng không trả nợ, liệu ngân hàng có thể thu hồi nợ

bằng tài sản hay thu nhập của người vay một cách nhanh chóng với chi phí và rủi
ro thấp?
 Người xin vay có thể tín nhiệm?
Câu hỏi cần trả lời trước hết là: Người vay có thiện chí trả nợ khi khoản
vay đến hạn hay không? Điều này lại liên quan đến việc nghiên cứu chi tiết “6
khía cạnh- 6C” của người xin vay: tư cách (Character), năng lực (Capacity), thu
nhập (Cash), bảo đảm (Collateral), điều kiện (Conditions), kiểm soát (Control).
Tất cả các tiêu chí này phải được đánh giá tốt, thì khoản vay mới xem được là
khả thi.
• Tư cách người vay: Tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, mục đích rõ ràng
và thiện chí trả nợ của người vay gọi chung là tư cách người vay.
• Năng lực của người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin vay
có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng. Đối với
công ty, phải chắc chắn rằng người đại diện cho công ty ký kết hợp đồng tín
dụng phải là người được ủy quyền hợp pháp của công ty.
• Thu nhập của người vay: Tiêu chí thu nhập của người vay tập trung vào câu
hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ? Nhìn chung, người vay có 3
khả năng để tạo ra tiền:
- Luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập
- Bán thanh lý tài sản
- Tiền từ phát hành chứng khoán nợ hay chứng khoán vốn.
Ngân hàng ưu tiên hơn cả là khả năng thứ nhất và coi đây là nguồn thu
đầu tiên và căn bản để trả nợ vay ngân hàng. Cán bộ tín dụng đánh giá luồng tiền
của khách hàng thông qua việc hỏi và trả lời: thu nhập hay doanh thu có mức
tăng trưởng cao trong quá khứ là rõ ràng và chắc chắn? liệu mức tăng trưởng cao
này có được duy trì để hỗ trợ cho việc trả nợ vay ngân hàng? Thu nhập hiện hành
và trong quá khứ của người vay là bằng chứng quan trọng để trả lời các câu hỏi
trên.
• Bảo đảm tiền vay: Người vay có sở hữu một giá trị nào hay tài sản nào có chất
lượng để hỗ trợ cho khoản vay? Cán bộ tín dụng phải đặc biệt chú ý đến: tuổi

thọ, công nghệ, điều kiện, mức độ chuyên dụng của tài sản người vay.
• Các điều kiện: Cần phải biết được xu hướng hiện hành về công việc kinh
doanh và ngành nghề của người vay, cũng như khi điều kiện kinh tế thay đổi sẽ
có ảnh hưởng như thế nào đến khoản tín dụng.
• Kiểm soát.: Tập trung vào các vấn đề: các thay đổi trong luật pháp và quy chế
có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng
được tiêu chuẩn của ngân hàng và nhà quản lý về chất lượng tín dụng?
 Hợp đồng tín dụng có được ký kết đúng đắn và hợp lệ?
Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm và làm thỏa mãn yêu cầu đồng thời
của hai đối tượng là người vay và chủ nợ của ngân hàng ( bao gồm những người
gửi tiền và những người chủ sở hữu). Nội dung hợp đồng tín dụng phải đáp ứng
được nhu cầu vay vốn của người vay theo 1 kế hoạch trả nợ thuận lợi. Cán bộ tín
dụng phải có khả năng cố vấn tài chính cho khách hàng và hướng dẫn khách
hàng hoàn thành đơn xin vay.
Đồng thời, một hợp đồng tín dụng hợp lệ phải bảo vệ được quyền lợi của
ngân hàng bằng cách qui định những điều khoản giới hạn hoạt động của người
vay, nếu các hoạt động này đe dọa khả năng thu hồi vốn vay của ngân hàng. Quá
trình cưỡng chế thu hồi nợ vay cũng phải được qui định cụ thể và rõ ràng trong
hợp đồng tín dụng.
 Ngân hàng có thể đòi nợ thuận lợi bằng tài sản đảm bảo?
• Lý do nhận bảo đảm tín dụng.
Việc ngân hàng nhận bảo đảm tín dụng nhằm 2 mục đích: thứ nhất, nếu
người vay không trả nợ theo đúng qui định thì ngân hàng có quyền bán tài sản
cầm cố hay thế chấp để thu hồi nợ; thứ 2, nhận bảo đảm tín dụng tạo cho ngân
hàng lợi thế về mặt tâm lý so với người vay.
Khi nhận bảo đảm tín dụng, ngân hàng phải xác định rõ ràng và chính xác
những tài sản nào là đối tượng có thể gán nợ và có thể bán được, đồng thời phải
chứng minh được bằng văn bản cho các chủ nợ khác biết rằng mình là người hợp
pháp có quyền chiếm đoạt tài sản nếu như người vay không trả được nợ. Khi đã
nhận tài sản thế chấp, ngân hàng sẽ có vị thế ưu tiên trong việc nhận gán nợ so

với các chủ nợ khác và ngay cả với chủ sở hữu.
• Các loại bảo đảm tín dụng thông thường.
- Tài khoản phải thu: ngân hàng nhận bảo đảm tín dụng bằng việc qui định tỷ lệ
% ( 40- 90%) giá trị tài khoản phải thu( hàng bán chịu, hay tín dụng thương mại)
theo số liệu trên bảng cân đối tài chính.
- Bao thanh toán: Ngân hàng có thể mua tài khoản phải thu của người vay theo
một tỷ lệ % nhất định theo giá trị ghi sổ. Tỷ lệ % này phụ thuộc vào chất lượng
và thời hạn của các khoản phải thu.
- Hàng tồn kho: ngân hàng có thể nhận hàng tồn kho, vật tư, nguyên liệu của
người vay làm tài sản cầm cố. Thông thường, ngân hàng chỉ cho vay 1 tỷ lệ nhất
định( từ 30- 80%) trên giá trị thị trường hiện hành của tài sản cầm cố.
- Thế chấp tài sản cố định: đất đai và các công trình gắn liền với đất.
- Bảo lãnh của bên thứ ba: là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay là sẽ thực
hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho người vay, nếu người vay không trả được nợ khi
đến hạn. Bảo lãnh có thể bảo đảm bằng tài sản hoặc uy tín.
1.3.1.2. Kiểm tra tín dụng.
• Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kì nhất định.
• Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung qua trình kiểm tra một cách thận
trọng và chi tiết, bảo đảm rằng những khía cạnh quan trọng nhất của mỗi khoản
tín dụng phải được kiểm tra.
- Kế hoạch trả nợ của khách hàng, nhằm bảo đảm rằng khách hàng không chậm
trễ trong việc thanh toán nợ theo kế hoạch.
- Chất lượng và điều kiện của tài sản dùng làm bảo đảm.
- Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng.
- Đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về người vay.
- Đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của ngân hàng
và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra.
• Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn.
• Quản lý chặt chẽ và thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề.
• Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đi xuống,

hoặc những ngành nghề sử dụng nhiều tín dụng của ngân hàng có những vấn đề
nghiêm trọng trong phát triển.
1.3.1.3. Xử lý tín dụng có vấn đề.
Đặc điểm chung của các khoản tín dụng có vấn đề:
- Sự chậm trễ bất thường và không có lý do trong việc cung cấp các báo cáo tài
chính và trả nợ theo lịch đã thỏa thuận.
- Thay đổi bất thường trong khấu hao, kế hoạch trả lương và phụ cấp, giá trị
hàng tồn kho, tài khoản thuế và thu nhập.
- Cơ cấu lại nợ hay hạn chế thanh toán cổ tức hoặc có sự thay đổi vị trí xếp
hạng tín nhiệm.
- Giá cổ phiếu của công ty thay đổi bất lợi.
- Thu nhập ròng giảm trong một hay nhiều năm, đặc biệt là các chỉ tiêu
ROA,ROE, EBIT.
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu nguồn vốn (vốn cổ phần trên nợ vay),
thanh khoản(thanh khoản hiện hành),hay mức độ hoạt động (doanh thu trên hàng
tồn kho).
- Độ lệch của doanh thu hay lưu chuyển tiền tệ so với kế hoạch khi mà tín dụng
đã được cấp.
- Những thay đổi bất ngờ, không dự kiến và không có lý do đối với số dư tiền
gửi của khách hàng tại ngân hàng.
Các chuyên gia ngân hàng sẽ tìm ra các giải pháp nhằm thu hồi những
khoản tín dụng có vấn đề theo một số bước như sau:
- Luôn đặt mục tiêu: Tận dụng tối đa các cơ hội để thu hồi đầy đủ nợ đã cho
vay.
- Khẩn trương khám phá và báo cáo kịp thời mọi vấn đề thực chất liên quan đến
tín dụng.
- Trách nhiệm xử lý tín dụng có vấn đề phải được độc lập với chức năng cho
vay nhằm tránh những xung đột có thể xảy ra với quan điểm của cán bộ tín dụng
trực tiếp cho vay.
- Chuyên gia xử lý tín dụng cần hội ý khẩn với khách hàng về các giải pháp có

thể, đặc biệt là tinh giảm chi phí, tăng nguồn thu, tăng cường công tác quản lý.
- Dự tính những nguồn có thể dùng để thu nợ có vấn đề (thanh lý tài sản và số
dư tiền gửi tại ngân hàng)
- Nghiên cứu nghĩa vụ thuế và những tranh chấp xem khách hàng còn nghĩa vụ
tài chính nào chưa thực hiện.
- Cần đánh giá chất lượng, năng lực và sự nhất quán trong quản lý, tiến hành
khảo sát hoạt động và các tài sản của doanh nghiệp.
- Cân nhắc mọi phương án có thể để hoàn thành việc thu hồi nợ có vấn đề, bao
gồm thỏa thuận gia hạn nợ tạm thời (nếu khách hàng chỉ gặp khó khăn trước
mắt), bổ sung tài sản đảm bảo tín dụng, yêu cầu có bảo lãnh của bên thứ ba, cơ
cấu lại doanh nghiệp, sát nhập hay thanh lý công ty, nộp đơn xin phá sản.
Giải pháp tối ưu phải bảo đảm thu hồi được nợ, đồng thời tạo cơ hội cho
cả ngân hàng và khách hàng có thể duy trì hoạt động tiếp theo một cách bình
thường. Trong thực tế, “khoản tín dụng có thể trở nên có vấn đề, nhưng người
vay không nhất thiết phải như vậy”. Được hiểu là: một hợp đồng được ký kết
một cách đúng đắn, tuân thủ mọi điều kiện đặt ra trong chính sách tín dụng của
ngân hàng, thì ít khi trở thành khoản tín dụng có vấn đề. Ngược lại, một hợp
đồng tín dụng không đúng đắn, có sai sót có thể góp phần làm cho khách hàng
gặp phải các vấn đề về tài chính và là nguyên nhân khiến cho khách hàng có thể
trở nên vỡ nợ.
Bảng 1.1: Bảng những biểu hiện của một khoản tín dụng xấu và một chính
sách tín dụng kém hiêu quả.
Các biểu hiện của tín dụng có vấn
đề.
Các biểu hiện của chính sách tín dụng
kém hiệu quả.
1.Trả nợ vay không đúng kỳ hạn
hoặc thất thường.
1.Sự lựa chọn khách hàng không đúng với
cấp độ rủi ro của họ.

2.Thường xuyên sửa đổi thời hạn,
xin gia hạn tín dụng
2.Chính sách cho vay phụ thuộc vào
những sự kiện có thể xảy ra trong tương
lai.
3.Có hồ sơ đảo nợ (mỗi lần vay mới
thì nợ gốc giảm xuống một ít)
3.Cho vay trên cơ sở lời hứa của khách
hàng duy trì số dư tiền gửi lớn.
4.Lãi suất tín dụng cao không bình
thường ( để bù đắp rủi ro tín dụng)
4.Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý từng
khoản tín dụng.
5.Tài khoản phải thu hay hàng tồn
kho tăng không bình thường.
5.Tỷ lệ tín dụng cao cho khách hàng có trụ
sở ngoài lãnh địa hoạt động của ngân
hàng.
6.Tỷ lệ “nợ/vốn chủ sở hữu” tăng
(hệ số đòn bẩy tăng)
6.Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sót
và không đồng bộ.
7.Thất lạc hồ sơ (đặc biệt là các báo
cáo tài chính của khách hàng)
7.Tỷ lệ cho vay nội bộ cao (cán bộ công
nhân viên, hội đồng quản trị, )
8.Chất lượng bảo đảm tín dụng thấp 8.Có xu hướng thái quá trong cạnh tranh
(cấp tín dụng xấu để giữ chân khách hàng)
9.Dựa vào đánh giá lại tài sản để
tăng vốn chủ sở hữu của khách

hàng
9.Cho vay hỗ trợ các mục đích đầu cơ.
10.Thiếu báo cáo lưu chuyển luồng
tiền hay dự báo luồng tiền
10.Không nhạy cảm với sự thay đổi các
điều kiên môi trường kinh tế.
11.Khách hàng dựa vào nguồn thu
bất thường để trả nợ.( ví dụ bán nhà
xưởng, thiết bị)
Nguồn: FDIC, Bank Examination policies, Washington, D.C, selected yea
1.3.1.4. Hệ thống chỉ tiêu tài chính đánh giá khách hàng.
Hệ thống chỉ tiêu tài chính dùng để phân tích đánh giá tín dụng doanh
nghiệp được chia thành bốn nhóm:
- Nhóm chỉ tiêu thanh khoản (Liquidity ratios)
- Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios)
- Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy (Leverage ratios)
- Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios).
Bảng 1.2: Bảng hệ thống các chỉ tiêu tài chính đánh giá khách hàng.
TT Chỉ tiêu Công thức Ý nghĩa
Nhóm chỉ tiêu thanh khoản.
1 Thanh toán
nhanh hay tức
thời
Chỉ tiêu càng cao
thì doanh nghiệp có
khả năng chi trả nợ
tức thời càng lớn.
2 Thanh toán
ngắn hạn
Phản ánh khả năng

chuyển đổi TSLĐ
thành tiền để trả các
khoản nợ ngắn hạn.
3 Vốn lưu động
ròng
Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Phản ánh dự chênh
lệch số tuyệt đối
giữa TSLĐ và nợ
ngắn hạn.
Nhóm chỉ tiêu hoạt động.
4 Vòng quay
hàng tồn kho
5 Kỳ thu nợ bình
quân
Phản ánh thời hạn
tín dụng thương mại
bình quân mà DN
cấp cho khách hàng
là bao nhiêu ngày.
6 Vòng quay tổng
tài sản
Phản ánh năng lực
của DN trong việc
sử dụng tổng tài sản
để tạo doanh thu.
Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy.
7 Tỷ số nợ trên
tổng tài sản
Càng cao phản ánh
hoạt động của DN

dựa vào nguồn vốn
vay càng lớn.
8 Khả năng trả lãi
tiền vay
Phản ánh khả năng
của DN trong việc
thanh toán lãi tiền
vay.
Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời.
9 Tỷ lệ sinh lời
trên doanh thu
Phản ánh tỷ lệ lãi
phát sinh trên một
đơn vị doanh thu là
bao nhiêu
10 ROE Phản ánh tính hiệu
quả trong việc sử
dụng đồng vốn chủ
sở hữu.
11 ROA Phản ánh tính hiệu
quả trong việc sử
dụng tổng tài sản
của DN.
1.3.1.5. Các chỉ tiêu phi tài chính
Đây là các chỉ tiêu định tính, nguồn của các chỉ tiêu này được lấy không
hải chỉ dựa trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, các thông tin này được
thu thập từ nhiều nguồn cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Để xác định
các chỉ tiêu này một cách chính xác đòi hỏi người xếp hạng phải có trình độ, am
hiểu về lĩnh vực nhất định.
- Lĩnh vực hoạt động kinh doanh:

Phản ánh triển vọng phát triển của ngành, của sản phẩm mà doanh nghiệp
đang hoạt động. Những lĩnh vực đang phát triển có sự tăng trưởng cao thì mức
độ tín nhiệm sẽ cao hơn so với những lĩnh vực, ngành đang suy thoái.
- Uy tín trong quan hệ với các tổ chức tín dụng.
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp trong quan hệ với các tổ chức tín dụng
có trả nợ đúng hạn, thực hiện đầy đủ các cam kết hay không. Khi doanh nghiệp
luôn trả nợ đầy đủ và đúng hạn cho thấy doanh nghiệp có uy tín với các tổ chức
tín dụng, sử dụng vốn có hiêu quả.
- Khả năng trả nợ từ lưu chuyển tiền tệ.
Cho biết khả năng trả nợ gốc trung dài hạn trong tương lai. Tính toán chỉ tiêu
này dựa vào nguồn thu nhập dự kiến từ phương án sản xuất kinh doanh, dự án
đầu tư. Dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao thì khả
năng trả nợ từ lưu chuyển tiền tệ sẽ lớn.
- Trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
Thể hiện ở kinh nghiệm chuyên môn, trình độ học vấn, khả năng lãnh đạo
điều hành, tính năng động, nhậy bén trong hoạt động kinh doanh,… Đây là yếu
tố rất quan trọng trong quản lý doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có ban lãnh đạo
có năng lực, chuyên môn cao sẽ tạo được niềm tin trong quan hệ với ngân hàng.
- Các chỉ tiêu khác.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp chịu sự tác động bởi
rất nhiều các yếu tố từ bên ngoài như chính sách của nhà nước, nhà cung cấp,
người tiêu dùng, điều kiện tự nhiên,… những doanh nghiệp phụ thuộc vào bên
ngoài nhiều thì mức độ tín nhiệm sẽ thấp hơn so với các doanh nghiệp có ít sự
phụ thuộc.
Tóm lại, ngân hàng xem xét nhiều tiêu chí trong việc cấp tín dụng cho
khách hàng. Tuy nhiên trong thực tế, thường tập trung vào 6 tiêu chí cơ bản của
người đi vay- “6 khía cạnh- 6C”. Mô hình định tính về RRTD được sử dụng khá
đơn giản, song hạn chế của mô hình này là nó phụ thuộc vào mức độ chính xác
của nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo, cũng như trình độ phân tích,
đánh giá của cán bộ tín dụng.

1.3.2. Các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng.
Hai mươi năm trở về trước, hầu hết các ngân hàng chỉ dựa duy nhất vào
phương pháp truyền thống (định tính) để đánh giá RRTD người vay. Phương
pháp truyền thống này tỏ ra vừa mất thời gian, tốn kém, lại mang tính chủ quan;
chính vì vậy ngân hàng không ngừng cải tiến phương pháp đánh giá khách hàng
để ra quyết định cho vay.
Ngày nay, một số ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm để lượng hóa
RRTD người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có ưu điểm: cho phép xử lý nhanh
chóng một khối lượng lớn các đơn xin vay, với chi phí thấp, khách quan, do đó
góp phần tích cực trong việc kiểm soát RRTD ngân hàng. Một số mô hình lượng
hóa RRTD cơ bản thường được sử dụng nhất:
1.3.2.1. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng.
Ngày nay, nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp cho điểm để xử lý các
đơn xin vay của người tiêu dùng. Thực tế, nhiều tổ chức thẻ tín dụng đã sử dụng
mô hình điểm số để xử lý số lượng đơn yêu cầu ngày một gia tăng. Nhiều khách
hàng ưu thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi những yêu cầu tín dụng của họ
được sử lý bằng hệ thống cho điểm tự động.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng mô hình cho điểm
tín dụng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc,
sở hữu nhà, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác.
Bảng 1.3: Bảng những hạn mục và điểm thường tín dụng tiêu dùng được sử
dụng ở các ngân hàng của Hoa Kỳ.
STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm
1
Nghề nghiệp của người vay
- Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh 10
- Công nhân có kinh nghiệm 8
- Nhân viên văn phòng 7
- Sinh viên 5
- Công nhân không có kinh nghiệm 4

- Công nhân bán thất nghiệp 2
2
Trạng thái nhà ở
- Nhà riêng 6
- Nhà thuê hay căn hộ 4
- Sống cùng bạn hay người thân 2
3
Xếp hạng tín dụng
- Tốt 10
- Trung bình 5
- Không có hồ sơ 2
- Tồi 0
4
Kinh nghiệm nghề nghiệp
- Nhiều hơn 1 năm 5
- Từ 1 năm trở xuống 2
5 Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành
- Nhiều hơn 1 năm 2
- Từ một năm trở xuống 1
6
Điện thoại cố định
- Có 2
- Không có 0
7
Số người sống cùng (phụ thuộc)
- Không 3
- Một 3
- Hai 4
- Ba 4
- Nhiều hơn ba 2

8
Các tài khoản tại ngân hàng
- Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành Sec 4
- Chỉ tài khoản tiết kiệm 3
- Chỉ tài khoản phát hành Sec 2
- Không có 0
Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục tiêu trên là 43
điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa
khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình
thành khung chính sách tín dụng theo mô hình điểm số như sau:
Tổng số điểm của khách hàng Quyết định tín dụng
Từ 28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng
29 - 30 điểm Cho vay đến 500 USD
31 - 33 điểm Cho vay đến 1.000 USD
34 – 36 điểm Cho vay đến 2.500 USD
37 – 38 điểm Cho vay đến 3.500 USD
39 – 40 điểm Cho vay đến 5.000 USD
41 – 43 điểm Cho vay đến 8.000 USD
Rõ ràng là, mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong
quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng.
Tuy nhiên, có một số nhược điểm như đã không thể tự điều chỉnh một cách nhanh
chóng để thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế. Một mô hình điểm số
không linh hoạt có thể đe dọa đến chương trình tín dụng tiêu dùng của ngân hàng,
bỏ xót khách hàng lành mạnh, làm giảm lòng tin của cộng đồng vào dịch vụ ngân
hàng.
1.3.2.2. Phương pháp ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu
đánh giá nội bộ - IRB (Internal Ratings Based approach) và những ứng dụng
trong quản trị rủi ro.
Tháng 6 năm 2004, ủy ban Basel đã xây dựng Hiệp định mới về "Tiêu chuẩn
vốn quốc tế" - mà chúng ta vẫn gọi là Basel II. Theo đó, các ngân hàng sẽ sử dụng

hệ thống cơ sở dữ liệu của nội bộ để đánh giá vấn đề rủi ro tín dụng , từ đó xác định
hệ số an toàn vốn tối thiểu.
Như vậy, theo yêu cầu của Basel II, các ngân hàng sẽ sử dụng các mô hình
dựa trên hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng . Các ngân
hàng sẽ xác định các biến số như PD - Probability of Default: xác suất khách hàng
không trả được nợ; LGD: Loss Given Default - tỷ trọng tổn thất ước tính; EAD:
Exposure at Default - tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không
trả được nợ. Thông qua các biến số trên, ngân hàng sẽ xác định được EL: Expected
Loss - tổn thất có thể ước tính.
Với mỗi kỳ hạn xác định, tổn thất có thể ước tính được tính toán dựa trên
công thức sau:
EL = PD x EAD x LGD
Thông qua các biến số LGD, PD và EAD, ngân hàng sẽ xác định được EL -
tổn thất ước tính của các khoản cho vay. Nếu ngân hàng tính chính xác được tổn
thất ước tính của khoản cho vay thì sẽ mang lại cho ngân hàng rất nhiều ứng dụng
chứ không chỉ đơn thuần giúp ngân hàng xác định chính xác hơn hệ số an toàn vốn
tối thiểu trong mối quan hệ giữa vốn tự có với rủi ro tín dụng.
Trước hết, việc áp dụng phương pháp IRB sẽ xác định đúng thực tế mức độ
rủi ro của từng trạng thái rủi ro gồm các khoản cho vay doanh nghiệp, cho vay các
doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), cho vay bán lẻ, cho vay thế chấp bất động sản,
chứng khoán hóa, góp vốn cổ phần và các trạng thái không cân bằng khác.
Do đó, việc xây dựng hệ thống ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống
cơ sở dữ liệu đánh giá nội bộ - IRB là xu thế tất yếu của các ngân hàng thương mại
Việt Nam trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, việc tính toán bất kỳ chỉ tiêu nào
trong số 3 chỉ tiêu PD, LGD hay EAD luôn hết sức phức tạp, đòi hỏi ngân hàng
phải có một cơ sở dữ liệu đầy đủ, được lưu trữ khoa học với những chương trình
phần mềm xử lý dữ liệu hiện đại. Tất cả những vấn đề trên đều đòi hỏi các ngân
hàng thương mại phải đầu tư nguồn lực về tài chính, con người, thời gian rất khổng
lồ và đặc biệt phải có lộ trình khoa học.
1.3.3. Các phương pháp xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp điển hình trên thế giới.

Xếp hạng tín dụng hay xếp hạng tín nhiệm là những ý kiến đánh giá về rủi ro tín
dụng và chất lượng tín dụng, thể hiện khả năng và thiện ý trả nợ (gốc, lãi hoặc cả hai)
của đối tượng đi vay để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính một cách đầy đủ và đúng hạn
thông qua hệ thống xếp hạng theo ký hiệu. Hiện nay, trên thế giới có hai phương pháp
xếp hạng tín dụng chính là mô hình toán học và phương pháp chuyên gia:
1.3.3.1. Mô hình toán học xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp
Trước khi quyết định đánh giá tín nhiệm và ước lượng rủi ro tín dụng phát
triển thành những mô hình toán học và thống kê, việc cấp tín dụng hoàn toàn dựa
trên phương pháp xét đoán. Phương pháp này sử dụng mọi loại thông tin liên quan
đến khách hàng mà các chuyên viên tín dụng thấy cần thiết và dùng các phán đoán
chủ quan để đánh giá rủi ro.
Phương pháp xét đoán do vậy có nhiều thiếu sót. Đầu tiên, phương pháp
không đáng tin cậy vì nó phụ thuộc vào cách thức của mỗi chủ nợ; thứ hai, quyết
định có thể thay đổi từ người này sang người khác nên khó tranh luận và truyền thụ;
thứ ba là không thể giải quyết với số lượng lớn hoặc phải duy trì một hệ thống
chuyên viên phân tích chi phí cao.
Vì vậy, khi có sự phát triển của khoa học thống kê, những phương pháp phân
tích, phân lớp và dự báo nhanh chóng được ứng dụng và đã bổ sung hiệu quả cho
phương pháp truyền thống, từ lượng hóa các chỉ tiêu đến dự báo rủi ro tín dụng .
Hiện nay, các ứng dụng thống kê trong xếp hạng tín nhiệm lại đang chuyển mình từ
mục tiêu tối thiểu hóa rủi ro tín dụng sang mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận cho các chủ
nợ (chủ yếu là các ngân hàng).
 Mô hình điểm số Z ( Z- credit scoring model).
Mô hình điểm số Z do E.I. Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối
với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại
RRTD đối với người vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj)
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Chỉ số Z bao gồm 5 chỉ số X

1
,

X
2
,

X
3
,

X
4
,

X
5
.
Trong đó:
X
1
= tỷ số “ vốn lưu động ròng/ tổng tài sản”.
X
2
= tỷ số “lợi nhuận giữ lại/ tổng tài sản”.
X
3
= tỷ số “lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/ tổng tài sản”.
X
4

= tỷ số “thị giá cổ phiếu/ giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”
X
5
= tỷ số “doanh thu/ tổng tài sản”.
Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi
trị số Z thấp hoặc âm sẽ là căn cứ để xếp hạng khách hàng vào nhóm có nguy cơ
vỡ nợ cao. Từ một chỉ số Z ban đầu, Giáo Sư Edward I. Altman đã phát triển ra Z’
và Z’’ để có thể áp dụng theo từng loại hình và ngành của doanh nghiệp, như sau:
Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành sản suất:
Z = 1.2X
1
+ 1.4X
2
+ 3.3X
3
+ 0.64X
4
+ 0.999X
5
• Nếu Z > 2.99 DN nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản.

×