Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Sử dụng mô hình ARCH-GARCH để phân tích và đành giá rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Quốc tế VIB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.39 KB, 54 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế

LỜI NÓI ĐẦU
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn cầu.
Với hoạt động chính là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, việc
sử dụng vốn chình là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của Ngân
hàng trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng nhất.
Hoạt động tín dụng (là quan hệ vay mượn gồm cho vay và đi vay) là
hoạt động sinh lời lớn nhất, song đi kèm với nó là rủi ro cao nhất cho các
NHTM. Đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam, kể từ khi chuyển sang cơ
chế thị trường đã không ngừng lớn mạnh và thu được những thành tựu nhất
định, nhưng trong quá trình đó các Ngân hàng đã vấp phải không ít những
rủi ro trong hoạt động kinh doanh gây tổn thất nặng nề.
Ngân hàng Quốc tế Việt Nam- VIB là một ngân hàng sau hơn 10 năm
phát triển đã gặt hái được những thành công nhất định, nhưng cũng như các
ngân hàng khác trong hoạt động kinh doanh của nình còn chứa đựng rất
nhiều rủi ro tiềm ẩn.
Với nhận thức đó, thông qua quá trình tìm hiểu, thực tập tại Ngân
hàng Quốc tế em xin đề xuất đề tài thực tập tốt nghiệp của mình là:
“Sử dụng mô hình ARCH-GARCH để phân tích và đành giá rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng Quốc tế VIB”
Em xin chân thành cảm ơn các giảng viên Khoa Toán Kinh Tế trường
Đại học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội, và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của
thầy giáo TS Trần Trọng Nguyên đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Và em xin cảm ơn các anh chị Phòng Giám Sát Tín Dụng – Ngân hàng Quốc
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
Tế VIBank đã giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất để em hoàn thành chuyên đề
này.



2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1
Tổng quan về hoạt động của Ngân hàng Quốc tế
I/ GIới thiệu chung về Ngân hàng Quốc Tế.
Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng Quốc Tế -
VIB) được thành lập theo Quyết định số 22/QD/NH5 ngày 25/01/1996 của
thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Cổ đông sáng lập Ngân hàng Quốc Tế bao gồm các cá nhân và các
doanh nhân hoạt động thành đạt tại Việt Nam và trên thị trường Quốc tế,
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam.
Từ khi bắt đầu hoạt động ngày 18/09/1996, Ngân hàng Quốc Tế đang
phát triển thành một trong những tổ chức tài chính dẫn đầu thị trường Việt
Nam. Là một ngân hàng đa năng, Ngân hàng Quốc Tế, với nền tảng công
nghệ hiện đại, tiếp tục cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính đa năng,
trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ
hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia đình có thu nhập ổn định tại
các vùng kinh tế trọng điểm trên khắp cả nước.
Sau 9 năm hoạt động, đến ngày 31/12/2005, vốn điều lệ của Ngân
hàng Quốc Tế đạt 510 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm
là 113%. Tổng tài sản có đạt trên 8.967 tỷ đồng, tăng gấp hơn 2 lần so với
năm 2004 và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 117%. Lợi nhuận
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
trước thuế đạt trên 95 tỷ đồng, bằng 230% so với năm 2004. Tỷ lệ lợi nhuận
trên vốn tự có bình quân đạt trên 20% và mức cổ tức chia cho các cổ đông
tăng đều hàng năm. Tỷ lệ về khả năng chi trả luôn lớn hơn 1, tỷ lệ vốn tối

thiểu luôn lớn hơn 8%.
Nguồn lực quản lý và hoạt động không ngừng được tăng cường với việc bổ
nhiệm nhiều chuyên gia giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực tài chính ngân
hàng và một đội ngũ chuyên viên kinh nghiệm, giàu nhiệt huyết. Hình ảnh của
ngân hàng Quốc Tế trong lòng công chúng và khách hàng được cải thiện đáng
kể bằng nhiều chương trình đổi mới và mở rộng năng lực phục vụ, tăng cường
quảng bá hình ảnh ngân hàng.
Ngân hàng Quốc Tế được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xếp loại A theo
các tiêu chí đánh giá hệ thống Ngân hàng Việt Nam do Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam ban hành trong nhiều năm liên tiếp và lần thứ 2 được Tập
đoàn Citygroup trao tặng danh hiệu “Ngân hàng hoạt động thanh toán xuất sắc”.
Cuối năm 2005, ngoài hội sở tại Hà Nội, Ngân hàng Quốc Tế có 30 chi
nhánh, Phòng giao dịch tại 9 tỉnh, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, Đồng Nai, Bình Dương và Cần
Thơ. Trong năm 2006, Ngân hàng Quốc Tế sẽ tiếp tục vươn tầm hoạt động đến
các trung tâm kinh tế mới và nhiều tiềm năng khác trên cả nước với tổng số đơn
vị kinh doanh dự kiến lên đến 60. Mạng lưới ngân hàng đại lý cũng không
ngừng được mở rộng với hơn 2.000 đại lý trên 65 quốc gia trên Thế giới.
Với phương châm kinh doanh “Luôn gia tăng giá trị cho bạn”, cam kết của
Ngân hàng Quốc Tế trong 2006 và những năm tiếp theo là không ngừng gia
tăng giá trị của khách hàng, của đối tác, của cán bộ nhân viên ngân hàng và của
các cổ đông.
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
II/ Lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng.
Năm 2005, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao,
mang đến cơ hội phát triển hoạt động kinh doanh cho ngành Ngân hàng Việt
Nam, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, tạo điều kiện
cho các ngân hàng thương mại phát triển hoạt động kinh doanh
Cạnh tranh trong nghành ngân hàng cũng ngày càng gay gắt với việc

các NHTM trong nước và các nước ngoài đẩy mạnh tiến trình cải cách, tăng
năng lực tài chính, đầu tư công nghệ, đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế quản
lý, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, phát triển các dịch vụ ngân hàng
hiện đại, mở rộng ưu đãi cho khách hàng.
Ngân hàng Quốc Tế hoạt động trên các lĩnh vực chủ yếu sau:
• Dịch vụ Ngân hàng doanh nghiệp: Ngân hàng Quốc Tế cung cấp dịch
vụ cho doanh nghiệp và những khách hàng kinh doanh khác, bao gồm:
dịch vụ tín dụng, các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ mua bán
ngoại tệ. Các khoản vay được cung cấp cho nhiều mục đích khác nhau
như: bổ sung vốn lưu động, mua sắm trang bị tài sản cố định, đầu tư
mở rộng sản xuất,…
• Dịch vụ ngân hàng cá nhân: Ngân hàng Quốc Tế cung cấp dịch vụ cho
các cá nhân bao gồm: dịch vụ tiết kiệm, dịch vụ tín dụng tiêu dùng,
dịch vụ thanh toán, dịch vụ xác nhận năng lực tài chính, dịch vụ thẻ,
dịch vụ mua bán ngoại tệ. Các khoản cho vay tiêu dùng nhằm đến các
mục đích sử dụng vốn cụ thể như: mua sắm, sửa chữa nhà đất, mua
sắm xe hơi, vật dụng gia đình, đi du học, đầu tư cổ phiếu,…
• Dịch vụ ngân hàng định chế: Ngân hàng Quốc Tế cung cấp dịch vụ
cho các ngân hàng, tổ chức tài chính và tổ chức phi tài chính bao gồm:
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
dịch vụ tiền gửi, dịch vụ quản lý tài sản, dịch vụ cho vay, dịch vụ
đồng tài trợ, dịch vụ mua bán ngoại tệ, dịch vụ ngân quỹ…
III/ Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng
1/ Hoạt động huy động vốn.
Năm 2005, hoạt động nguồn vốn của Ngân hàng Quốc Tế đạt mức tăng
trưởng kỷ lục. Tổng nguồn vốn tính đến 31/12/2005 đạt 8.967 tỷ đồng tăng
117% so với năm trước và vượt 49,6% kế hoạch năm.
Cơ cấu nguồn vốn được điều tiết hợp lý, tương thích với tỷ trọng của cơ

cấu đầu tư tín dụng và đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Hoạt động
kinh doanh nguồn vốn phát triển tốt, hiệu quả, đảm bảo khả năng thanh
khoản và đủ vốn, ngoại tệ phục vụ khách hàng.
Ngân hàng Quốc Tế đã chủ động trong việc điều chỉnh cơ cấu nguồn
vốn nhằm mang lại lợi ích tối ưu cho các cổ đông nhưng vẫn đảm bảo nguồn
vốn khi mở rộng cho vay chung và dài hạn và nhu cầu rút tiền gửi không kỳ
hạn. Vốn chủ sở hữu đạt 529,787 tỷ đồng, tăng 104,7% so với cuối năm
2004. Vốn tiền lệ tăng lên 510 tỷ đồng không những tạo thêm nguồn vốn
đáp ứng yêu cầu kinh doanh của Ngân hàng Quốc Tế, đặc biệt là nguồn vốn
trung, dài hạn và đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn khi mở rộng kinh doanh, mà còn
tạo điều kiện để đầu tư cơ sở vật chất và công nghệ nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngân hàng. Tỷ trọng vồn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn
giảm từ 7,3% trong năm 2004 xuống còn 6,9% trong năm, chứng tỏ khả
năng mở rộng quy mô các cấu thành khác, đặc biệt là tiền gửi từ các tổ chức
kinh tế.
Vốn huy động từ các tổ chức tài chính tại thời điểm 31/12/2005 đạt
2.852,872 tỷ đồng bằng 176,6% so với đầu năm và chiếm 31,7% tổng nguồn
vốn. Trong đó, tiền gửi của các tổ chức tài chính đạt 2.808 tỷ đồng chiếm
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
98% tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức tài chính. Việc tăng vốn điều
lệ lên 510 tỷ đồng cùng với kết quả hoạt động tăng trưởng cao và an toàn, uy
tín giao dịch trên thị trường và các quan hệ hợp tác được duy trì tốt đã dẫn
đến việc các tổ chức tín dụng trong nước và các tổ chức tín dụng quốc tế
đang hoạt động tại Việt Nam tăng hạn mức tiền gửi tại Ngân hàng Quốc tế.
Tiền vay từ các tổ chức tài chính khác giảm xuống so với năm 2004 cũng
góp phần giảm chi phí vốn của ngân hàng.
Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 5.268,617 tỷ đồng,
bằng 163% so với đầu năm và chiếm 58% tổng nguồn vốn. Đây là một kết
quả rất đáng ghi nhận trong điều kiện Ngân hàng Quốc tế phải đối mặt với

sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các NHTM khác. Số dư vốn huy động từ
các cá nhân tại thời điểm 31/12/2005 đạt 3.302,446 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng
trưởng 133,5%. Kết quả đáng khích lệ trên có được là nhờ Ngân hàng Quốc
tế đã thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt, mở rộng mạng lưới hoạt động
đến gần khách hàng hơn và tung ra nhiều sản phẩm huy động có sức thu hút
ra thị trường như các chương trình tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm lãi suất lũy
tiến, tiết kiệm tặng quà. Cơ cấu vốn huy động từ các cá nhân cũng có sự thay
đổi mang tính chất tích cực trong đó tỷ trọng tiền gửi có lãi suất thấp tăng
mạnh. Số dư tiền gửi không kỳ hạn tăng tới 186,3% so với năm 2004.
Trong năm 2005, do định hướng phát triển khách hàng đã được quán
triệt tới từng đơn vị trong hệ thống Ngân hàng Quốc tế, tình hình hoạt động
khởi sắc của khối nguồn vốn và nỗ lực của cả hệ thống trong việc mở rộng
đối tượng khách hàng tiền gửi, tổng huy động tiền gửi của các tổ chức kinh
tế tăng 234% so với đầu năm và đạt 1.966 tỷ đồng.
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
2/ Hoạt động tín dụng.
Điểm đáng chú ý là trên cơ sỏ mạng lưới hoạt động được mở rộng, cơ
sở khách hàng tăng trưởng mạnh và tốc độ huy động vốn rất tốt nên hoạt
động tín dụng tiếp tục tăng trưởng trong năm 2005.
Dư nợ tính đến thời điểm 31/12/2005 đạt 5.255 tỷ đồng, tăng 236% so
với đầu năm và vượt 24,3% so với kế hoạch năm. Trong đó, tín dụng ngắn
hạn đạt 3.570 tỷ đồng, chiếm 67,9% tổng dư nợ và tín dụng trung và dài hạn
đạt 1.707 tỷ đồng, chiếm 32,1% tổng dư nợ.
Ngân hàng Quốc tế nhìn nhận các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt
động trên nhiều lĩnh vực phát triến, điều này được thể hiện trong sứ mệnh
của ngân hàng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn nhất và
giầu tiềm năng nhất trong cộng đồng doanh nghiệp nhưng hiện nay phần lớn
đều gặp nhiều khó khăn trong việc tăng cường khả năng cạnh tranh, hiện đại
hoá công nghệ và tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Chính sách của Ngân

hàng Quốc Tế đã giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được nguồn
vốn với chi phí hợp lý để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng năng
suất lao động và tăng sức cạnh tranh. Ngoài ra trong năm 2005, Ngân hàng
Quốc tế tiếp tục đẩy mạnh cho vay tài trợ hoạt động xuất khẩu hàng hoá như
cho vay để doanh nghiệp sản xuất, thu mua hàng hoá xuất khẩu, cho vay
chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất khẩu. Dư nợ tín dụng doanh nghiệp tại
thời điểm 31/12/2005 là 3.904 tỷ tăng 152% so với năm và vượt 29,7% với
kế hoạch năm.
Năm 2005, Ngân hàng Quốc tế tập trung đẩy mạnh cho vay tiêu dùng
cá nhân bằng việc tung ra và đổi mới một loạt các sản phẩm tín dụng cá
nhân, bám sát nhu cầu của khách hàng như cho vay mua, sửa chữa nhà đất,
căn hộ chung cư, cho vay mua ôtô, cho vay du học, cho vay mua sắm vật
dụng gia đình. Một loạt các sản phẩm tín dụng nhằm đến các nhóm khách
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
hàng cụ thể cũng được đưa ra cho vay tín chấp cán bộ quản lý điều hành,
cho vay đối với cán bộ nhân viên,…Dư nợ tín dụng cá nhân tại thời điểm
31/12/2005 là 1.351 tỷ tăng 106% với đầu năm.
Hoạt động tín dụng được thực hiện theo phương thức phê duyệt tập
trung, chú trọng chất lượng tín dụng luôn được kiểm soát tốt do hoạt động
tín dụng được tổ chức chặt chẽ, tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và
các quy định, quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng Quốc tế. Tỷ lệ nợ quá hạn
tình đến thời điểm cuối năm chỉ chiếm 0,87% tổng dư nợ, giảm so với mức
1.11% của năm 2004
3/ Hoạt động dịch vụ
Trong năm 2005, song song với việc gia tăng các hoạt động huy động
vốn và tín dụng, hoạt động dịch vụ đã dược quan tâm đặc biệt và được quán
triệt từ Hội sở chính đến từng đơn vị trong hệ thống Ngân hàng Quốc tế cả
vè chất và lượng. Tổng thu từ dịch vụ tăng 11,98% và gấp 4 lần so với năm
2004.

Năm 2005, hoạt động thanh toán quốc tế được tăng cường theo cả
chiều rộng lẫn chiều sâu thông qua việc bổ sung nhân sự cho Phòng tài trợ
Thương mại Hội sở, cho các chi nhánh và mở các chi nhánh có khả năng thu
hút khách hàng xuất khẩu. Trong năm 2005,Ngân hàng Quốc tế đã mở 1.647
L/C, đạt tổng giá trị 162 triệu USD, tăng 209% về mặt số lượng và 219% về
mặt giá trị so với năm 2004. Số lượng L/C xuất khẩu được thông báo cũng
tăng 278% so với năm 2004. Chất lượng L/C nhập khẩu được đảm bảo tốt,
các khoản tiền thanh toán đều được thực hiện đúng hạn cho các ngân hàng
nước ngoài. Doanh số nhờ thu từ nhập khầu, xuất khẩu cũng tăng trưởng lần
lượt là 519% và 89% về mặt số lượng, 172% và 152% về mặt giá trị so với
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
năm 2004. Doanh thu dịch vụ thanh toán quốc tế toàn hệ thống tăng tới
2128,5% so với năm 2004. Các đơn vị đóng góp nhiều nhất vào kết quả
chung của hoạt động tài tợ thương mại trong năm qua là Hội sở, chi nhánh
VIB Hồ Chí Minh, chi nhánh VIB Hải Phòng, chi nhánh VIB Hà Nội, chi
nhánh VIB Ba Đình. Các chi nhánh mới thành lập cũng đã có bước phát
triển nhất định.
Dịch vụ chuyển tiền kiều hối đã phát triển. Trong năm 2005, Ngân
hàng Quốc tế hợp tác với nhiều công ty chuyển tiền như: Travelex, RIA,
Anelik, Xoom để cung cấp dịch vụ chuyển tiền Quốc tế phục vụ những
khách hàng là Việt kiều và những nguòi đi hợp tác ở nước ngoài.
Dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ cũng bắt đầu được đẩy mạnh qua
việc Ngân hàng Quốc tế hợp tác với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
phát hành thẻ tín dụngQuốc tế Master Card Cội nguồn và chấp nhận thanh
toán cá loại thẻCác dịch vụ khác như dịch vụ chuyển tiền kiều hối, dịch vụ
phát hành và thanh toán thẻ và các dịc MasterCard, Visa, Dinner Club…
Hoạt động phát hành thẻ ghi nợ nội địa values cũng được đẩy mạnh qua việc
phát triển một đội ngũ đại lý đông đảo, xây dựng một mạng lưới chấp nhận
thẻ rộng rãi và một hệ tống nghành hàng ưu đãi cho chủ thể phong phú.

Các dịch vụ mang laị giá trị gia tăng cho khách hàng cũng được đầu
tư phát triển. Trên nền tảng công nghệ hiện đại, Ngân hàng Quốc tế bắt đầu
đưa ra những tiện ích tạo sự thuận tiện cho khách hàng khi giao dịch với
ngân hàng như Mobile Banking và Internet Banking .
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
4/ Hoạt động quảng cáo, khuyếch trương và quan hệ công chúng.
Trong năm 2005, việc đẩy mạnh quảng bá hình ảnh, thương hiệu của
ngân hàng đến công chúng được hoạch định từ đầu năm với các chương
trình hành động cụ thể. Các hoạt động xây dựng thương hiệu được duy trì tốt
trong năm và được phân bố đều trong phạm vi toàn quốc. Sự ổn định về mặt
chất lượng dịch vụ và tình hình tài chính, tổ chức, hoạt động cùng khả năng
phát triển bền vững là những yếu tố giúp thương hiệu Ngân hàng Quốc tế
ngày càng lớn mạnh. Bộ nhận diện thương hiệu Ngân hàng Quốc Tế, hoàn
chỉnh trong năm 2004, tiếp tục được áp dụng thống nhất trên toàn hệ thống
ngân hàng đã tạo ra hình ảnh mới trong mọi hoạt động và giao tiếp của ngân
hàng và là một bước phát triển mang tính chuyên nghiệp trong quản lý hình
ảnh của ngân hàng.
Cũng trong năm 2005, với hàng loạt sản phẩm, dịch vụ gắn bó thiết
thục với đời sống cộng đồng được đưa ra phục vụ khách hàng, nhiều đài báo
trung ương và địa phương đã tham gia viết bài và đưa tin về Ngân hàng và
các sản phẩm của Ngân hàng như: báo Lao Động, Hà Nội mới, Thời báo
Kinh tế Việt Nam, Sài Gòn Giải phóng, Tuổi trẻ, Thanh niên, VietNam Net,
VnExpress…Các chuyên trang, chuyên mục được các báo Đầu tư,Thời báo
Ngân hàng xây dựng nhằm cung cấp thông tin về tiện ích sản phẩm tài chính
ngân hàng cho bạn đọc cũng liên tục viết bài về sản phẩm của Ngân hàng
Quốc Tế.
Với mong muốn hoà nhập vào cộng đồng xã hội, trong năm 2005,
Ngân hàng Quốc tế đã tham gia nhiều chương trình văn hoá, vui chơi giải trí
bổ ích và thu hút nhiều người quan tâm như: “Hãy chọn giá đúng”, “Ở nhà

chủ nhật”, “Điểm hẹn âm nhạc” phát sóng trên kênh VTV3 Đài truyền hình
Việt Nam.
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
Ngoài ra, với trách nhiệm cùng xã hội, Ngân hàng Quốc tế tổ chức các
chương trình có ý nghĩa xã hội sâu sắc như “Triệu tấm lòng đồng cảm” ủng
hộ trẻ em nạn nhân chất độc màu da cam và nhiều chương trình ủng hộ từ
thiện khác.
5/ Phát triển mạng lưới chi nhánh
Do yêu cầu phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phục vụ
khách hàng, công tác phát triển mạng lưới chi nhánh được coi là một trọng
điểm trong kế hoạch phát triển của Ngân hàng Quốc tế.
Năm 2005, mạng lưới hoạt động của Ngân hàng Quốc tế được mở
rộng cả về quy mô và vùng địa lý. Đến ngày 31/12/2005, Ngân hàng Quốc tế
đã hiện diện tại 9 tỉnh, thành phố trên khắp cả nước – đây đều là những trung
tâm kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng cho dịch vụ tài chính, ngân
hàng như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Nha Trang, Đà
Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương và Cần Thơ với tổng số 31 chi nhánh. Với
mạng lười chi nhánh từng bước được mở rộng, cùng với việc không ngừng
nâng cao chất lượng phục vụ, Ngân hàng Quốc tế đã dần nâng cao hình ảnh
thương hiệu và tích lũy được lòng tin của công chúng.
Trong chiến lược phát triển của mình, Ngân hàng Quốc tế tiếp tục mở
các chi nhánh mới trong những năm tới để đến gần hơn nữa với khách hàng
và phục vụ nhu cầu của khách hàng được tốt hơn. Theo kế hoạch, đến cuối
năm 2006, dự kiến Ngân hàng Quốc tế sẽ có tất cả 60 chi nhánh trên toàn
quốc.
Tất cả các chi nhánh mới trong hệ thống Ngân hàng Quốc tế đều
nhanh chóng ổn định tổ chức, phát triển cơ sở khách hàng, triển khai hoạt
động kinh doanh an toàn, hiệu quả và toàn diện. Trong năm qua, các Chi
12

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
nhánh và Phòng Giao Dịch của Ngân hàng Quốc tế đã duy trì tốt các hoạt
động tại các địa bàn đễ kết hợp với các hoạt động quảng bá thương hiệu, sử
dụng tốt công cụ lãi suất, tạo hiệu quả huy động vốn dân cư tăng trưởng cao.
6/ Công nghệ ngân hàng và thông tin
Trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế bắt đầu triển khai Hệ thống ngân
hàng đa năng SYMBOLS do System Access cung cấp – đây là giải pháp
Ngân hàng đa năng trọn gói cung cấp các chức năng cho các hệ thống
nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn, ngân hàng Internet và hệ
thống quản lý quan hệ khách hàng. Đây là hệ thống có khả năng mở rộng
cao, đáp ứng cho mô quy mô của ngân hàng.
Năm 2005 cũng là thời điểm Đề án tập trung hoá dữ liệu và giao dịch
trực tuyến của Ngân hàng Quốc tế phát huy tác dụng mạnh mẽ. Tính an toàn
dữ liệu và giao dịch trực tuyến cũng tăng lên đáng kể. Cũng trong năm 2005,
Ngân hàng Quốc tế chính thức ký hợp đồng mua Hệ thống Chuyển mạch Tài
chính và Quản lý thẻ từ Công ty Card Tech Limited (CLM) – Vương quốc
Anh. Giải pháp công nghệ này sẽ giúp VIB đột phá trong lĩnh vực thẻ thông
qua việc cung ứng hàng loạt các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu và
phù hợp với từng nhóm khách hàng.
Viêc trong thời gian qua Ngân hàng Quốc tế triển khai thành công
hàng loạt cá dự án công nghệ đã tạo ra hàng loạt các sản phẩm dịch vụ thanh
toán chất lượng cao mang lại nhiều lợi ích và giá trị gia tăng cho khách
hàng.
7/ Phát triển nguồn lực
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
Nguồn lực quan trọng nhất của ngân hàng là nguồn lực con người và
lợi thế cạnh tranh của ngân hàng cũng là nguồn lực con người, do đó ngân
hàng luôn cố gắng xây dựng một môi trường làm việc cho phép khuyến
khích mọi cán bộ nhân viên phát huy hết khả năng của mình. Ngân hàng

Quốc tế xây dựng một chương trình phát triển kỹ năng toàn diện cho cán bộ,
nhân viên nhằm tạo khả năng thích nghi trước những biến đổi của môi
trường kinh doanh. Chính sách tiền lương của Ngân hàng Quốc tế trong năm
2005 có nhiều cải thịên đáng kể theo chiều hướng kết hợp hài hoà giữa lợi
ích của Ngân hàng cũng như lợi ích của người lao động. Chính sách thu
nhập của ngân hàng đã khuyến khích đội ngũ nhân viên yên tâm làm việc,
đồng thời vẫn đảm bảo tính cạnh tranh và thu hút nhân tài phục vụ ngân
hàng.
Công tác khen thưởng cũng được Ngân hàng quan tâm đặc biệt. Công
tác khe thưởng cả bằng vật chất lẫn tinh thần đã khuyến khích được tinh thần
làm việc của cán bộ nhân viên được khen thưởng và những cán bộ nhân viên
khác.Công tác đào tạo của Ngân hàng Quốc tế bám sát yêu cầu hoàn thiện
văn hoá làm việc, nâng cao trình độ và kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn cho
cán bộ nhân viên, trong đó dặc biệt chú trọng đào tạo những kiến thức về
Giao dịch khách hàng, Tín dụng, Phân tích tài chính, Maketing, Quan hệ
công chúng, Thanh toán Quốc tế và pháp luật. Trong năm 2005, Ngân hàng
Quốc tế đã tổ chức 79 khoá học với 90% cán bộ nhân viên tham gia đã góp
phần nâng cao đáng kể kiến thức và kỹ năng làm việc của nhân viên ngân
hàng.
Công tác tuyển dụng đáp ứng được nhu cầu bổ sung nhân sự cho hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng Quốc tế. Số nhân sự tuyển dụng mới trong
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
năm 2003 là 439 cán bộ nhân viên và tổng số cán bộ nhân viên tính đến
31/12/2005 là 851 người gấp hơn 2 lần so với thời điểm đầu năm.
8/ Kết quả kinh doanh
Năm 2005, tổng thu nhập trước thuế của Ngân hàng Quốc tế là 95.264
triệu đồng, bằng 231% so với năm 2004. Đến hết năm 2005, Ngân hàng
Quốc tế là một trong những ngân hàng có mức tăng trưởng lợi nhuận trước
thuế cao hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng chung vào khoảng 45% của

hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Trong năm 2005, hoạt động đầu tư sinh lợi chủ yếu của Ngân hàng
Quốc tế vẫn là hoạt động tín dụng với đóng góp tới 96,56% tổng thu nhập.
Thu nhập từ các hoạt động dịch vụ trong năm 2005 đạt 33.178 triệu
đồng. Để đạt được kết quả trên, toàn hệ thống Ngân hàng Quốc tế đã chú
trọng tìm kiếm các nguồn vốn chi phí thấp, đồng thời mở rộng khách hàng
tín dụng an toàn để tối ưu hoá sử dụng nguồn vốn.


15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
Chương 2
Lý thuyết về rủi ro
I/ Rủi ro trong hoạt động ngân hàng
1/ Khái niệm.
Mọi hoạt động của con người đều đưa tới hai khả năng, hoặc sẽ đem lại
những kết quả thuận lợi như mong muốn, hoặc sẽ mang lại kết quả không
như mong đợi. Khi làm bất cứ việc gì con người ai cũng muốn đạt được kết
quả tốt, tuy nhiên trong thực tế không phải lúc nào cũng được như ý. đôi khi
người ta gặp phải biến cố ngoài ý muồn gây tổn thất ngoài dự kiến - điều
này cũng có nghĩa là họ đã gặp rủi ro. Vậy rủi ro là gì?
“Rủi ro là những khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến”
Bất kỳ một hoạt động, một thành phần, một hoàn cảnh nào đều có nguy
cơ gặp phải rui ro. Đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
luôn luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn. Ngân hàng Thương mại là loại
doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt - hàng hoá tiền tệ. Đa phần trong
đó là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền cua các NHTM
đang có thay đổi mạnh mẽ do có gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân
hàng, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công
nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hoá. Các nguồn tiền gửi của các cá nhân

và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn.
Điều này tạo thuận lợi hơn cho một ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn
tiền song lại tăng tính mỏng manh, kém ổn định của cả hệ thống. Tài sản của
ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng
khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Ngày nay, khi công
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
nghệ Ngân hàng ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển của nền kinh tế,
của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho ngân hàng giảm bớt rủi ro
thông qua việc đa dạng hoá khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng
thị trường, nhưng cũng lại làm tăng tính rủi ro do các biến động lớn trên thế
giới và khu vực, hay do thông tin sai lệch… Bản thân các ngân hàng cũng
luôn mong muốn các rủi ro không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì có thể giảm
thiểu thiệt hại đến mức thấp nhất. Các ngân hàng không thể biết trước hoặc
dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra, mặc dù khi lập chiến lược hoạt động
chung các ngân hàng cũng có đưa một số loại rủi ro vào nhưng cũng chỉ có
tính chất đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ hết các rủi ro được.
2/ Phân loại rủi ro
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại rủi ro trong hoạt động của Ngân
hàng, bản thân rủi ro trong hoạt động Ngân hàng cũng rất đa dạng và phức
tạp, nhưng nhìn chung có thể phân chia theo một số dạng chủ yếu sau đây:
2.1/ Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất cho Ngân hàng khi
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ cả vốn
và lãi.
Rủi ro tín dụng là rủi ro cơ bản nhất và luôn là mối đe doạ của các
NHTM, nó không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều
hoạt động mang tính chất tín dụng khác của Ngân hàng khác như hoạt động
bảo lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính.
Rủi ro tín dụng rất khó kiểm soát hay quản lý với diễn biến phức tạp có

thể xảy ra cho các Ngân hàng bất cứ lúc nào, với bất kỳ món vay nào và nó
có thể làm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng, nặng hơn nó có
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
thể khiến Ngân hàng đi đến bờ vực của sự phá sản, gây hậu quả nặng nề cho
Ngân hàng.
2.2/ Rủi ro lãi suất.
Lãi suất là giá cả của sản phẩm Ngân hàng hay cũng chính là chi phí để
vay, là giá phải trả cho việc chuyển quyền tạm thời sử dụng vốn trong một
thời gian nào đó.
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất
thay đổi ngoài dự kiến.
Trong quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng tồn tại hai loại
lãi suất: lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay. Cả hai loại lãi suất trên
đều biến động theo quy luật cung cầu của thị trường. Do đó, mọi sự thay đổi
của lãi suất đều có thể tác động đến việc làm tăng giảm thu nhập, chi phí và
lợi nhuận của Ngân hàng, điều đó cũng có nghĩa là Ngân hàng cũng thường
xuyên phải đối đầu với khả năng gặp phải rủi ro lãi suất.
Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất là do sự không cân xứng giữa các tài
sản nợ và có. Nếu ngân hàng dùng các tài sản nợ ngắn hạn để đầu tư vào các
tài sản có dài hạn thì khi lãi suất ngắn hạn tăng lên, trong khi lãi suất đầu tư
vẫn giữ nguyên, ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Ngược lại, nếu ngân hàng dùng tài
sản nợ dài hạn để đầu tư vào tài sản có ngắn hạn thì khi lãi suất đầu tư giảm
ngân hàng cũng có nguy cơ gặp rủi ro.
Ngoài ra rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra do các nguyên nhân khác như:
• Do bất lợi trong cạnh tranh, buộc ngân hàng phải tăng lãi suất huy
động và hạ lãi suất cho vay để thu hút khách hàng, do đó làm tăng chi
phí và làm giảm thu nhập của ngân hàng.
• Do cung tiền tệ nhỏ hơn cầu tiền tệ nên ngân hàng phải tăng lãi suất
18

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
để huy động vốn, ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay….
• Do chính sách ưu đãi trong cho vay của nhà nước nên Rủi ro lãi suất
có liên quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng.
2.3/ Rủi ro thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi
nhu cầu thanh toán thực tế vượt khả năng thanh toán dự kiến làm gia tăng
các chi phí để đáp ứng các nhu cầu về thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng
mất khả năng thanh toán. Khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút
tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức sẽ phát sinh rủi ro thanh khoản đối với
ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả
năng thanh toán hiện tại, trong tương lai và đột xuất. Trong điều kiện bình
thường, nhu cầu rút tiền có thể được dự báo trước và được đảm bảo bằng dự
trữ tiền mặt hoặc tài sản có an toàn với tính lỏng cao. Tuy nhiên, vào các
mùa lễ, kỳ nghỉ...và đặc biệt là khi người gửi tiền nghi ngờ sự an toàn và
thiếu tin tưởng vào khả năng kinh doanh, thanh toán cũng như điều hành của
ngân hàng, công chúng có yêu cầu rút tiền ồ ạt, khi đó ngân hàng đứng trước
khả năng chịu tổn thất do nhu cầu thanh toán thục tế vượt quá khả năng dự
kiến làm cho ngân hàng mất khả năng thanh khoản. Ngoài ra, rủi ro thanh
khoản cũng có thể xảy ra do sai sót nghiệp vụ, hay bị lợi dụng trong thanh
toán séc, thanh toán điện tử….
Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất đối với ngân hàng và có
liên quan đến sự sống còn của một ngân hàng.
2.4/ Rủi ro hối đoái.
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng khi
tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Những rủi ro này có thể
phát sinh trong tất cả các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ của ngân hàng
như: cho vay, huy động vốn bằng ngoại tệ, mua bán ngoại tệ, đầu tư chúng

khoán bằng ngoại tệ…Rủi ro hối đoái là sự lỗ tiềm tàng cho các NHTM. Khi
tỷ giá ngoại tệ biến động thì giá trị tài sản có ròng bằng ngoại tệ thay đổi và
rủi ro ngoại hối xảy ra khi giá trị này âm. Điều này xảy ra trong 2 trường
hợp đó là trạng thái “trường” và “đoản” về hối đoái. Nếu ngân hàng ở trạng
thái ngoại tệ “trường” thì khi ngoại tệ tăng giá ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại
ngân hàng sẽ bị lỗ nếu ngoại tệ đó xuống giá. Nếu ngân hàng đang ở trạng
thái “đoản” về ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ lên giá ngân hàng sẽ bị lỗ và
ngược lại.
2.5/ Rủi ro hoạt động ngoại bảng
Hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài
sản (nội bảng). Các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các
chứng khoán hay giấy nhận nợ sơ cấp hoặc ngân hàng phát hành các chứng
khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp nhưng lại có thể ảnh hưởng đến trạng thái
tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng, vì các hoạt động ngoại bảng có
thể tạo ra những tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng.
Xuất phát từ hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí trong khi
không sử dụng đến vốn kinh doanh nên các hoạt động này ngày càng phát
triể, đi cùng với nó là những rủi ro tiềm ẩn. Có trường hợp rủi ro trong
trường hợp ngoại bảng là nguyên nhân dẫn đến ngân hàng phá sản. Nhưng
thông thường các hoạt động ngoại bảng tham gia tích cực trong phòng ngừa
rủi ro tín dụng, rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất…
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
2.6/ Rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là rủi rođầu tư nước ngoài mà khi ngân hàng gặp phải
khi đầu tư bản tệ cho cá công ty nước ngoài có trụ sở ở nước ngoài. Rủi ro
quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp rủi ro tín dụng trong trường
hợp ngân hàng đầu tư cho các công ty nội địa, vì khi rủi ro xảy ra ngân hàng
hầu như không thể thu hồi lại một phần vốn nào.
2.7/ Rủi ro công nghệ và hoạt động.

Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho công nghệ
không tạo ra khoản tiết liệm chi phí như dự kiến khi mở rộng quy mô hoạt
động.
Rủi ro hoạt động có liên quan chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể
phát sinh bất cứ khi nào khi hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc khi hệ
thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động. Ngoài ra còn có các rủi ro thuộc về
tự nhiên như động đất, bão lụt… hay do trộm cắp, hoả hoạn.
2.8/ Rủi ro khác
Ngoài ra còn có các loại rủi ro khác như rủi ro môi trường, rủi ro
pháp lý, rủi ro tồn đọng vốn…
Có thể thấy rằng, đồng nghĩa với việc cố gắng loại trừ, hạn chế rủi ro
là việc hy sinh lợi nhuận và thủ tiêu các chức năng trung gian tài chính bởi
rủi ro luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh. Do đó khi đánh giá hoạt động
kinh doanh hay khi đặt ra những kế hoạch kinh doanh cho chính mình, mọi
ngân hàng đều chú trọng tới việc dụ báo sự biến động của thị trường, khả
năng thu hút khách hàng, thông tin từ khách hàng…để hạn chế đến mức thấp
nhất những rủi ro có thể xảy ra.
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
II/ Lý thuyết về rủi ro tín dụng
1/ Khái quát về rủi ro tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng.
Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn
được gọi là tín dụng ngân hàng). Tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả cho
vay và đi vay, chính vì thế tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất cho các
ngân hàng thương mại đồng thời với nó cũng là hoạt động hàm chứa trong
mình rủi ro lớn nhất - rủi ro tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ
thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an
toàn cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an
toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự
đoán một cách chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay

của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều
cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích
đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro là không thể
tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điếm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là
bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại
trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt
động chung của ngân hàng.
2/ Rủi ro tín dụng
2.1/ Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng:
 Nguyên nhân bất khả kháng.
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ
mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ: thiên tia, chiến tranh hoặc
những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào
thuế quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người
cho vay, tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho người cho vay. Tuy
nhiên, khi tác động của những nguyên nhân này đến với người vay thì khả
năng trả nợ của họ đều bị suy giảm.
 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay.
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh
doanh, yếu quản trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng…là
nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay mạo hiểm với kỳ vọng
thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm
mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua
chuộc…Nhiều người vay đã không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả
năng tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng
thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Có trường hợp doanh

nghiệp chủ định lừa gạt, chiếm dụng vốn của ngân hàng, dùng một tài sản để
thế chấp vay nhiều nơi, không đủ năng lực pháp nhân.Trong trường hợp còn
lại, người vay kinh doanh có lãi song không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn.
Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng
tốt.
 Nguyên nhân thuộc về ngân hàng.
Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro, đôi
khi là rủi ro không thể tránh khỏi, nhưng rủi ro thực sự xảy ra phần nhiều là
do chính các bản thân ngân hàng không tuân thủ đúng các nguyên tắc tín
dụng.
Có những ngân hàng không tôn trọng đầy đủ quy trình cho vay gây sự
sơ hở để khách hàng chiếm đoạt vốn của ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc
đánh giá không tốt, cố tình làm sai…là một trong những nguyên nhân của
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
rủi ro tín dụng. Có nhiều cán bộ ngân hàng chưa thực sự gắn bó với hoạt
động của ngân hàng, vì lòng tham, vì tư lợi mà gây tình trạng gian lận, tham
nhũng, cố tình vi phạm quy định hoặc có hành vi lừa đảo gây thất thoát vốn
nghiêm trọng.
2.2/ Các tiêu thức đánh giá rủi ro tín dụng.
Tín dụng là một hoạt động sinh lời lớn nhất của ngân hàng song cũng
có rủi ro lớn nhất. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn
thất, làm giảm thu nhập cho ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất
có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy, các
ngân hàng phải cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi
quyết định tài trợ. Khi hoạch định chiến lược phát triển chung, muốn dự
đoán rủi ro dự kiến một cách chính xác nhất thì ngân hàng cần đo lường
được rủi ro. Đo lường rủi ro là cơ sở để ngân hàng xây dựng chính sách tín
dụng hợp lý, chính sách lãi suất phù hợp cho từng thời kỳ, xây dựng hệ số

rủi ro cho từng loại sản phẩm…
Hiện nay các ngân hàng thường sử dụng một số chỉ tiêu sau để đánh
giá rủi ro tín dụng:
• Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: đây là chỉ tiêu thường
được sử dụng nhất để đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng.
- Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã
đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Đây là khoản
vay mà ngân hàng xếp vào khoản vay có vấn đề. Nợ quá hạn có
hai loại: nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn không
có khả năng thu hồi.
- Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / tổng dư nợ *100%.
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Toán Kinh tế
• Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ đòi trên tổng dư nợ.
• Nợ có vấn đề.
• Tính đa dạng hoá của tài sản.
• Tình hình tài chính và phương án của người vay (các yếu tố của người
vay) hoặc xếp hạng tín dụng người vay.
• Đảm bảo tiền vay.
• Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
• Môi trường hoạt động của người vay.
• Các chỉ tiêu khác: bên cạnh nợ quá hạn và nợ khó đòi, nhà quản lý
ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo rủi ro tín khác, gắn liền với
chiến lược đa dạng hoá tài sản, lập hồ sơ khách hàng, trích lập quỹ dự
phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay…
Điểm của khách hàng: ngân hàng phân tích tình hình tài chính, năng
lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn…để lập hồ sơ về khách hàng,
xếp loại và cho điểm. Dựa vào các dấu hiệu này ngân hàng có thể thấy được
phần nào rủi ro “tiềm ẩn” của khách hàng.

Các khoản vay có vấn đề: là những khoản vay tuy chưa đến hạn, chưa
được coi là nợ quá hạn song ngân hàng nhận thấy có dấu hiệu kém lành
mạnh, có nguy cơ thành nợ quá hạn. Khi đó các khoản vay này được xem
xét, đành giá để có phương án xử lý cho phù hợp.
Tính kém đa dạng của tín dụng: thực hiện nguyên lý đa dạng hoá là
biện pháp hạn chế rủi ro, ngân hàng sẽ tránh việc tập trung đầu tư vào một
nhóm khách hàng, một nghành, hoặc một vùng hẹp để hạn chế rủi ro…
Mất ổn định vĩ mô: chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao,
tình hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai…đều tạo nên mất ổn
25

×