Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Một số giải pháp nhằm cắt giảm chi phí sản xuất tại công ty TNHH SEWS COMPONENTS việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 86 trang )



1

PHẦN MỞ ĐẦU

A. Tính cấp thiết của đề tài
Sản xuất là hoạt động nhằm biến đổi những yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu,
sức lao động, công nghệ ) thành đầu ra dưới dạng sản phẩm đáp ứng các yêu cầu
của khách hàng. Hiện nay, khi mà giá nguyên vật liệu và chi phí nhân công cũng
như các loại chi phí khác ngày càng tăng giá thành sản phẩm sẽ bị ảnh hưởng trực
tiếp. Trong khi đó tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường
đều có mục tiêu là nâng cao năng lực cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận của mình.
Để làm được điều này, giảm chi phí trong quá trình sản xuất nhằm hạ giá thành sản
phẩm là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là công
ty sản xuất.
Công ty TNHH SEWS-Components Việt Nam (SEWS-CV) là một doanh
nghiệp mới thành lập và bắt đầu đi vào sản xuất được 1 năm. Công ty chuyên sản
xuất khớp nối cho hệ thống dây điện trong ô tô. Đối với một công ty sản xuất như
SEWS-CV, chi phí sản xuất là chi phí chủ yếu trong tổng chi phí của doanh nghiệp.
Trong giai đoạn đầu bắt đầu xây dựng và hoạt động, để tạo được một chu trình sản
xuất giảm thiểu tối đa chi phí, tạo nên phương pháp quản lý sản xuất tốt là một vấn
đề hết sức quan trọng. Điều đó góp phần giảm giá thành sản phẩm và tăng sức cạnh
tranh cho doanh nghiệp.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm cắt giảm chi phí sản xuất
tại Công ty TNHH SEWS-COMPONENTS VIỆT NAM” làm luận văn thạc sỹ của
mình.
B. Đánh giá tổng quan các nghiên cứu về giảm chi phí sản xuất

Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường giữa các doanh nghiệp trên toàn cầu
nhằm chiếm được những thị phần lớn, mang lại doanh thu cao, kiếm được mức lợi




2

nhuận tối đa, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để đáp ứng tốt nhất những nhu
cầu của khách hàng như: chất lượng, tính năng sử dụng, dịch vụ hoàn hảo và quan
trọng hơn cả là giá cả phải hợp lý, cạnh tranh. Vì vậy, các doanh nghiệp phải đưa ra
các giải pháp quản lý tốt nhất để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm chi
phí, giảm giá thành đồng thời tăng lợi nhuận, phát triển bền vững doanh nghiệp.
Chính vì thế, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề quản lý chi phí sản
xuất cho các doanh nghiệp của các nhà nghiên cứu. Với những tài liệu của một số
năm gần đây, ta có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu về quản lý chi phí sản xuất,
hạch toán chi phí sản xuất nhằm đua ra các giải pháp giảm chi phí sản xuất như sau:
1. Luận văn thạc sỹ trường Đại học KTQD của Nguyễn Giang Thanh năm
2004 với đề tài: “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại các đơn vị sản xuất công nghiệp thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt
Nam”.
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là khái quát hoá một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận cơ bản về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Thông qua việc nghiên cứu khảo sát, phân tích thực tế công tác hạch toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các đơn vị sản xuất công nghiệp thuộc
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, luận văn đưa ra những nhận xét,
đánh giá những ưu nhược điểm của công tác hạch toán, đề xuất các giải pháp và
kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại các đơn vị này.
Luận văn đi sâu vào công tác hạch toán, tổ chức kế toán quản trị chi phí sản
xuất nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình quản lý chi phí sản xuất để định hướng
cho quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, luận văn không nghiên cứu cụ thể về quá
trình, nguyên nhân phát sinh chi phí sản xuất để có hướng đưa ra các biện pháp giải

quyết giảm chi phí.
2. Luận văn thạc sỹ trường Đại học KTQD của Hoàng Văn Tưởng năm 2005


3

với đề tài: “Xây dựng mô hình kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc Tổng công ty xây dựng công nghiệp
Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm xây dựng mô hình hệ thống thông
tin kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trên cơ sở phân tích, so
sánh với lý luận để đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường quản trị doanh nghiệp
trong các doanh nghiệp xây lắp thuộc Tổng công ty Xây dựng công nghiệp Việt
Nam.
Nội dung chủ yếu của luận văn này cũng chỉ tập trung vào góc độ kế toán
quản trị nhằm mục đích quản trị doanh nghiệp mà không đi sâu vào phân tích
nguyên nhân phát sinh những chi phí trong sản xuất, những điểm gây lãng phí trong
quá trình sản xuất, luận văn cũng không có nội dung nào về việc đưa các giải pháp
giảm chi phí sản xuất.
3. Luận văn thạc sỹ trường Đại học KTQD của Phí Văn Trọng năm 2006 với
đề tài: “Hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp xe máy Việt Nam”
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là hệ thống hóa và phát triển cơ sở lý luận về
tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp
sản xuất trên góc độ kế toán tài chính, kế toán quản trị chi phí. Nêu và phân tích
thực trạng tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp xe máy Việt Nam. Luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn
thiện tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Mặt được của đề tài này là đã phân tích và tìm ra những hạn chế của tổ chức
kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp. Người viết đã đưa ra được phương

hướng hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, mặt chưa được của đề tài này là chưa đưa ra các giải pháp
quản lý trong sản xuất nhằm giảm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp.


4

4. Luận văn thạc sỹ trường Đại học KTQD của Đỗ Thị Bạch Yến năm
2008 với đề tài “Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm với tăng cường quản trị nội bộ tại công ty cổ phần Đầu tư và bê tông
Thịnh Liệt”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Về lý luận: Hệ thống hoá lý luận chung về
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phục vụ công tác quản trị nội
bộ doanh nghiệp. Về thực tế: Mô tả, phân tích thực trạng hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần Đầu tư và bê tông Thinh liệt.
Luận văn đã phân tích, đánh giá rất sát với thực trạng của công ty, đưa ra
được những cơ sở lý luận rất khoa học để phân tích những mặt hạn chế của công tác
quản trị chi phí, hệ thống kế toán. Tuy nhiên với các giải pháp về tiết kiệm chi phí
sản xuất tác giả chỉ nêu ra một cách định tính, chung nhất về các giải pháp, mà
không nêu cụ thể được cách thức thực hiện và định lượng được kết quả của các giải
pháp.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác liên quan đến chi phí sản
xuất nhưng không có luận văn nào đưa ra các giải pháp cụ thể ở góc độ quản trị để
nhằm giảm chi phí trong quá trình sản xuất của các doanh nghiệp. Vì vậy trong luận
văn của mình, tác giả đề tài sẽ tập trung đi sâu vào phân tích những điểm, khâu
trong quá trình sản xuất phát sinh chi phí để đưa ra giải pháp cụ thể nhằm giảm chi
phí sản xuất một cách hiệu quả nhất tại Công ty TNHH SEWS-Components Việt
Nam.
Đối với Công ty TNHH SEWS-Components Việt Nam một doanh nghiệp
sản xuất thuộc tập đoàn Sumitomo Wirring System nổi tiếng của Nhật, khách hàng

là các tập đoàn xe ô tô nổi tiếng như Toyota, Honda, Nissan. Vì vậy, chiến lược về
sản phẩm, chiến lược về khách hàng của công ty rất ổn định, công ty chủ yếu tập
trung vào các hoạt động khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý công nhân viên nhằm
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
C. Mục tiêu nghiên cứu


5

Luận văn này tập trung luận giải cơ sở khoa học và phân tích, đánh giá thực
trạng tại Công ty TNHH SEWS-Components Việt Nam. Qua đó làm rõ sự cần thiết
phải cắt giảm các loại chi phí nhằm hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Thấy được những nguyên nhân gây ra thiếu sót trong vấn đề cắt giảm chi phí
sản xuất, từ đó, đề ra một số giải pháp giúp công ty khắc phục những hạn chế và
yếu kém đó.
D. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các loại chi phí sản xuất trực tiếp và gián tiếp hình thành nên giá
thành sản phẩm trong thời gian qua tại công ty TNHH SEWS-Components Việt
Nam.
E. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng tổng hợp một số phương pháp thống kê, so sánh, mô tả, phân
tích tổng hợp các thông tin dữ liệu sơ cấp và thứ cấp để phân tích, đưa ra các biện
pháp giảm chi phí sản xuất tại Công ty.
- Điều tra (quan sát, phỏng vấn…)
- Sử dụng các mô hình kinh tế và những lý thuyết cơ bản về thị trường.
F. Kết cấu nội dung đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận: Gồm 3 chương
Chương I: Chi phí sản xuất và vấn đề cắt giảm chi phí sản xuất.
Chương II: Thực trạng về cắt giảm chi phí sản xuất tại Công ty TNHH SEWS-

Components Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Một số giải pháp nhằm cắt giảm chi phí sản xuất Công ty TNHH
SEWS- Components Việt Nam trong thời gian sắp tới.


6

CHƯƠNG I: CHI PHÍ VÀ VẤN ĐỀ CẮT GIẢM CHI
PHÍ SẢN XUẤT

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHI PHÍ SẢN XUẤT.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm.
1.1.1.1. Khái niệm về chi phí sản xuất
Doanh nghiệp sản xuất là những doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra của cải
vật chất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Để tiến hành hoạt động sản xuất,
các doanh nghiệp sản xuất thường xuyên phải bỏ ra các khoản chi phí về các loại
đối tượng lao động, tư liệu lao động và lao động của con người, các chi phí dịch vụ
mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác. Để có thể biết được số chi phí mà doanh
nghiệp đã chi ra trong từng kỳ hoạt động là bao nhiêu, nhằm tổng hợp tính toán các
chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phục vụ yêu cầu quản lý, mọi chi phí chi ra cuối cùng đều
được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ và được gọi là chi phí sản xuất.
Như vậy: Chi phí sản xuất là tổng các hao phí về lao động sống và lao động
vật hoá được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong một kỳ nhất định (tháng, quý, năm)
Khi đề cập đến chi phí sản xuất cần phân biệt rõ chi phí sản xuất (CPSX) và
chi phí của doanh nghiệp. Chi phí của doanh nghiệp là toàn bộ chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra trong một thời kỳ nhất định bao gồm cho nhiều mục đích khác nhau
trong đó có mục đích là cho sản xuất. CPSX có phạm vi hẹp hơn chi phí của doanh
nghiệp và nằm trong chi phí của doanh nghiệp. Ở doanh nghiệp cũng cần phân biệt
giữa CPSX và chi tiêu của doanh nghiệp. CPSX là những khoản chi phí có liên

quan trực tiếp đến sản xuất ra sản phẩm trong một kỳ. Trong khi không phải tất cả
các khoản chi tiêu đều phục vụ cho việc sản xuất sản phẩm trong kỳ đó. Các khoản
chi tiêu trong kỳ vào việc mua sắm tài sản cố định hoặc mua sắm vật tư, nguyên vật


7

liệu dự trữ trong kho cho nhiều kỳ sản xuất không đồng nghĩa với chi phí sản xuất
trong kỳ đó.
1.1.1.2. Đặc điểm của chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản hao phí vật chất được tính bằng tiền
mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, có đặc điểm là
luôn vận động mang tính đa đạng và phức tạp gắn liền với tính đa dạng, phức tạp
của ngành nghề sản xuất, qui trình sản xuất.
Quá trình sản xuất hàng hóa là quá trình kết hợp và tiêu hao của 3 yếu tố: tư
liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi
phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan.
Ở đây, chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí được tập hợp để tạo nên giá trị và
giá thành sản phẩm. Nó khác với các chi phí của doanh nghiệp bởi
- Chi phí là toàn bộ số tiền hay những giá trị vật chất và thời gian hao phí
cho hoạt động của một tổ chức, một doanh nghiệp. Nó không chỉ là những giá trị
hình thành nên giá cả của một loại sản phẩm, dịch vụ nào đó mà còn bao gồm
những chi phí phi vật chất và toàn bộ chi phí nằm ngoài giá cả. Đó là chi phí thuế
quan, những chi phí tài chính cho việc huy động vốn từ ngân hàng và những chi phí
khác nữa.
- Việc tính toán chi phí sản xuất là phương pháp xác định giá trị và giá cả của
sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Đây là căn cứ khoa học để hình thành nên giá bán
- Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, chi phí của doanh nghiệp còn
bao gồm những chi phí liên quan đến quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá. Đó là các
chi phí thủ tục hải quan, những chi phí vận chuyển hàng bằng tầu biển, chi phí bảo

hiểm hàng hoá (nếu có) … Những chi phí này hình thành nên giá bán sản phẩm theo
đơn giá của hàng xuất khẩu.
- Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ đã phát sinh ra chúng.


8

- Chi phí phát sinh trong doanh nghiệp được phân thành các yếu tố chi phí,
có cùng một nội dung kinh tế, chúng không nói rõ địa điểm và mục đích bỏ ra chi
phí.
- Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn
thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm còn đang dở dang cuối kỳ và sản phẩm
hỏng.
Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, dịch vụ đã
hoàn thành. Sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng
trực tiếp đến giá thành sản phẩm.
1.1.2. Các yếu tố hình thành chi phí sản xuất.
Xuất phát từ đặc điểm của chi phí và quá trình hình thành chi phí, chi phí sản
xuất được tạo nên từ một số thành tố cơ bản sau:
• Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
• Chi phí lao động trực tiếp
• Chi phí sản xuất chung
1.1.2.1. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nguyên vật liệu trực tiếp là những yếu tố vật chất tạo nên thành phần chính
của sản phẩm. Nguyên liệu trực tiếp được nhận diện một cách dễ dàng trong sản
phẩm vì nó tượng trưng cho đặc tính dễ thấy nhất của sản phẩm được sản xuất ra.
Do vậy chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là biểu hiện bằng tiền những nguyên
vật liệu chủ yếu tạo thành thực thể của sản phẩm. Ngoài ra, trong quá trình sản xuất
còn phát sinh những loại nguyên vật liệu có tác dụng phụ thuộc, nó kết hợp với
nguyên vật liệu chính để sản xuất ra sản phẩm hoặc làm tăng chất lượng của sản

phẩm, chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi phí.
Để thực hiện việc quản lý chi phí, nguyên vật liệu luôn được xây dựng định
mức hợp lý dựa trên yêu cầu về kỹ thuật của sản phẩm, làm cơ sở cho việc so sánh


9

chi phí thực tế và chi phí định mức, qua đó phát hiện nguyên nhân làm gia tăng chi
phí nguyên vật liệu để có những giải pháp khắc phục kịp thời.
1.1.2.2.Chi phí lao động trực tiếp
Lao động trực tiếp là những người trực tiếp sản xuất sản phẩm, lao động
của họ gắn liền với việc sản xuất sản phẩm, sức lao động của họ hao phí trực tiếp
cho sản phẩm được sản xuất.
Vậy chi phí lao động trực tiếp chính là tiền lương chính, phụ; các khoản trích
theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN) và các khoản phải trả khác cho những
lao động trực tiếp nói trên. Chi phí nhân công trực tiếp được hạch toán trực tiếp vào
giá thành sản phẩm. Không tính vào khoản mục này các khoản tiền lương, phụ cấp
và các khoản trích trên tiền lương của nhân viên phân xưởng, nhân viên bán hàng,
nhân viên quản lý doanh nghiệp hay nhân viên khác.
1.1.2.3. Chi phí sản xuất chung.
Các chi phí sản xuất, ngoài chi phí nguyên liệu trực tiếp và lao động trực
tiếp, được phân loại là chi phí sản xuất chung hay còn gọi là chi phí hỗn hợp.
Chi phí sản xuất chung bao gồm chi phí nguyên liệu gián tiếp, chi phí lao
động gián tiếp, chi phí khấu hao tài sản cố định, các chi phí tiện ích như điện, nước,
văn phòng phẩm và các chi phí sản xuất khác.
Đặc điểm của chi phí sản xuất chung là không thể tính trực tiếp vào sản
phẩm, chúng sẽ được tính vào chi phí sản phẩm thông qua việc phân bổ chi phí. Chi
phí sản xuất chung còn được gọi tên là chi phí chung của phân xưởng (factory
overhead costs) hoặc chi phí sản xuất gián tiếp (indirect manufacturing costs).
Chi phí sản xuất chung thường khó xác định cho từng sản phẩm riêng biệt. Do

vậy, để xác định chi phí sản xuất chung cho từng sản phẩm, doanh nghiệp phải phân bổ
cho các sản phẩm theo những tiêu thức nhất định.
Chi phí sản xuất
chung phân bổ cho

=

Tổng chi phí SXC
cần phân bổ

x

Tiêu thức
phân bổ


10

sản phẩm i Tổng tiêu thức phân bổ cho sản phẩm i
Các tiêu thức phân bổ có thể lựa chọn như:
+ Chi phí tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất cho từng loại sản phẩm;
+ Số giờ lao động trực tiếp sản xuất cho từng loại sản phẩm;
+ Số giờ máy hoạt động để sản xuất từng loại sản phẩm;
+ Định mức tiêu hao nguyên liệu để sản xuất từng loại sản phẩm;
Các khoản mục chi phí sản xuất chung:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng: Gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp phải trả
và các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN trên tiền lương của nhân viên
quản lý, nhân viên thống kê, nhân viên tiếp liệu, nhân viên bảo vệ tại phân xưởng
sản xuất theo quy định;
+ Chi phí vật liệu: Gồm vật liệu các loại sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung

của phân xưởng sản xuất như dùng vào sửa chữa TSCĐ, dùng cho công tác quản lý
tại phân xưởng;
+ Chi phí dụng cụ sản xuất: Chi phí về các loại công cụ, dụng cụ dùng cho nhu
cầu sản xuất chung ở phân xưởng sản xuất như: Khuôn mẫu, dụng cụ gá lắp, dụng
cụ cầm tay, dụng cụ bảo hộ lao động
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: Bao gồm số khấu hao TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô
hình và TSCĐ thuê tài chính sử dụng ở phân xưởng sản xuất như khấu hao máy
móc thiết bị sản xuất, khấu hao nhà xưởng
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm các khoản chi về dịch vụ mua ngoài,
thuê ngoài để sử dụng cho nhu cầu sản xuất như chi phí về điện, nước, điện thoại,
thuê ngoài sửa chữa TSCĐ


11

+ Chi phí bằng tiền khác: Bao gồm các khoản chi bằng tiền ngoài các khoản
kể trên, sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng sản xuất;
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển theo xu hướng hiện đại hóa, ứng dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất đã làm cho cơ cấu chi phí thay đổi, theo hướng
giảm dần chi phí lao động trực tiếp và gia tăng chi phí sản xuất chung. Một yêu cầu
đặt ra là phải phân tích chính xác chi phí sản xuất chung dựa trên mức độ hoạt động
của Doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc ước tính và phân bổ chi phí một cách hợp lý,
cung cấp thông tin cho các quyết định về giá cả sản phẩm tiêu thụ.
1.1.3. Bản chất của chi phí sản xuất
Chi phí của doanh nghiệp có thể được hiểu là: Toàn bộ các hao phí về lao
động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi
ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, biểu hiện bằng tiền và tính cho một thời kỳ
nhất định. Như vậy, bản chất của CPSX của doanh nghiệp luôn được xác định là
những phí tổn (hao phí) về vật chất, về lao động sống và phải gắn liền với mục đích
sản xuất kinh doanh.

Khi xem xét bản chất của chi phí trong doanh nghiệp, cần phải xác định rõ
các mặt sau:
- Chi phí của doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán bằng tiền trong
một khoảng thời gian xác định.
- Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào 2 nhân tố chủ yếu: khối lượng các yếu tố
sản xuất đã tiêu hao trong kỳ và giá trị của một đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí.

1.1.3.1. Phân biệt chi tiêu và chi phí của doanh nghiệp:
Chi tiêu và chi phí có mối quan hệ mật thiết với nhau, đồng thời có sự khác
nhau về lượng và về thời điểm phát sinh. Chi phí phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, vì vậy nó được chi từ nguồn vốn kinh doanh và được bù đắp từ thu
nhập hoạt động sản xuất kinh doanh; chi tiêu không gắn liền với mục đích sản xuất
kinh doanh, vì vậy nó có thể được chi từ những nguồn khác nhau, có thể lấy từ quỹ
phúc lợi, từ trợ cấp của nhà nước


12

Xét về bản chất thì chi phí sản xuất là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp
vào đối tượng tính giá nhất định, nó là vốn của doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản
xuất, tuy nhiên có những khoản được tính vào chi phí sản xuất nhưng bản chất
không phải là CPSX như các khoản trích theo lương, thuế tài nguyên
Xét về ảnh hưởng của chi phí sản xuất đến chi phí đơn vị sản phẩm:
Ta được biết giá thành sản phẩm là toàn bộ CPSX chi ra để sản xuất một
đơn vị sản phẩm. Cả CPSX và giá thành sản phẩm đều được hiểu là các hao phí về
lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra trong một thời kỳ, không
kể chi phí đó chi cho bộ phận nào và cho sản xuất sản phẩm gì. Và khi nói đến giá
thành sản phẩm người ta chỉ quan tâm đến các chi phí đã chi ra có liên quan đến
việc sản xuất hoàn thành một khối lượng sản phẩm, hoặc thực hiện một công việc
dịch vụ mà không quan tâm đến chi phí đó chi ra vào kỳ nào.

1.1.3.2. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
CPSX và giá thành sản phẩm là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan
hệ mật thiết. CPSX là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, CPSX biểu hiện sự hao phí
để sản xuất sản phẩm, còn giá thành sản phẩm biểu hiện kết quả của quá trình sản
xuất.
Đây là hai mặt thống nhất của cùng một quá trình, vì vậy chúng giống nhau
về chất, cùng biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động sống, lao động vật hoá
bỏ ra. Nhưng giữa CPSX và giá thành sản phẩm khác nhau về mặt lượng. Khi nói
đến CPSX là giới hạn chúng trong một thời kỳ nhất định, không phân biệt là cho
loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay chưa. Còn khi nói đến giá thành sản phẩm là
xác định một lượng CPSX nhất định, tính cho một đại lượng kết quả hoàn thành
nhất định.
Đứng trên góc độ quá trình hoạt động để xem xét, thì quá trình sản xuất là
một quá trình hoạt động liên tục, còn việc tính giá thành sản phẩm là một điểm cắt
có tính chu kỳ để so sánh chi phí với đại lượng kết quả, nên tại thời điểm tính giá
thành có thể có khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành, chứa đựng một lượng chi phí


13

cho nó, gọi là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Tương tự như vậy, đầu kỳ có thể có
một lượng sản phẩm sản xuất chưa hoàn thành ở kỳ trước chuyển sang kỳ này để
tiếp tục sản xuất chứa đựng một lượng chi phí sản xuất cho nó, gọi là chi phí sản
xuất dở dang đầu kỳ. Như vậy, giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ bao gồm
chi phí sản xuất của kỳ trước chuyển sang và một phần chi phí phát sinh trong kỳ.
Hơn nữa, giá thành sản phẩm mang tính chủ quan, phụ thuộc vào những phương
pháp tính toán phân bổ như việc ghi nhận trước vào giá thành sản phẩm những
khoản được coi là chi phí nhưng thực tế chưa phát sinh hoặc những chi phí thực tế
đã chi ra nhưng được phân bổ cho nhiều kỳ, nhằm đảm bảo một sự ổn định tương
đối cho giá thành sản phẩm qua các thời kỳ.

Mối quan hệ giữa CPSX và tổng giá thành được thể hiện bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Quan hệ giữa CPSX và tổng giá thành


Tóm lại, giữa CPSX và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với
nhau, tuy nhiên giữa chúng có những điểm giống và khác nhau cơ bản sau:
Bảng 1.1. Điểm giống và khác nhau giữa CPSX và giá thành sản phẩm

Chi phí sản xuất Giá thành sản xuất sản phẩm
Cùng nội dung kinh tế: Hao phí của các nguồn lực
Liên quan đến thời kỳ sản xuất Liên quan đến khối lượng thành phẩm
Riêng biệt của từng kỳ sản xuất Có thể là chi phí sản xuất của nhiều kỳ
CPSX dở dang đầu kỳ
CPSX chia ra trong kỳ
Giá thành sản phẩm sản xuất trong kỳ
CPSX dở dang cuối kỳ


14

Liên quan đến thành phẩm, sản phẩm dở
dang
Liên quan đến thành phẩm
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất
Khả năng tiếp thu kỹ thuật công nghệ, trình độ quản lý sản xuất của những nhà
quản lý cũng như trình độ của mỗi cá nhân tham gia vào quá trình sản xuất có ảnh
hưởng rất lớn đến việc làm tăng hay giảm chi phí sản xuất ở mỗi doanh nghiệp. Sau
đây ta sẽ xét những yếu tố có ảnh hưởng mạnh và trực tiếp đến vấn đề tăng, giảm
chi phí sản xuất.
1.1.4.1. Nhân tố công nghệ kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật

Sự phát triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật cho phép ngày càng sáng
tạo và đưa vào áp dụng nhiều loại công nghệ khác nhau để sản xuất ra các loại sản
phẩm. Trong điều kiện đó, doanh nghiệp đứng trước nhiều phương án công nghệ
khác nhau cùng nhằm chế tạo ra một loại sản phẩm nhất định nào đó hoặc tính đến
việc thay đổi công nghệ để chế tạo ra sản phẩm mới. Áp dụng công nghệ chế biến
khác nhau sẽ dẫn đến sự khác nhau về cách thức và trình tự của quá trình sản xuất,
về trang thiết bị kỹ thuật, về sử dụng lực lượng lao động cụ thể, về thiết lập và tổ
chức điều hành sản xuất,… Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải lựa chọn công nghệ
thích hợp. Mặt khác, do việc thay đổi, hoàn thiện hay cải tiến công nghệ thường kéo
theo sự thay đổi về các điều kiện trang thiết bị kỹ thuật, lực lượng lao động, sử
dụng nguyên vật liệu,… cũng như đòi hỏi đầu tư lớn, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh trong thời gian dài nên việc lựa chọn công nghệ để quyết định phương án
công nghệ tối ưu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Lựa chọn công nghệ đúng đắn có ý
nghĩa tạo ra tiềm năng nâng cao hiệu quả lâu dài cho doanh nghiệp và ngược lại,
nếu lựa chọn sai sẽ dẫn đến hiệu quả thấp và thậm chí không có hiệu quả kinh
doanh mà không thể sửa chữa được.
Có thể nói trình độ công nghệ càng hiện đại, càng tiên tiến thì khả năng chế
tạo ra sản phẩm đạt chất lượng tốt, năng suất cao là lẽ tất yếu, nhưng chúng ta phải
đề cập đến vấn đề giá thành (tức chi phí đầu tư cho trang thiết bị mới) nhằm đổi mới


15

quy trình công nghệ gia công sản phẩm của doanh nghiệp, chi phí cho vấn để
chuyển giao và tiếp thu công nghệ mới. Nếu công nghệ mới đòi hỏi sử dụng nhiều
vốn hơn và ít lao động hơn (thâm dụng vốn tương đối), chi phí cố định sẽ tăng và
chi phí biến đổi sẽ giảm. Trong trường hợp này chi phí trung bình sẽ tăng ở mức sản
lượng thấp và giảm ở mức sản lượng cao hơn.
1.1.4.2. Nhân tố lực lượng lao động
Doanh nghiệp là một hệ thống thống nhất bao gồm ba phân hệ cơ bản là quản

trị tài chính, quản trị sản xuất và quản trị marketing. Trong các hoạt động trên, sản
xuất được coi là khâu quyết định tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ và giá trị gia tăng.
Chỉ có hoạt động sản xuất hay dịch vụ mới là nguồn gốc của mọi sản phẩm và
dịch vụ được tạo ra trong doanh nghiệp. Sự phát triển sản xuất và dịch vụ là cơ sở
làm tăng giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, tăng trưởng cho nền kinh tế quốc dân tạo
cơ sở vật chất thúc đẩy xã hội phát triển. Quá trình sản xuất được quản lý tốt góp
phần tiết kiệm được các nguồn lực cần thiết trong sản xuất, giảm giá thành, tăng
năng suất và hiệu quả của doanh nghiệp nói chung.
Trong sản xuất kinh doanh, lực lượng lao động của doanh nghiệp có thể sáng
tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho
việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cũng chính lực lượng lao động sáng
tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, làm
cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể bán được tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Con người tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình độ sử
dụng các nguồn lực khác (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu…) nên tác động trực
tiếp và quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngày nay, sự phát triển khoa học
kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng cơ bản của nền
kinh tế tri thức là hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm rất cao. Đòi hỏi lực
lượng lao động phải là lực lượng có tay nghề và có trình độ khoa học kỹ thuật cao.
Điều này càng khẳng định vai trò quyết định của lực lượng lao động đối với việc
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.


16

1.1.4.3. Giá của các yếu tố sản xuất
CPSX là toàn bộ các khoản hao phí vật chất được tính bằng tiền mà doanh
nghiệp đã bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm. Trong khi đó, để sản xuất
được ra sản phẩm không thể thiếu các yếu tố sản xuất. Các yếu tố sản xuất bao gồm:
sức lao động của con người, nguyên vật liệu trực tiếp, thiết bị máy móc, nhà

xưởng Các khoản hao phí này được đo bằng tiền để tính chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm thông qua thước đó giá cả. Như vậy, giá của các yếu tố sản xuất tỉ
lệ thuận với chi phí sản xuất. Nói một cách khác, giá của các yếu tố sản xuất có
quan hệ mật thiết với chi phí sản xuất, nếu giá của các yếu tố sản xuất tăng sẽ kéo
theo chi phí sản xuất tăng, giá của các yếu tố sản xuất giảm kéo theo chi phí sản
xuất giảm. Sự thay đổi trong giá nguồn lực sẽ làm thay đổi chi phí. Một sự gia tăng
chi phí cố định sẽ làm tổng chi phí và chi phí trung bình tăng nhưng không làm tăng
chi phí biên. Một sự gia tăng chi phí biến đổi sẽ làm tăng tổng chi phí, chi phí trung
bình và chi phí biên.
1.2. CẮT GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT.
1.2.1. Khái niệm và nội dung.
1.2.1.1. Khái niệm.
Cắt giảm chi phí là cách thức mà một doanh nghiệp tiến hành nhằm giảm
thiểu những giá trị đầu vào trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp giúp hạ giá
thành sản phẩm, từ đó tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường cùng
ngành.
Việc cắt giảm chi phí là một quá trình diễn ra lâu dài và rất phức tạp. Chi phí
phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có những yếu tố chủ quan và những yếu tố
khách quan mà bản thân mỗi doanh nghiệp không thể khống chế được bởi tính biến
động không ngừng của nó. Chi phí luôn ở trạng thái “động”. Do đó, doanh nghiệp
muốn thành công trong hoạt động này cần phải có tiềm lực mạnh với quyết tâm cao,


17

đồng thời phải không ngừng nắm bắt kịp thời các thông tin mới nhất trên thị trường
để có những quyết sách phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Cắt giảm chi phí là một hoạt động vô cùng cần thiết và hữu ích cho mỗi
doanh nghiệp nếu muốn tồn tại trên thị trường và giữ được chỗ đứng. Cắt giảm chi
phí làm hạ giá bán sản phẩm trên thị trường và tiến tới nâng cao sức cạnh tranh của

sản phẩm. Doanh nghiệp có sức cạnh tranh sản phẩm cao sẽ hứa hẹn đem lại khoản
doanh thu và lợi nhuận kếch xù thông qua cạnh tranh về giá bán. Tuy nhiên không
phải công ty nào cung có thể làm tốt công tác này. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, mỗi
một doanh nghiệp lại có những chiến lược kinh doanh khác nhau. Do vậy, tuỳ thuộc
vào các yếu tố cạnh tranh và đặc biệt là những yêu cầu của thị trường mà doanh
nghiệp có những cách ứng xử phù hợp để đưa ra những chiến lược phù hợp cho
từng giai đoạn phát triển nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh.
Việc cắt giảm chi phí là luôn phải gắn liền với hiệu quả kinh tế tài chính của
công ty và phải nằm trong khuôn khổ luật pháp. Có thể nói rằng: cắt giảm chi phí là
con dao hai lưỡi. Một mặt, hoạt động này là tăng năng lực cạnh tranh giúp tăng lợi
nhuận cho công ty và có thể phục vụ tốt nhất cho lợi ích của cán bộ công nhân viên
nhằm tạo động lực cho sản xuất và tăng năng suất lao động chung trong mỗi doanh
nghiệp. Công ty có thể cắt giảm các chi phí không cần thiết như chi phí điện nước
hay chi phí nguyên vật liệu bằng cách tìm nhà cung cấp mới có giá rẻ hơn, sử dụng
nguyên liệu tái chế nhưng vẫn phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng. Một mặt,
bằng cách này hay cách khác công ty có thể bất chấp thủ đoạn để trốn tránh nghĩa
vụ với nhà nước, thiếu trách nhiệm, thực hiện các hành vi bất hợp pháp thông qua
việc trốn thuế, mua những nguyên vật liệu lậu để giảm chi phí sản xuất một cách
đáng kể. Hành động này cần được lên án để ngăn chặn kịp thời.
1.2.1.2. Nội dung của việc cắt giảm chi phí sản xuất.
Hoạt động sản xuất luôn diễn ra một liên tục để đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu
thị trường theo đúng tiến độ. Cắt giảm chi phí cũng phải được tiến hành song song.


18

Việc cắt giảm chi phí phải được thực hiện một cách nghiêm túc và chặt chẽ để đảm
bảo tránh thất thoát và đạt hiệu quả cao.
Chi phí sản xuất là tập hợp của nhiều yếu tố chi phí, vịêc cắt giảm chi phí
cũng phải tiến hành trên các khoản mục sau:

a. Cắt giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nguyên vật liệu trực tiếp là yếu tố vật chất đầu vào trong mọi quá trình sản xuất.
Nó là thành phần chính, nguyên liệu chính cấu thành nên dáng hình sản phẩm. Nếu
không có chúng thì quá trình sản xuất không thể xảy ra. Do đó, nguyên vật liệu có vai
trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên sản phẩm .
Chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí hình
thành nên giá cả thành phẩm. Bởi vậy, giảm chi phí nguyên vật liệu là một nội dung
mà các doanh nghiệp quan tâm và tìm kiếm phương thức thực hiện hiệu quả. Cắt
giảm chi phí nguyên vật liệu doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được một khoản tiền để chi
trả cho những hoạt động cần thiết.
b. Cắt giảm chi phí nhân công
Đảng đã khẳng định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con
người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Tuy nhiên, từ ý tưởng trên đi tới đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện
là cả một cuộc trường chinh gian khổ cho chất lượng nguồn nhân lực và năng suất
lao động.
Hiện nay, khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới mức trần, doanh
nghiệp đang đứng trước đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa
trên lao động giá rẻ và nhờ cậy vào tài nguyên, môi trường sáng tạo ra lợi thế cạnh
tranh chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người. Song, doanh nghiệp đang vấp
phải 3 trở lực lớn: chất lượng còn thấp về nguồn nhân lực, sự bất cập lớn của kết


19

cấu hạ tầng vật chất kỹ thuât, năng lực quản lý hẫng hụt nhiều mặt. Vấn đề con
người luôn được doanh nghiệp quan tâm. Do đó, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh thì cần phải quan tâm đến đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty

nhằm phát huy nội lực tối đa và giảm chi phí một cách lâu dài chứ không thể cắt
giảm lương của người lao động.
Tuy nhiên, để góp phần cắt giảm chi phí nhân công trực tiếp trong giai đoạn
lạm phát ngày một tăng cao, và chế độ lương tối thiểu chung, tối thiểu vùng liên tục
tăng lên một cách nhanh chóng, doanh nghiệp phải bằng mọi cách tìm ra đối sách,
phương hướng để nâng cao năng suất lao động. Có như vậy, doanh nghiệp vừa có
thể tra lương cao hơn cho người lao động, vừa tăng lượng sản xuất hàng hóa góp
phần giảm chi phí nhân công/1 đơn vị thành phẩm mà vẫn đảm bảo chăm lo đời
sống cho công nhân viên.
c. Cắt giảm chi phí sản xuất chung
Hoạt động sản xuất là hoạt động diễn ra thường xuyên và bao gồm rất nhiều
yếu tố sản xuất. Đây là yếu tố phục vụ một cách đắc lực cho quá trình sản xuất sản
phẩm có thể được thực hiện với tốc độ nhanh và mang tính khoa học. Nó kết hợp
sức lao động của con người và sự sẵn có của nguyên vật liệu để trợ giúp cho hoạt
động sản xuất của công ty. Toàn bộ chi phí mua máy móc và trang thiết bị phục vụ
hoạt động sản xuất đều được coi là những chi phí sản xuất chung.
Việc cắt giảm chi phí sản xuất chung đòi hỏi các doanh nghiệp cần cân nhắc
thật kỹ càng bởi nó có liên quan một cách mật thiết với năng suất lao động. Tuy
nhiên tiết giảm chi phí này lại có thể nhanh chóng nâng cao sưc cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường và luôn có cơ hội để tìm kiếm một thị trường mới tiềm năng
hơn.
1.2.2. Sự cần thiết phải cắt giảm chi phí sản xuất.
1.2.2.1. Chi phí sản xuất cao do lạm phát.



20

“Hiện tượng lạm phát là căn bệnh cố hữu của mọi nền kinh tế đang có tốc độ
tăng trưởng dương, để khắc phục hiện tượng này, trước hết ta phải phân tích được

những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp gây ra nó”
1
.
Bởi vì, lạm phát luôn luôn là kết quả của sự tác động tổng hợp của các yếu tố
kinh tế khác nhau, và thường thì rất khó nhận ra đâu là nguyên nhân chủ yếu, nên
việc chống lạm phát thường gặp nhiều khó khăn. Từ sự phân tích đúng đắn này, ta
mới có thể đề ra các giải pháp quản lí, sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô (bao
gồm: chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại, chính
sách thu nhập) phối hợp thực hiện một cách đồng bộ với nhau nhằm tạo ra một tác
động tổng hợp kiềm chế lạm phát ở mức độ vừa phải, tạo điều kiện thuận lợi cho
nền kinh tế phát triển một cách bền vững.
Chi phí sản xuất tăng có thể do các nguyên nhân sau: do gia tăng tiền lương
danh nghĩa, tăng giá nguyên-nhiên-vật liệu,… Do chi phí sản xuất tăng nên doanh
nghiệp buộc phải tăng giá sản phẩm nhằm bảo đảm lợi nhuận.
Ở Việt Nam, để tính lạm phát, người ta chỉ dùng " chỉ số giá tiêu dùng" CPI.
Theo thống kê báo cáo, CPI tháng 11/2011 so với tháng 11/2010 tăng 18,5%.
Điều này khiến cho hàng loạt nhà máy xí nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản
do lượng hàng tiêu thụ giảm sút do giảm cầu tiêu dùng. Vấn để đặt ra cho các doanh
nghiệp trong giai đoạn này là làm sao có thể bình ổn được giá cả sản phảm để nhanh
chóng lấy lại thị trường tiêu thụ đã tuột khỏi tay với do sự tăng giá của hàng hoá xã
hội nói chung và sản phẩm của doanh nghiệp nói riêng. Bởi vậy, các doanh nghiệp
cần thực hiện các biện pháp cắt giảm chi phí để bù đắp cho tình trạng lạm phát hiện
nay.
1.2.2.2. Vai trò của giảm chi phí sản xuất và công tác quản lý chi phí sản xuất
Không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
không chỉ là mối quan tâm của bất kỳ xã hội nào mà còn là mối quan tâm của bất kỳ
doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Nó cũng thể hiện chất lượng của
toàn bộ công tác quản lý- điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh



1



21

nghiệp. Tất cả những cải tiến, đổi mới về nội dung, phương pháp và biện pháp thực
hiện giảm chi phí sản xuất thực sự mang lại ý nghĩa khi làm tăng được kết quả kinh
doanh mà qua đó làm tăng được hiệu quả kinh doanh.
Đối với doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh không những là thước đo chất
lượng phản ánh trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của
doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường với sức ép cạnh tranh ngày một tăng, doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển, yêu cầu đầu tiên là phải đạt hiệu cao trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Hiệu quả kinh doanh ngày càng cao doanh
nghiệp ngày càng có điều kiện mở mang, và phát triển kinh tế, đầu tư đổi mới công
nghệ. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện ở các mặt
sau:
Đối với nền kinh tế quốc dân hiệu quả kinh tế là một phạm trù quan trọng,
phản ánh trình độ sử dụng lực lượng sản xuất và mức độ hoàn thiện quan hệ sản
xuất của nền kinh tế đó.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng hoàn thiện thì càng
nâng cao hiệu quả sử dụng. Càng nâng cao hiệu quả sử dụng thì khả năng phát triển
của lực lượng sản xuất ngày càng lớn và càng có điều kiện hoàn thiện quan hệ sản
xuất cũng như phát huy hơn nữa vai trò của quản lý kinh tế trong nền kinh tế.
Đối với bản thân doanh nghiệp thì hiệu quả kinh tế xét về mặt tuyệt đối chính
là lợi nhuận thu được, đây chính là cơ sở để tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời
sống cho cán bộ công nhân viên cũng như tăng cường tích luỹ cho nhà nước, tăng
uy tín và thế lực của doanh nghiệp trên thương trường.
Đối với cá nhân người lao động thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp tác động trực tiếp đến thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp, nó
kích thích người lao động hăng hái lao động, quan tâm và có trách nhiệm đối với
kết quả lao động của mình.


22

1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cắt giảm chi phí sản xuất trong doanh
nghiệp sản xuất ngành điện, điện tử
1.2.3.1. Chi phí nguyên vật liêu trên một đơn vị thành phẩm
Thành phẩm là giá trị hàng hoá được hoàn thành qua quá trình sản xuất sản
phẩm. Chi phí nguyên vật liệu/ 1 đơn vị thành phẩm là một chỉ tiêu kinh tế cho biết
lượng nguyên vật liệu tổn hao và được kết tinh trong sản phẩm hàng hoá sau khi kết
thúc chu kỳ chuyển hoá.
Chỉ tiêu này có ý nghĩa nhiều mặt:
+ Thứ nhất: cho biết sự tương quan về lượng giữa cái được và cái mất, giữa
cái doanh nghiệp phải bỏ ra với giá trị doanh nghiệp được thu về sau quá trình để có
những biện pháp điều chỉnh phù hợp với thực tế sản xuất thông qua việc lập kế
hoạch sản xuất cho kỳ kinh doanh tiếp theo và những chiến lược thị trường hiệu
quả.
+ Thứ hai: Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả kinh doanh bằng việc tiết giảm
chi phí. Chỉ số này càng thấp cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp đang trong giai đoạn phát triển.Trong tiến trình phát triển của doanh nghiệp,
tổng chi phí có thể tăng lên do nhu cầu tiêu dùng sản phẩm ngày càng tăng, nhưng
chi phí nguyên vật liệu/ 1 đơn vị sản xuất kinh doanh ngày càng giảm do số lượng
thành phẩm gia tăng với tốc độ nhanh hơn nhiều. Bởi vậy, doanh nghiệp cần tiết
kiệm chi phí nguyên vật liệu để hạ thấp chỉ số này nhằm tăng sức cạnh tranh của
thành phẩm thông qua cắt giảm chi phí này.
1.2.3.2. Chi phí tiền lương trên 1 đơn vị đơn vị thành phẩm
“Chi phí tiền lương trên 1 đơn vị đơn vị thành phẩm là một chỉ tiêu kinh tế

có ý nghĩa nhiều mặt. Chi phí tiền lương không chỉ được coi như là một khoản chi
phí mà nó còn liên quan mật thiết đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, quan hệ lợi ích
giữa các chủ thể cùng tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh


23

nghiệp”
2
.
Nếu chỉ số này càng nhỏ thì hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp ngày càng
cao và ngược lại. Năng xuất lao động tăng lên (do giảm chi phí lao động trên một
đơn vị kết quả sản xuất kinh doanh) đã làm cho chi phí tiền lương giảm đi, góp phần
tiết kiệm các chi phí sản xuất cho phép doanh nghiệp tăng lợi nhuận của mình.
• Thứ nhất: Tiết kiệm chi phí tiền lương và cải thiện thu nhập của người lao
động trên cơ sở tăng lương về hình thức là 2 xu hướng mâu thuẫn với nhau, nhưng
thực tế lại là quy luật tất yếu. Nội dung của quy luật này là tiết kiệm chi phí tiền
lương trên cơ sở tăng năng suất lao động, giảm chi phí lao động cho mỗi đơn vị kết
quả sản xuất kinh doanh, là điều kiện trực tiếp để tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tiết kiệm chi phí tiền lương như
vậy, hoàn toàn không gạt bỏ mà là điều kiện cần thiết để tăng thu nhập cho người
lao động.
• Thứ hai: Tiền lương và chi phí của người lao động được bù đắp ở tỷ lệ tiết
kiệm chi phí sản xuất (trong đó có chi phí tiền lương) dưới hình thức tăng tiền công
và tăng phần phân phối từ lợi nhuận để lạo trong doanh nghiệp dưới dạng tiền
thưởng, phúc lợi tập thể, các tiền trả khác theo quy định của ngành và của Nhà
nước.
Như vậy, giảm chi phí tiền lương nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
đảm bảo lợi nhuận doanh nghiệp tăng lên. Tuy nhiên việc cắt giảm tiền lương là do
năng suất lao động tăng lên và mức hao phí lao động trên một đơn vị kết quả sản

xuất kinh doanh giảm đi lớn hơn là tăng tiền lương cho một đơn vị hao phí. Điều
này cũng cho thấy rằng rằng tốc độ tăng của năng suất lao động đảm bảo nhanh hơn
tốc độ tăng tiền lương bình quân trong doanh nghiệp.
• Thứ ba: dưới tác động gián tiếp của việc tăng năng suất lao động và tiền
lương bình quân, chi phí sản xuất nói chung và chi phí tiền lương nói riêng, phần
thu của Nhà nước từ thuế cũng từ đó mà tăng lên.

2
PGS.TS Bùi Tiến Quý, PGS. Vũ Quang Thọ - Chi phí tiền lương của các doanh nghiệp Nhà Nước trong nền
kinh tế thị trường – NXB Chính trị Quốc gia – 1997, Tr.126


24

1.2.3.3. Chi phí bán hàng trên một sản phẩm được tiêu thụ.
Đây là khoản chi cho hoạt động của bộ phận bán hàng ứng với việc tiêu thụ
được một đơn vị sản phẩm hàng hoá và đã thực hiện thanh toán.
Chỉ tiêu này có ý nghĩa cô cùng quan trọng trong việc ghi nhận những thành
quả đã đạt được sau cả quá trình sản xuất sản phẩm.
• Thứ nhất: Cho biết năng lực tiêu thụ sản phẩm với chi phí nhất định. Khi
quá trình sản xuất diễn ra đều đặn và liên tục tạo ra sản phẩm, nhưng không có thị
trường tiêu thụ thì công ty sẽ dẫn đến phá sản do không đủ khả năng tài chính để chi
trả cho cán bộ công nhân viên. Bán hàng là cầu nối sản phẩm hàng hoá đến tay
người tiêu dùng và đem lại giá trị doanh thu cho doanh nghiệp.
• Thứ hai: cho biết hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau quá
trình sản xuất sản phẩm. Cũng như hai loại chi phí đã nói trên, chỉ tiêu này có trị số
càng nhỏ thì hiệu quả kinh doanh càng lớn.
• Thứ ba: Thông qua những con số trong hệ thống chỉ số này, các nhà quản
lý có thể xây dựng được chiến lược sản xuất phù hợp cho doanh nghiệp trong giai
đoạn tiếp theo.

1.2.3.4. Chi phí quản lý doanh nghiệp trên một đơn vị lợi nhuận.
Là khoản chi phí rất nhạy cảm với công việc quản lý, chi phí quản lý doanh
nghiệp/1 đơn vị lợi nhuận toàn doanh nghiệp cho thấy giá trị mà bộ phận quản lý,
các khối văn phòng tiêu tốn để hình thành nên một đơn vị lợi nhuận của toàn doanh
nghiệp. Chi phí quản lý/ 1 đơn vị lợi nhuận càng nhỏ, doanh nghiệp càng làm ăn có
hiệu quả trên cơ sở giảm chi phí quản lý. Chỉ số này còn cho thấy khả năng quản lý
của ban lãnh đạo công ty để đưa ra sản phẩm giàu sức cạnh tranh nhất trên cơ sở
giảm chi phí quản lý doanh nghiệp hay tăng lợi nhuận của chính doanh nghiệp đó.





25

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ CẮT GIẢM CHI PHÍ
SẢN XUẤT CÔNG TY TNHH SEWS-COMPONENTS
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. VÀI NÉT VỀ CÔNG TY TNHH SEWS-COMPONENTS VIỆT NAM
2.1.1. Giới thiệu công ty
Công ty TNHH SEWS-Components Việt Nam (SEWS-CV) (tên giao dịch
quốc tế là “SEWS-Components Vietnam Co., Ltd”) là một Công ty TNHH một
thành viên, có 100% vốn của tập đoàn Sumitomo Wiring System, Nhật Bản. Trụ sở
chính của Công ty được đặt tại lô đất số D2 & D3, khu công nghiệp Thăng Long II,
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Công ty chuyên sản xuất các linh kiện điện và điện
tử cho ô tô với sản phẩm chính là khớp nối (đầu nối nhựa) cho hệ thống dây điện
trong ô tô.
Chủ sở hữu của Công ty là Tập đoàn Sumitomo Wiring System, được
thành lập năm 1917 với hơn 100 Công ty sản xuất, bán hàng và trung tâm nghiên
cứu & phát triển sản phẩm trên khắp thế giới. Lĩnh vực hoạt động là ngành công

nghiệp hệ thống dây điện để cung cấp cho các hãng sản xuất ô tô, xe máy nổi tiếng
như Honda, Toyota, Nissan…
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển.
Công ty TNHH SEWS-Components Việt Nam được thành lập theo Giấy
chứng nhận đầu tư số 052043000116 do Ban quản lý các khu công nghiệp Tỉnh
Hưng Yên cấp ngày 18/10/2010. Sau khi hoàn tất mọi thủ tục và hợp đồng thuê đất
với Khu công nghiệp Thăng Long II, nhà máy được tiến hành xây dựng. Tháng 2
năm 2011 Công ty bắt đầu hoạt động với 4 nhân viên đầu tiên cùng Tổng giám đốc
để chuẩn bị mọi công việc cho việc gây dựng nhà máy. Tháng 7 năm 2011 nhà máy
cơ bản được hoàn thành với khoảng 20 công nhân viên, kỹ sư đã được cử đi học tập,
đào tạo ở các Công ty cùng thuộc tập đoàn, có sản phẩm tương tự tại Nhật Bản và

×