Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bánh kẹo hải hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.31 KB, 135 trang )


1


ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI

trờng đại học KINH Tế




Trần Thị vinh

NÂNG CAO năng lực cạnh tranh của công
ty cổ phần bánh kẹo hảI hà

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
M số: 60 34 05

LUậN VĂN THạC Sĩ quản trị kinh doanh

Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Cảnh hoan




Hà Nội - 2010

2

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan luận văn “Nâng cao năng lực cạnh tranh của công
ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà

là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên
cứu trong luận văn này chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình nào
khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Trường Đại học
Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội đã truyền đạt cho tôi kiến thức trong
suốt thời gian học tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn

PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hoan đã tận tình
hướng dẫn tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2010

Tác giả luận văn


Trần Thị Vinh



3

DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1 Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải
Hà 3 năm 2007, 2008, 2009
47
Bảng 2.2 Cơ cấu kinh doanh các nhóm hàng chính của Công ty 53
Bảng 2.3 Một số loại sản phẩm bánh kẹo của Công ty 55
Bảng 2.4 Hệ thống đại lý của công ty bánh kẹo Hải Hà 56
Bảng 2.5 Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở các tháng từ năm 2007-2009 59
Bảng 2.6 Một số mặt hàng bán chạy của Công ty 61
Bảng 2.7 Giá bán một số mặt hang của công ty so với đối thủ cạnh tranh 62
Bảng 2.8 Mức chiết giá sản phẩm của công ty 63
Bảng 2.9 Tỷ lệ giảm giá theo km đường 63
Bảng 2.10

Chi phí dành cho quảng cáo 67
Bảng 2.11

Mức khuyến mãi 67
Bảng 2.12

Thị phần của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà 3 68
Bảng 2.13

Mức trợ giá cho các đại lý của công ty năm 2009 69
Bảng 2.14


Đặc điểm tiêu thụ bánh kẹo ở từng khu vực của thị trường 71
Bảng 2.15

Đặc điểm tiêu dùng của từng đối tượng khách hàng 72
Bảng 2.16

So sánh thị phần của các công ty trong cả nước 75
Bảng 2.17

Cơ cấu vốn của công ty mốt số năm gần đây 78

4

Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.18

So sánh giá của một số bánh kẹo của công ty khác nhau 79
Bảng 2.19

Thời gian kế hoạch giao hàng cho các đại lý của công ty (tính
cả cấm đường )
83




























5

MỤC LỤC


DANHMỤCCÁCBẢNG……………………… …………… ………………………… i
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ…….……………………… ………………… …… iii
MỞ ĐẦU…………………… …………………………… …………………… …… 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP…………………………… ……………….……………… ……
6

1.1. Nănglựccạnhtranhcủadoanh nghiệp…………………….…… ………6
1.1.1. Cáckháiniệmcơbản về cạnh tranh……………………………………… 6
1.1.2. Vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp……… 11
1.2. Các tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp…………12
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp……17
1.3.1. Môi trường kinh tế…………………………… ………… …………18
1.3.2.Môitrườngluậtpháp,chính trị…………………………………………… 19
1.3.3. Khả năng gia nhập thị trường của các doanh nghiệp tiềm ẩn … 19
1.3.4. Nhân tố các đơn vị cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp………… 20
1.3.5.Nhântốkhách hàng……………………………………………………… 21
KẾTLUẬN
CHƯƠNG 1………………………………………….…………………… 39
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ………………………………………………………
40
2.1. Khái quát về Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà………………… 40
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển……………………………………40
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần bánh
kẹo
Hải Hà…………………………………………………………………… 42
2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bánh kẹo Hải

Hà… 46
2.2.1. Đặc điểm về sản phẩm bánh kẹo ……………………………………49
2.2.2. Đặc điểm thị trường tiêu thụ……………………………………… 50

6

2.2.3. Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần bánh kẹo
Hải Hà…51
2.2.4. Đặc điểm về khách hàng……………………………………………… 68
2.2.5. Đặc điểm về đối thủ cạnh tranh……………………………………….72
2.2.6. Đặc điểm về tài chính………………………… ………………………76
2.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bánh kẹo Hải
Hà………78
2.3.1. Về sản phẩm………………………………………………………………78
2.3.2. Về hoạt động Marketing……………………………………………… 80
2.3.3. Về thời gian và không gian………………………………………………82
2.3.4. Đánh giá chung………………………………………………………… 84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2………………………………………………………………
86
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
………… …………………………………87
3.1. Thách thức đối với Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế………………………………………… ………87
3.2. Định hướng giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công
ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà ……………………………………………….88
3.2.1. Mở rộng liên kết với các công ty trong nước………………………….
88
3.2.2. Định hướng chiến lược kinh doanh lâu dài đối với Công ty cổ phần

bánh
kẹo Hải Hà ………………………………………………….…………….91
3.2.3. Nâng cao năng suất lao động thông qua đổi mới công nghệ và nâng
cao
trình độ người lao động……………………………………………….…92
3.2.4. Ứng dụng thương mại điện tử vào kinh doanh của Công ty cổ phần
bánh
kẹo Hải Hà………………………………………………………………….96
3.3. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công
ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà
……………………………………………… 107

7

3.3.1. Đào tạo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực……………………….108
3.3.2. Hoàn thiện công tác phát triển đại lý, chiến lược phân phối sản
phẩm……………………………………………………………………110
3.3.3. Nâng cao năng lực công nghệ…………………………………….……112
3.3.4. Nâng cao chất lượng sản phẩm………………………………………113

3.3.5. Hiện đại hoá hệ thống tổ chức, quản lý của doanh
nghiệp……………114
3.3.6. Tài chính doanh nghiệp……………………………………………….115
3.3.7. Tăng cường công tác quảng cáo, xúc tiến bán hàng và các loại dịch
vụ để kích thích sức mua của thị trường ………………………… ……115
3.3.8. Phát triển thị phần của doanh nghiệp……………………………….117
3.3.9. Kiến nghị đối với nhà nước……………………………………………118
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3……………………………….…….………………………
122
KẾT LUẬN……………………………………………….…………………………….

123

8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năng lực cạnh tranh là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố và chịu tác
động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp; là quá trình lâu
dài, phức tạp và thường xuyên, liên tục; là vấn đề sống còn đối với doanh
nghiệp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, bên cạnh các cơ hội
kinh doanh, các doanh nghiệp phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức,
đòi hỏi các tổ chức, doanh nghiệp phải nhận thức đúng cạnh tranh để từ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh và giành thắng lợi trong kinh doanh. Để từng
bước vươn lên giành thế chủ động trong quá trình hội nhập, nâng cao năng
lực cạnh tranh chính là tiêu chí phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và trong nước như vũ bão đồng
thời với việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế mà đặc biệt là việc
gia nhập WTO, mọi thành tựu khoa học công nghệ thông tin được áp dụng
rộng rãi vào sản xuất hàng hoá và dịch vụ, năng suất lao động trong sản xuất
tăng nhanh, hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều thì mức độ cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt. Hơn nữa trong cơ chế thị
trường các doanh nghiệp đang ra sức cạnh tranh, luôn cố gắng, nỗ lực tìm cho
mình một vị thế, chỗ đứng trên thị trường, liên tục mở rộng thị phần sản
phẩm, nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Sản phẩm hàng
hoá có thể cạnh tranh được trên thị trường phải là những sản phẩm, hàng hoá
có chất lượng cao, mẫu mã đẹp và điều quan trọng không thể thiếu đó là giá
bán phải phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. Mặt khác, trong các doanh
nghiệp thì lợi nhuận luôn là mục tiêu là sự phấn đấu và là cái đích cần đạt tới.
Như vậy để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao thì
không những đầu ra của quá trình sản xuất phải đảm bảo mà đầu vào cũng


9

phải được ổn định. Nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp phải được mọi người
tiêu dùng chấp nhận, đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn phấn đấu và tìm mọi
biện pháp để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm và
đưa ra được giá bán phù hợp, có như vậy mới tồn tại và phát triển được.
Chính vì lý do đó mà vấn đề chiếm lĩnh thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh luôn có tầm quan trọng và có tính thời cuộc đối với bất kỳ doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh nào.
Thực tiễn tại Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo chiếm một tỷ
trọng rất lớn trên tổng số doanh nghiệp và có xu hướng ngày càng tăng. Do
đó, sự tồn tại và phát triển của những doanh nghiệp này sẽ ảnh hưởng đáng kể
tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế của Việt Nam. Đứng trước
thực tế đó, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo ở Việt
Nam trở thành một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Công ty cổ
phần bánh kẹo Hải Hà là một trong những công ty có truyền thống, uy tín,
phát triển lâu dài và là một công ty lớn của Miền bắc. Trong những năm qua,
do sự biến động của thị trường với sự cạnh tranh gay gắt của một số công ty
cùng ngành nên tình hình sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường của công
ty gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Để có thể đứng vững hiện nay trên thị
trường bánh kẹo, công ty cần thực hiện nhiều biện pháp cấp bách cũng như
lâu dài để nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm, phát triển hoạt động
sản xuất kinh doanh, giữ vững uy tín và vị thế của công ty trên thị trường.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, đề tài “ Nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà ” được chọn để nghiên cứu nhằm
định hướng cho chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm bánh kẹo
của doanh nghiệp và đưa ra các giải pháp đồng bộ để thực hiện.



10

2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề cạnh tranh của các doanh nghiệp đã được khá nhiều đề tài trong và
ngoài nước nghiên cứu nhưng ở phạm vi và hoàn cảnh khác nhau như một số
đề tài sau:
- Đề tài: “ Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại cổ phần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ” -
Chủ nhiệm: TS.
Lê Hùng; Phó Chủ nhiệm: CN. Lê Thanh Hải; Thành viên tham gia: TS.Nguyễn
Văn Hà, ThS. Lê Nguyễn Hải Đăng, ThS.Lê Nguyễn Quỳnh, ThS.Trần Anh Tuấn,
Trần Đình Cường, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Đức Lệch, Nguyễn Hữu Nghĩa, Đỗ
Xuân Trung, Lê Phan Thanh Hoà, Phạm Thị Thanh Hiền.

- Đề tài: “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay ” - Nguyễn Vinh Thanh, Tạp chí nghiên cứu thế giới
- Đề tài: “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong hội
nhập kinh tế quốc tế ” -
PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa
- Đề tài:
“ Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ”
-
PGS.TS
Phạm Văn Phúc.

Tuy nhiên với phạm vi của từng doanh nghiệp cụ thể thì còn rất tản mạn.
Chính vì vậy mà trong đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện ở một doanh nghiệp thuộc ngành lương thực - thực phẩm với các
đặc điểm đặc thù riêng có.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm bánh kẹo của
Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà hiện nay và đề xuất các chính sách giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh của sản phẩm trên thị trường nội địa, cụ
thể:

11

 Nghiên cứu hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh
tranh của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà
 Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải
Hà trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.
 Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
cho Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đề tài tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty cổ
phần bánh kẹo Hải Hà
 Phạm vi nghiên cứu là những vấn đề liên quan đến năng lực cạnh
tranh của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng tổng hợp các phương pháp của triết học Mác - Lê Nin, quan
điểm đổi mới của Đảng, các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
chuyên gia và một số phương pháp khác để làm rõ kết quả nghiên cứu.

6. Những đóng góp mới của luận văn
 Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh ở một
doanh nghiệp.
 Phân tích những nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế năng lực
cạnh tranh của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà


12

 Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần bánh
kẹo Hải Hà trong giai đoạn vừa qua.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.


13

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Các khái niệm cơ bản về cạnh tranh
1.1.1.2 Cạnh tranh
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều
lĩnh vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, ; thường
xuyên được nhắc tới trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như
các phương tiện thông tin đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối
tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến có rất nhiều khái niệm khác nhau
về “cạnh tranh”, cụ thể như sau:

- Theo Michael Porter thì: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của
cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận
trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình
quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ
quả giá cả có thể giảm đi ”[4].
- Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của doanh nghiệp với
các đối thủ trong cùng một ngành. Cạnh tranh có vai tró rất quan trọng và là
một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc
người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến
kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao
năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện
độc quyền ở đó hoạt động sản xuất, thị thường trì trệ và kém phát triển.
- Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa
những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện

14

thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh cụ thể xảy ra giữa những người sản
xuất với người tiêu dùng (người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng
muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn; giữa
những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu
thụ.
- Theo từ điển kinh doanh: (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh là
sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài
nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình [23].
- Cạnh tranh sẽ đem lại lợi ích cho người này và sự thiệt hại cho người
khác, song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động
tích cực (chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn v.v.)
- Trong quan hệ kinh tế cạnh tranh là sự đấu tranh giữa những chủ thể

trong việc thực hiện sản phẩm, dịch vụ nhằm chiếm lĩnh thị trường ở mức cao
nhất, giành điều kiện tiêu thụ có lợi nhất và tối đa hoá lợi nhuận [18].
Từ những định nghĩa trên có thể rút ra nhận định chung sau đây:
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau
tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm
lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị
trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá
trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích, đối với người sản xuất - kinh doanh là
lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Cạnh tranh là quy luật tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường. Các
doanh nghiệp bắt buộc phải chấp nhận cạnh tranh, ganh đua với nhau, phải
luôn không ngừng tiến bộ để giành được ưu thế tương đối so với đối thủ. Nếu
như lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động

15

kinh doanh thì cạnh tranh bắt buộc họ phải tiến hành các hoạt động kinh
doanh một cách có hiệu quả cao nhất nhắm thu được lợi nhuận tối đa. Kết quả
cạnh tranh sẽ loại bỏ được các doanh nghiệp yếu kém và giúp phát triển làm
ăn có hiêu quả. Ở Việt Nam, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, cạnh tranh
được thừa nhận là một quy luật kinh tế khách quan và được coi như là một
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức điều hành kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1.2. Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là khả năng tồn tại trong kinh doanh và đạt được một
số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng
các sản phẩm cũng như năng lực của nó để khai thác các cơ hội thị trường
hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi
hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao. Như vậy, năng lực canh

tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh
nghiệp. Đấy là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính
bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh
nghiệp,… một cách riêng biệt mà đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh
hoạt động trên cùng lĩnh vực, cùng một thị trường.
Có quan điểm cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền
với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường.
Có quan điểm gắn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần mà
nó nắm giữ, cũng có quan điểm đồng nhất doanh nghiệp với hiệu quả sản xuất
kinh doanh,…

16

Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của mình e chưa đủ, bởi
trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, lợi thế bên ngoài đôi khi là yếu tố quyết
định. Thực tế chứng minh một số doanh nghiệp rất nhỏ, không có lợi thế nội
tại, thực lực bên trong yếu nhưng vẫn tồn tại và phát triển trong một thế giới
cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Như vậy, “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là việc khai thác, sử
dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm –
dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận
ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường ”.
Năng lực cạnh tranh thể hiện ở việc làm tốt hơn với các công ty so sánh
(các đối thủ) về doanh thu, thị phần, khả năng sinh lời và đạt được thông qua
các hành vi chiến lược, được định nghĩa như là một tập hợp các hành động
tiến hành để tác động tới môi trường nhờ đó làm tăng lợi nhuận công ty, cũng
như bằng những công cụ marketing khác. Nó cũng đạt được thông qua việc
nâng cao chất lượng sản phẩm mà sự sáng tạo sản phẩm là những khía cạnh
rất quan trọng của quá trình cạnh tranh.
Trong môi trường cạnh tranh, từng chủ thể kinh tế thể hiện vị thế của

mình so với các chủ thể khác. Vị thế đó, dựa trên những ưu thế nhất định về
các điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Sức cạnh tranh, năng lực cạnh
tranh, khả năng cạnh tranh đều phản ánh vị thế cạnh tranh của các chủ thể
kinh tế, vị thế đó là những điều kiện để các chủ thể kinh tế tham gia vào hoạt
động cạnh tranh.
Những quan niệm trên cho thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
dựa trên hai tiêu chí chủ yếu là thị phần và lợi nhuận. Những tiêu chí này chỉ
đánh giá trạng thái “tĩnh” của ngành (doanh nghiệp hoặc sản phẩm) trong một
thời điểm, trong khi đó cạnh tranh là một quá trình mang tính “động”, vì vậy

17

khi phân tích cạnh tranh, người ta thường bổ sung vào một số yếu tố “động”
khác như mức độ ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, vòng
đời sản phẩm v.v. Trên cơ sở phân tích đó, các nhà kinh doanh có thể đưa ra
những chiến lược kinh doanh phù hợp với thị trường để duy trì và phát huy vị
thế của mình trên thị trường hoặc đưa ra những biện pháp phòng ngừa rủi ro
có thể xảy ra. Một chủ thể có sức cạnh tranh cao là chủ thể có lợi thế, biết tạo
ra lợi thế để thu được lợi nhuận cao hơn so với các chủ thể khác.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cái hiện hữu trong sản phẩm, việc
phân tích đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm thường được tiến hành
đồng thời bằng 3 phương pháp: (1) đánh giá trực tiếp trên sản phẩm (tính
năng, giá cả, sự tiện ích, mẫu mã v.v.), (2) đánh giá trực tiếp thị trường
(doanh số bán, thị phần, tốc độ tăng thị phần, hệ thống phân phối v.v.), (3)
điều tra xã hội học, chủ yếu qua phiếu thăm dò khách hàng (sự thoả mãn nhu
cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với nhãn hiệu v.v.). Sau đó so
sánh các tiêu chí đó với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường,
tại cùng thời điểm để xác định năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm là tìm ra những biện pháp tác
động vào quá trình sản xuất và lưu thông sản phẩm, làm cho nó có “tính vượt

trội” so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh hoặc làm tăng thêm
sức mạnh cho sản phẩm, làm cho “tính trội” của nó ở mức tốt hơn, cao hơn
trên thị trường tiêu thụ. Nói cách khác: nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản
phẩm là sử dụng một số yếu tố tác động nhằm khắc phục những tồn tại được
coi là trở ngại làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời hoàn thiện
những nhân tố làm tăng tính trội của nó so với đối thủ khác, nhằm làm cho thị
phần của sản phẩm tăng lên so với thị phần của đối thủ cạnh tranh.


18

1.1.2. Vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người
khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội cạnh tranh luôn có tác động tích cực.
Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hoá trên thị trường, khi cung một hàng
hoá nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả thị
trường giảm xuống, chỉ những doanh nghiệp nào đủ khả năng cải tiến công
nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ giá thành sản phẩm mới có
thể tồn tại. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc
ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Khi cung một hàng hoá nào đó thấp hơn cầu, hàng hoá đó trở nên khan
hiếm trên thị trường, giá cả tăng lên tạo lợi nhuận cao hơn mức bình quân, khi
đó người sản xuất kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuất
mới hoặc nâng cao năng lực sản xuất của những cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là
động lực quan trọng nhất làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho sản xuất, kinh
doanh, nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội. Điều quan trọng là động
lực đó hoàn toàn tự nhiên, không theo và không cần bất kỳ một mệnh lệnh
hành chính nào của cơ quan quản lý Nhà nước [9].
Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có vai trò vô cùng
quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, điều đó được thể

hiện ở các nội dung cơ bản sau:
- Nâng cao năng lực quản lý điều hành, trình độ tổ chức quản trị kinh
doanh của các doanh nghiệp đáp ứng đòi hỏi của cơ chế thị trường, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Xây dựng chiến lược nghiên cứu khoa học công nghệ, phát triển sản
phẩm mới, khắc phục tình trạng chất lượng sản phẩm thấp, không ổn định và

19

giá thành cao, khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc lựa chọn mặt
hàng kinh doanh và cạnh tranh bằng giá.
- Đầu tư nhiều hơn cho việc xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng
nhu cầu của thị trường, tạo ra những sản phẩm đặc thù, có kiểu dáng, tính
năng riêng biệt đáp ứng những nhu cầu mới của khách hàng.
- Đẩy mạnh hoạt động quảng bá và xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị
trường, kể cả các quy định pháp luật của từng thị trường cụ thể. Hiện tại, hoạt
động này của các doanh nghiệp đang ở trình độ thấp, chưa có hiệu quả. Có rất
ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình quảng bá và xúc tiến thương mại
để giới thiệu sản phẩm cho khách hàng.
- Có chiến lược liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam để
tạo nên sức mạnh cộng đồng, khắc phục tình trạng tranh mua tranh bán trên
thị trường và sự yếu kém về quy mô nhỏ bé của mình. Các doanh nghiệp cũng
cần liên kết chặt chẽ với nhau thông qua những hợp đồng xác lập quan hệ
thương mại ổn định, tạo nên những hệ thống phân phối ổn định và rộng khắp,
tạo điều kiện để sản phẩm hàng hóa Việt Nam lưu thông thông suốt. Tham gia
các hiệp hội ngành hàng để bảo vệ quyền lợi của mình.
1.2. CÁC TIÊU CHÍ PHẢN ÁNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực
khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy,

vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một
doanh nghiệp bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm và
bao gói; kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến
thương mại; năng lực nghiên cứu và phát triển; thương hiệu và uy tín của
doanh nghiệp; trình độ lao động; thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ

20

tăng trưởng thị phần; vị thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh
nghiệp. Vì vậy, để đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm cần sử dụng các
tiêu chí định lượng và định tính dưới đây nhằm phân tích năng lực cạnh tranh
sản phẩm trên phạm vi quốc gia.
(1) Các tiêu chí thuộc sản phẩm (tính năng, chất lượng giá cả, sự tiện
ích, mẫu mã .v.v.)
- Tính năng sản phẩm đó có phù hợp với yêu cầu khách hàng hay
không: Sản phẩm có tính năng, công dụng phù hợp hơn với yêu cầu của
khách hàng sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn.
- Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã kiểu cách so với các đối
thủ cạnh tranh. Trong quá trình quyết định mua của mình khách hàng
thường xem xét mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm có phù hợp với yêu
cầu và thị hiếu của mình hay không trước khi tìm hiểu những thông tin
khác về sản phẩm.
- Mức chênh lệch về giá của mặt hàng đó so với các đối thủ cạnh tranh,
giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất thể hiện năng lực
cạnh tranh của sản phẩm. Với hai sản phẩm tương tự nhau, khách hàng
sẽ lựa chọn sản phẩm nào có giá thấp hơn.
- Mức chênh lệch về chất lượng sản phẩm so với sản phẩm cùng loại
của đối thủ cạnh tranh. Ngày nay chất lượng sản phẩm là yếu tố được
quan tâm hàng đầu, sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh nếu
các tính năng của sản phẩm đó vượt trội hơn so với sản phẩm cạnh

tranh trên thị trường. Yếu tố này có thể đánh giá thông qua so sánh hai
sản phẩm với nhau về chất lượng, độ bền, tiện ích trong sử dụng … đây
là một trong những yếu tố tương đối để so sánh đối với đa số những sản
phẩm đơn giản. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm phức tạp khách hàng không

21

thể đánh giá ngay được chất lượng sản phẩm, do đó khách hàng sẽ đánh
giá chất lượng sản phẩm gián tiếp thông qua uy tín của người sản xuất,
của nước sản xuất.
(2) Các tiêu chí trên thị trường (doanh số bán, thị phần, tốc độ tăng thị
phần, hệ thống phân phối…)
- Mức doanh thu của sản phẩm đó trong từng năm: Năng lực cạnh tranh
cũng biểu hiện qua doanh thu của sản phẩm trên thị trường nội địa. Nếu
sản phẩm có doanh thu cao, tốc độ tăng doanh thu cao so với đối thủ
cạnh tranh chứng tỏ sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao, chỉ tiêu này
thể hiện khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm so với đối thủ
cạnh tranh.
- Thị phần của sản phẩm trên thị trường nội địa: Tuỳ theo loại mặt
hàng, thị trường và theo quy mô của thị trường có thể xem xét năng lực
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, thông qua đánh giá thị phần
của sản phẩm đó. Một sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh cao
trên thị trường khi chúng chiếm thị phần lớn so với sản phẩm cùng loại
được nhập khẩu và bán trên thị trường, tuy nhiên cũng phải vận dụng
tiêu chí này một cách linh hoạt. Với một số sản phẩm mới ra đời, chưa
chiếm lĩnh được thị trường thì không thể sử dụng chỉ tiêu này để đánh
giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường vì khi đó phân
tích sẽ có sự sai lệch nhất định.
- Tốc độ tăng thị phần của sản phẩm có thể so sánh theo tính lịch sử,
tức là năm sau tốt hơn năm trước, để đánh giá năng lực cạnh tranh của

sản phẩm. Nếu sản phẩm có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có
năng lực cạnh tranh cao và ngược lại, nếu thị phần của sản phẩm cạnh

22

tranh tăng chậm hơn thì sản phẩm có năng lực cạnh tranh thấp hơn so
với sản phẩm cạnh tranh.
- Hệ thống phân phối: Hệ thống phân phối cho sản phẩm càng hợp lý
thì thị phần do hàng hoá chiếm lĩnh sẽ càng lớn, hệ thống phân phối
được thiết kế hợp lý so với cách thức phân phối của sản phẩm cạnh
tranh khác, cùng với việc đẩy mạnh xúc tiến bán hàng sẽ tăng thêm
năng lực cạnh tranh của sản phẩm do đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị
trường về số lượng và chất lượng. - Một hệ thống phân phối hợp lý bao
gồm mạng lưới các cơ sở giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu
thông hàng hoá với mọi hình thức bán buôn, bán lẻ vừa thích hợp với
phong tục,tập quán địa phương, tiện lợi cho người tiêu dùng đồng thời
phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng.
- Kênh phân phối còn giúp khách hàng tiếp cận với các dịch vụ của nhà
sản xuất dễ dàng hơn như dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng.
(3) Các tiêu chí liên quan đến quan điểm của khách hàng (sự thoả mãn
nhu cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với nhãn hiệu .v.v.)
- Trong quá trình phân tích, đánh giá sẽ rất khó khăn cho việc lượng
hoá toàn bộ các yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Vì
vậy, chúng ta phải kết hợp vừa định lượng vừa định tính nhằm xác định
năng lực cạnh tranh thực sự của sản phẩm hàng hoá trên thị trường.
Nếu như trước kia hai yếu tố chất lượng, giá cả có tính quyết định đến
năng lực cạnh tranh của sản phẩm thì ngày nay cùng với quá trình toàn
cầu hoá, phạm vi đánh giá các tiêu chí thể hiện năng lực cạnh tranh cần
phải được mở rộng hơn. Trong quá trình đánh giá cũng cần đưa thêm
các yếu tố định tính khác như hình ảnh của các doanh nghiệp tham gia

thị trường, hình ảnh của quốc gia, lòng tin của khách hàng đối với sản

23

phẩm, sự thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm, thương hiệu của
sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh được phân biệt ở ba cấp độ, bao gồm năng lực cạnh
tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của
sản phẩm dịch vụ.
- Năng lực cạnh tranh quốc gia: là năng lực của một nền kinh tế đạt được
tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội,
nâng cao đời sống của người dân, chủ yếu nhờ khả năng nâng cấp công nghệ
hoặc bằng cách tự sáng tạo hoặc tiếp thu nhanh chóng và tích cực công nghệ
từ nước khác. [14].
Ngày nay, lợi thế cạnh tranh truyền thống dựa trên tài nguyên thiên nhiên
và chi phí lao động thấp, tuy còn có giá trị, song mới chỉ là điểm khởi đầu, tri
thức và kỹ năng đang trở thành một nhân tố then chốt đảm bảo tính cạnh tranh
cao.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng vượt qua các đối
thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Thông thường
người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại của doanh nghiệp
như: quy mô, khả năng tham gia cạnh tranh và rút khỏi thị trường, sản phẩm,
năng lực quản lý, năng suất lao động, trình độ công nghệ và lao động. Tuy
nhiên những khả năng này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố bên
ngoài như Nhà nước và các thể chế trung gian.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và
mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh
tranh trong và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay
nhiều sản phẩm hàng hoá dịch vụ, vì vậy người ta còn phân biệt năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ.


24

- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ: được đo bằng thị phần của
sản phẩm hay dịch vụ đó trên thị trường. Một sản phẩm dịch vụ được coi là có
năng lực cạnh tranh cao khi giá thành sản phẩm thấp, quy mô cung ứng, tính
độc đáo của sản phẩm dịch vụ được người tiêu dùng chấp nhận thể hiện ở thị
phần của sản phẩm đó trên thị trường vượt trội so với các sản phẩm tương tự
của các đối thủ cạnh tranh. Đối với hàng hoá chế biến nông sản thực phẩm, để
đánh giá năng lực cạnh tranh ngoài các chỉ tiêu trên người ta còn phải quan
tâm đến các yếu tố như: độ an toàn về thực phẩm, xuất xứ, hương vị đặc trưng
của sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh ở ba cấp độ trên có mối quan hệ qua lại mật thiết với
nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế
có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh cao, mặt khác để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực cạnh
tranh, các điều kiện, tiền đề kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi để các
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời thể hiện
thông qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp
sản xuất hoặc kinh doanh. Ngược lại năng lực cạnh tranh của sản phẩm và
dịch vụ phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực tổ chức quản
lý của doanh nghiệp.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
Có thể hiểu môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hợp các yếu
tố tự nhiên, xã hội, chính trị, tổ chức và kỹ thuật cùng các tác động và các
mối quan hệ bên trong, bên ngoài liên quan đến sự tồn tại, phát triển của

25


doanh nghiệp. Vì vậy nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp bao gồm:
1.3.1 Môi trường kinh tế
Các nhân tố môi trường kinh tế tác động đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp theo các hướng
+ Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng
thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ
tăng lên, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nắm
bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng ( số
lượng bán, chất lượng, mẫu mã ) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành
công và có khả năng cạnh tranh cao.
+ Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh
chóng và sâu sắc đối với quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng
nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các doanh
nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Vì
khi đó giá bán của hàng hóa tính bằng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh
tranh. Hơn nữa khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyên khích nhập khẩu, vì giá hàng
nhập khẩu giảm và như vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước sẽ bị giảm ngay trong thị trường trong nước. Còn khi đồng nội tệ giảm
giá, có thể khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng cả trên thị trường
trong nước và thị trường ngoài nước, vì khi đó giá bán của doanh nghiệp nhỏ
hơn so với các đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hóa do nước khác sản xuất,
tuy nhiên bên cạnh đó thì giá nguyên vật liệu, đầu vào cũng tăng lên.
+ Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp thiếu vốn
phải vay ngân hàng. Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí của các

×