Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đại hội vi – x (từ năm 1986 đến năm 2006)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.23 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nhìn lại quá trình lịch sử cách mạng Việt Nam, ta thấy vai trò quan trọng của Đảng trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một sự tất yếu khách quan
đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam, đó là kết quả của quá
trình lựa chọn con đường cứu nước, chuẩn bị tích cực về tư tưởng chính trị, tổ chức đưa ra những quan
điểm, đường lối đúng đắn để đưa nước ta hoàn toàn giải phóng, thống nhất, ổn định và phát triển đất
nước trên tất cả mọi mặt: đời sống, kinh tế, xã hội.
Sự đổi mới trong quá trình tư duy của Đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề rất cần thiết để đưa nước ta thực hiện đúng đắn mục tiêu,
hướng đi phù hơp với thực tiễn. Trong bối cảnh nước ta hiện nay, khi xã hội đang đi lên, nguồn lực tri
thức ngày càng dồi dào đòi hỏi Đảng có những chính sách, đường lối đổi mới và hoàn thiện để vừa tạo
nền tảng vừa đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nội dung cũng như
phương hướng, những bài học kinh nghiệm được rút ra đã được thể hiện thông qua sự đánh giá, nhìn
nhận vấn đề của Đảng thông qua các lần đại hội. Qua đó, Đảng khẳng định và đưa ra các quan điểm ,
đường lối đúng đắn cho từng giai đoạn phát triển của nước ta.
I. Quá trình đổi mới tư duy về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đại hội VI – X (từ năm
1986 đến năm 2006).
1. Phê phán sai lầm trong nhận thức và rút ra bài học kinh nghiệm về quá trình công
nghiệp hóa thời kì 1960-1985:
1.1. Phê phán sai lầm trong nhận thức:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) – Đại hội đổi mới, với tinh thần
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm
trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kì 1960 – 1985, đặc biệt trong 10 năm (1975 –
1985). Trong đó, Đảng ta khẳng định: “chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước
đi về cơ sở vật chất- kĩ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Do tư tưởng chủ quan, nóng
vội nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết;
chưa thực sự coi công nghiệp là mặt trận hàng đầu ”. Đó là:
o Chúng ta đã sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế,…Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ
qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa trong
khi chưa có đủ các điều kiện cần thiết, mặc khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.


o Chủ yếu thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung
giải quyết những vấn đề căn bản như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết
quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp. Qua đó, cho thấy việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ
1
cấu sản xuất và đầu tư đã không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một
cơ cấu hợp lý.
o Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của đại hội lần thứ V, như vẫn chưa coi nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không khôi phục kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
1
1.2. Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”,
xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm,
đổi mới tư duy lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi
mới.
o Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công-nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông
nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu
kinh tế huyện).
o Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình
hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
o Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế.
2. Quá trình đổi mới tư duy về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đại hội VI – X (từ năm

1986 đến năm 2006).
2.1. Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI:
Thời kì Việt Nam chưa thể đẩy mạnh Công nghiệp hóa.
2.1.1. Nhiệm vụ:
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc:
1
. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam – NXB CTQG (trang 122-123).
2
o Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp.
o Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có
cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
o Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt
xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
2
Từ 3 nguyên tắc trên, Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ:
o Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự
nhiên, tự cấp, tự túc.
o Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm
cho người lao động.
o Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân.
o Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà
bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô
và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
o Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà

nước quản lý đã được Đại hội lần thứ VI xác định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”.
o Phương thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”. Đó là nề nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản
lý nhà nước của mình.
Báo cáo Chính trị chỉ rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy Nhà nước và nhiệm vụ công tác xây
dựng Đảng:
o Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể.
o Xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội.
o Quản lý hành chính – xã hội và hành chính kinh tế, điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội
trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững
quốc phòng, an ninh. Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những mất cân đối và
đề ra những biện pháp để khắc phục.
o Thực hiện quy chế làm việc khoa học có hiệu suất cao.
o Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, có
năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
2
. />3
o Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Đảng phải đổi
mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán
bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu
của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa
cấp bách của công tác xây dựng Đảng.
3
2.1.2. Mục tiêu:
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm và để muốn thực hiện những "nhiệm vụ bao trùm,
mục tiêu tổng quát “của chặng đường đầu tiên (phải trong nhiều kế hoạch 5 năm nữa) thì trong 5 năm
trước mắt (1986-1990) cần tập trung sức người, sức của thực hiện bằng được nhiệm vụ, mục tiêu của
ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Những mục tiêu cụ thể là:

o Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết
yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ tái sản xuất sức lao động.
o Đáp ứng nhu cầu của nhân dân về những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
o Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng
được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết.
Muốn thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế, thì nông nghiệp, kể cả lâm
nghiệp, ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí là mặt trận hàng đầu và được ưu tiên đáp ứng nhu cẩu về
vốn đấu tư, về năng lực, vật tư, lao động, kĩ thuật…
Nội dung ba chương trình kinh tế là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.
4
2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII:
Thời kì Việt Nam gắn liền với Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong giai đoạn này Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm
tòi, khai phá con đường đổi mới tuy chưa có một khuôn mẫu cho trước, từng bước đưa đường lối của
Đại hội VI đi vào cuộc sống. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (họp từ ngày 24 đến 27-
6-1991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, đề ra mục tiêu, phương
hướng nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu ưu điểm đã đạt được; khắc phục những khó khăn hạn
chế mắc phải trong bước đầu đổi mới ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó, điều
chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đối mới (được đề ra từ Đại hội VI) để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi
mới của đất nước tiến lên.
2.2.1. Mục tiêu:
Xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước lúc bấy giờ mục tiêu của chặng đường đầu thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (đề ra từ Đại hội VI), Đại hội VII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát
3
. />4
. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con đường đổi
mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.1129-1134.
4
của kế hoạch 5 năm (1991-1995) là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã

hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình
trạng khủng hoảng hiện nay.
Những mục tiêu cụ thể là:
o Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu tích lũy từ nội
bộ nền kinh tế.
o Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số. Ổn định và từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo đảm để tiền lương tối thiểu đáp
ứng được nhu cấu thiết yếu của người lao động, ngăn chặn thu nhập phi pháp và bất công.
o Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ chức và cán bộ.
o Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng.
Qua đó, ta thấy Đại hội VII của Đảng cũng đề ra mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-
1995) là: đầy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã
hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nến kinh tế". Để
thực hiện mục tiêu trên, phải phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh Ba chương
trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu
cầu công nghiệp hóá đẩy mạnh nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật; hình thành về cơ bản và
vận hành tương đối thông suốt cơ chế quản lí mới.
5
2.2.2. Phương hướng:
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi
Điều lệ Đảng.
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững 7
phương hướng cơ bản sau:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền

với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện
đời sống nhân dân.
Ba là, phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến
cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
5
. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con đường đổi
mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.1136-1148.
5
Bốn là, trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của
tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối
ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm
nhiệm vụ.
6
Ngoài ra, tại Hội nghị trung ương 7 khóa VII (7-1994) đã có bước đột phá mới trong nhận thức
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ khi nghị quyết về “phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm
2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai
đoạn mới” và đưa ra khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa : “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và
tiến bộ Khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
1

.
2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII:
Việt Nam chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội VIII của Đảng ( tháng 6-1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã có những nhận định
quan trọng:
o Khẳng định tiếp tục thực hiện quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu ra ở Hội nghị
Trung ương bảy khóa VII.
o Đại hội nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và định hướng những nội dung cơ
bản của công nghiệp hóa, hiện địa hóa trong những năm còn lại của thập kỷ 90 - thế kỷ XX.
o Nhận định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, những tiền đề cho công nghiệp hóa
đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sàn thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Đại hội cũng đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, nêu nhiệm vụ tống quát, những tư tưởng chỉ đạo, các chương trình và
lĩnh vực phát triển.
2.3.1. Nhiệm vụ và mục tiêu:
6
. />6
Căn cứ vào nhận định trên và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Đại hội khẳng định cẩn tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược : xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mục tiêu cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kì này là: “Xây dựng đất nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sớ vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng,
an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.”
Trên con đường thực hiện mục tiêu nêu trên, Đại hội xác định : "Giai đoạn từ nay đến năm
2000 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy
mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,

phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2000; tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề
bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau. Đại hội cũng
đã nêu lên các định hướng phát triển, các lĩnh vực chủ yếu trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
7
2.3.2. Nội dung cơ bản:
Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập niên 90
là:
o Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản ; phát triển công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
o Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở
những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
o Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều
kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao.
o Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.
o Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
o Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như: chế biến nông, lâm, thủy sản, khai thác và chế
biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch.
o Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
7
. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con đường đổi
mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.1148 -1153.
7
Qua đó cho ta thấy Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đánh dấu bước ngoặt lãnh
đạo chuyển đất nước ta sang thời kì mới - thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp
bước vào thế kỉ XXI.
2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX:
2.4.1. Mục tiêu:
Trong đại hội làn thứ IX, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 là bước rất
quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 nhằm:
o Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
o Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
o Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại.
o Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con
người.
o Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
o Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
o Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
2.4.2. Tiêu chí:
Trong giai đoạn này thì phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung
tâm, vì thế Đảng đã đề ra các tiêu chí:
o Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa
có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả
năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh
thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học
và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần
của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động
lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
o Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức
tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ
tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa

học và công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn
năng lượng, tài chính, môi trường Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
8
o Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả
tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh. Trước mắt, tập trung nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả đầu
tư, hiệu quả sử dụng vốn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế
mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước
và ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thêm sức mua của thị trường
trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
o Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh
học; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản
hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển
công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông
nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công
nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống
nông dân và dân cư ở nông thôn.
o Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số
ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông
sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm Xây
dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để
trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng. Khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên dầu khí,
khoáng sản, vật liệu xây dựng. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng một số tập
đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá.
o Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả thương mại điện

tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm,
chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường Sớm phổ cập sử dụng tin học và Mạng
thông tin quốc tế (Internet) trong nền kinh tế và đời sống xã hội.
o Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông, điện lực,
thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước
o Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các thành phố lớn,
thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Không tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp và dân cư vào
các đô thị lớn. Khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường. Tăng cường công tác
quy hoạch và quản lý đô thị, nâng cao thẩm mỹ kiến trúc.
9
Qua đó ta thấy Đảng bổ sung và nhấn mạnh một số đổi mới về con đường công nghiệp hóa rút
ngắn ở nước ta.
8
2.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X:
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đại hội của trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và
phát triển bền vững. Đại hội diễn ra trong thời điểm lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sự
nghiệp đổi mới trên đất nước ta đã trải qua 20 năm. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vừa kết
thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, cũng là 5 năm đầu tiên của thế kỷ XXI.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển của kinh tế tri thức đang làm thay đổi
mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước đang phát triển.
Nó đòi hỏi Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở những nước đi sau phải đồng thời thực hiện hai quá trình:
o Một là, xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại;
o Hai là, phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là hai nội dung của một quá trình diễn ra song hành và phải được thực hiện đồng thời.
Đảng ta xác định:
o Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phải dựa vào tri thức, theo con đường đi tắt, rút ngắn.
o Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ nền kinh tế
nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ một nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Từ một
trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, muốn đi nhanh và phát triển theo hướng hiện đại cần kết hợp phát
triển tuần tự với phát triển nhảy vọt. Theo đó, nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình “lồng

ghép”: một mặt, phải phát triển nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản; mặt khác, phải phát
triển những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao. Vì thế, mạnh dạn đi ngay vào phát triển
kinh tế tri thức thì chúng ta mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đúng thời hạn. Do vậy, gắn
liền Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức là con đường để giải quyết những vấn
đề đó. Bởi, kinh tế tri thức vừa có thể đảm bảo cho sự phát triển bền vững do nó không dựa chủ yếu
vào việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vừa có thể đảm bảo cho sự phát triển nhanh vì nó
tạo ra sự bùng nổ về thông tin và sức sáng tạo của nguồn nhân lực.
9
Qua đó cho ta thấy quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta vào thời điểm này đã có sự tiến bộ là
sự kết hợp giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế tri thức.
2.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI:
8
.
/>dungvankiendaihoidang.
9
. />10
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã tập trung phân tích, làm rõ các khuyết điểm,
yếu kém chủ yếu là:
o Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội XI đề ra chưa đạt;
o Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp;
o Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chậm; các cân đối vĩ mô
chưa vững chắc;
o Chế độ phân phối bất hợp lý, phân hóa xã hội tăng lên.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ môi trường được nâng lên một tầm cao mới, gắn
chặt với quá trình Công nghiệp hóa và hiện đại hóa: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm
mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi
trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Qua đó, cho ta thấy Đảng đã nhận thấy nguy cơ cấp bách về vấn để môi trường để từ đó đưa ra

phương hướng đổi mới tư duy cơ bản trong giai đoạn này là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
II. Kết quả và ý nghĩa của quá trình thay đổi tư duy của Đảng.
1. Kết quả thực hiện đường lối đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
1.1. Thành tựu:
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó có những
thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Một là: cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc lập tự
chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất
yếu kém đi lên, đến nay cả nước đã có hơn 100 khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu
hoạt động có hiệu quả, tỉ lệ ngành công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày
càng tăng.
Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa chất cơ bản,
khai thác và hóa dầu đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Một số sản phẩm công nghiệp đã
cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân
thời kỳ 2001 - 2005 đạt 16,7% /năm, năng lực xây dựng tăng nhanh và có bước tiến đáng kể theo
hướng hiện đại.
Việc xây dựng đô thị, nhà ở đạt nhiều hiệu quả. Hàng năm đưa thêm vào sử dụng, hàng triệu
m2 nhà ở (bình quân thời kỳ 2001-2005, tăng mỗi năm 20 triệu m2).
Công nghiệp nông thôn và miền núi có bước tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình của cả
nước. Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng, sân bay, cảng biển, đường
bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính - viễn thông…. theo hướng hiện đại.
11
Hai là: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được
những kết quả quan trọng:
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm (giai đoạn
2001-2005, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005; còn tỷ
trọng của nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 24,5% năm 2000 xuống 20,9% năm 2005). Trong
từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng
tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với thị trường.

Cơ cấu kinh tế vùng đã có điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. Các
vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng và là đầu tàu
của nền kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Từ năm 2000 - 2010, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng tăng từ 13,1% lên 22,4%;
dịch vụ tăng từ 19,7% lên 29,4%, nông lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 65,1% xuống còn 48,2%; lao
động qua đào tạo tăng từ 20% lên 40%.
Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng đưa nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến 2010 đạt trên 7,26%/năm. Nền
kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao: trong thời gian dài tốc độ tăng trưởng 7-8%, là một trong những
nước có tốc độtăng trưởng kinh tế nhanh nhất của thế giới. Điều đó đã góp phần quan trọng vào công
tác xóa đói giảm nghèo. Thu nhập đầu người bình quân hàng năm tăng lên đáng kể. Năm 2005, đạt
640 USD/người, năm 2010 đạt 1.168 USD/người, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục
được cải thiện.
1.2. Hạn chế :
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực
thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Quy mô nền kinh tế nhỏ, thu nhập bình quân đầu người còn chưa cao.
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử
dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu
vực.
- Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai và các nguồn
vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát
huy.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các sản phẩm có hàm lượng tri
thức cao còn ít. Trong công nghiệp, các sản phẩm hàm lượng tri thức còn thấp. Trong nông nghiệp
sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
12
nông thôn còn thiếu cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động qua

đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm và không việc làm còn nhiều.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện
đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và chưa được quan tâm đúng mức.
Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo được đầy đủ
môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển của các thành phần kinh tế.
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý kém, chưa phù hợp
với cơ chế thị trường.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Nhìn chung, mặc dù đã cố
gắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được
yêu cầu, làm hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan như:
o Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt nhất các nguồn
lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
o Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả, công tác tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, chưa
đáp ứng được yêu cầu.
o Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.
Ngoài các nguyên nhân chung nói trên, còn có các nguyên nhân cụ thể, trực tiếp như: Công tác
quy hoạch chất lượng kém, nhiều bất hợp lý dẫn đến quy hoạch “treo” khá phổ biến gây lãng phí
nghiêm trọng; cơ cấu đầu tư bất hợp lý làm cho đầu tư kém hiệu quả, công tác quản lý yếu kém gây
lãng phí, thất thoát, tệ tham nhũng nghiêm trọng.
2. Ý nghĩa và định hướng:
2.1. Ý nghĩa:
Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng là cơ sở để phấn đấu đạt mục tiêu: sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020 mà Đại hội X của Đảng nêu ra trở thành hiện thực.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là lời giải cho bài toán phát triển ở nước ta, trực tiếp đưa đất
nước ra khỏi nguy cơ tụt hậu so với thế giới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra những khuynh
hướng chuyển biến về kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và
lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế đa ngành với
trình độ khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại.

Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, chúng ta vẫn có những yếu tố thuận lợi, thời cơ, và
có đủ khả năng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngày nay, tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, đầy ấn tượng cùng sự ổn định trong chính trị xã hội trong quá trình đổi mới, chứng
tỏ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được những thành tựu nhất định.
2.2. Định hướng:
13
2.2.1. Định hướng về phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa:
Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-19/01/2011)
về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã chỉ ra định hướng phát triển kinh tế giai đoạn 2010 - 2020
như sau: Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, hình thành đồng
bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu
phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô
vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng
tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp
và điều chỉnh chiến lược thị trường, tăng nhanh giá nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản
phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế tri thức, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ mội trường, phát
triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ mội trường, phát triển kinh tế xanh.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và các cơ quan các cấp, các ngành cần phối hợp, đồng lòng
cùng nhau thực hiện chiến lược này, đưa đất nước ngày một phát triển, đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
2.2.1.1. Định hướng về công nghiệp hóa hiện đạt hóa kết hợp với nền kinh tế tri thức:
Một là, xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, lấy
đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ của cả nước và là nơi thu hút, nuôi dưỡng
công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Hai là, đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ theo hướng mọi tri thức,
công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị trường, được nuôi dưỡng bằng
tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
Ba là, sử dụng công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ qua các thế
hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao.
Bốn là, tạo môi trường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư xây dựng cơ

sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực chất lượng cao, thành thạo kỹ
năng nghề nghiệp.
Năm là, khuyến khích du học sinh ra nước ngoài học tập và có chính sách đãi ngộ thích đáng
để thu hút số du học sinh này về nước làm việc hay lập nghiệp.
10
Sáu là, cần có một chiến lược phát triển khoa học-công nghệ với những bước đi thích hợp.
Trên nền tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh giúp các nhà khoa học và cơ sở sản xuất trong
nước tiến tới vận dụng và làm chủ những công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
10
. />14
2.2.1.2. Định hướng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với việc bảo vệ môi trường và phát
triển kinh tế xanh:
Nước ta đã vượt qua ngưỡng nước nghèo vào 2010, bước vào nhóm nước có thu nhập trung
bình. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu vượt bậc ấy, chúng ta đang phải đối mặt với những thách
thức nghiêm trọng về môi trường. Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết
41- NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước”.
Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là động lực lớn
phát triển các làng nghề. Tuy nhiên do sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn các
làng nghề gây ô nhiễm môi trường.
Cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, tiếp
cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI.
Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử
dụng và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng ; vì đây là động lực
chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền vững.
Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu tư vào các ngành sản
xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất và sử dụng năng lượng
sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế
và sử dụng các sản phẩm tái chế.
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả năng phòng
ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa.
11
Chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận thức và hành động, trong chỉ
đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Trước hết, tất cả các dự án đầu
tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường, được Bộ hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm
định trước khi được phê duyệt. Đồng thời, tăng cường việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng
quản lý chất thải, nhất là các chất thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Khắc
phục các khu vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái; nâng cao khả năng và nguồn lực điều tra nắm
chắc các nguồn tài nguyên để có kế hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học.
11
.
/>dungvankiendaihoidang.
15
KẾT LUẬN:
Những đổi mới tư duy của Đảng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa qua từng đại
hội đã làm nổi bật về sự phát triển đường lối của Đảng trong từng thời kỳ đã đưa đất nước ngày càng
phát triển vững mạnh. Bên cạnh việc khắc phục, hoàn thiện những vấn đề trong từng bước đổi mới
đường lối, Đảng đã khẳng định những mục tiêu, nhiệm vụ và hướng đi quan trọng trong thời đại mới,
đồng thời Đảng không ngừng từng bước nâng cao và đổi mới đường lối phù hợp với tình hình phát
triển của nước hiện nay góp phần đưa đất nước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng , văn minh. Để đẩy nhanh nước ta tiến đến một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình:
o Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
o Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2003, Chương X – Đất nước trên con
đường đổi mới (1986-2000), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục.
o Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X,

XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Website:
o
o
o
16

×