Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Vấn đề lao động dôi dư trong quá trình đổi mới , sắp xếp lại doanh nghiệp NN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.72 KB, 31 trang )

Lời nói đầu
Đổi mới sắp xếp lại DNNN là một chủ trơng đúng của Đảng và Nhà nớc
ta. Sau hơn 10 năm điều chỉnh, đến nay số DNNN đã giảm mạnh từ 12.300
doanh nghiệp năm 1990 xuống còn 5.280 doanh nghiệp đầu năm 2001. Cùng
với việc tổ chức hoạt động cơ theo mô hình Tổng công ty 90 91, cổ phần hoá
và đa dạng hoá một bộ phận DNNN, việc sắp xếp lại DNNN ở các Bộ, ngành và
địa phơng cũng có sự thay đổi đáng kể về cơ cấu vốn và lao động cơ. Điều đó đã
góp phần tích cực xây dựng và phát triển kinh tế Nhà nớc trở thành lực lợng chủ
đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, đóng góp tỷ trọng lớn vào tăng trởng
đất nớc và là một công cụ để Nhà nớc định hớng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế
quốc dân.
Tuy nhiên, việc đổi mới, sắp xếp lại DNNN mới chỉ thu đợc kết quả bớc
đầu. Bên cạnh những thành tựu đạt đợc, DNNN vẫn còn nhiều mặt yếu kém.
Tiến trình cổ phần hoá, sáp nhập, giải thể, bán, khoán, cho thuê một số DNNN
hết sức khó khăn và chậm lại do cha xử lý đợc công nợ, lao động dôi d và tâm
lý xã hội
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, bên cạnh việc tiếp tục điều
chỉnh, sắp xếp các doanh nghiệp cũ, Nhà nớc cần đa ra những giải pháp để khắc
phục các vấn đề còn tồn đọng trên. Đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất các
ảnh hởng và hậu quả tiêu cực trong quá trình đổi mới DNNN thời gian tới.
Trong giai đoạn trớc mắt cần tập trung giải quyết lao động dôi d trong
DNNN.Đó là một vấn đề cấp thiết hiện nay vì nếu không giải quyết tốt việc làm
cho ngời lao động, đặc biệt là lao động trong DNNN sẽ dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng ảnh hởng tiêu cực đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì vậy,
em chọn đề tài Vấn đề lao động dôi d trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại
DNNN làm đề án môn học.
Do thời gian nghiên cứu không nhiều và sự hạn chế về trình độ, bản đề án
của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận đợc sự thông
cảm và những ý kiến đánh giá quý báu của cô.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chơng i. Đổi mới, sắp xếp lại DNNn - h-


ớng đi đúng trong nền kinh tế thị trờng
I. Tổng quan về DNNN
1. Khái niệm DNNN
Doanh nghiệp Nhà nớc là tổ chức kinh tế do Nhà nớc đầu t vốn, thành lập tổ
chức, quản lý,hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nớc giao.
Doanh nghiệp Nhà nớc có t cách pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự,
chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do Nhà n-
ớc quản lý (Điều1- Luật doanh nghiệp Nhà nớc). ở nớc ngoài, có ngời cho DNNN
là một tổ chức trong đó sự kết hợp giữa các yếu tố công ích và các yếu tố doanh
nghiệp.
2. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trờng .
Doanh nghiệp Nhà nớc là một bộ phận cấu thành kinh tế Nhà nớc. Trong thời
kỳ kế hoạch hoá tập trung, các DNNN đã đóng góp rất lớn vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay vai trò chủ đạo đó cũng không hề thuyên giảm trong
nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
2.1. Vai trò mở đờng cho mọi thành phần kinh tế khác.
Trong cơ chế kinh tế thị trờng để đạt đợc mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận các
doanh nghiệp, ngoài quốc doanh chỉ tập trung kinh doanh ở những vùng, những
ngành có hệ số sinh lời cao và hệ số rủi ro thấp, các doanh nghiệp này luôn luôn né
tránh đầu t vào một số ngành có hệ số sinh lời thấp và hệ số rủi ro cao, cũng nh các
ngành yêu cầu vốn đầu t lớn. Trong tình hình đòi hỏi sự có mặt của các DNNN để
giải quyết sự mất cân đối giữa các ngành các vùng của nền kinh tế quốc dân. Sự có
mặt của các DNNN để xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu vùng xa sẽ là hạt
nhân tạo điều kiện tiền đề cho các loại hình doanh nghiệp khác ra đời và phát triển.
Ngoài các vùng sâu vùng xa cơ sở hạ tầng các nơi khác của nớc ta hiện nay
nói chung còn ở trình độ rất thấp kém, với cơ sở hạ tầng nh hiện nay chúng ta cha
có đủ các điều kiện để doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẵn sàng đầu t phát triển
kinh tế. Trong khi đó vốn đầu t vào cơ sở hạ tầng cần rất lớn, thu hồi chậm, độ rủi
ro cao nên không phải là đối tợng đầu t của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì

vậy sự có mặt của DNNN trong lĩnh vực đầu t xây dựng cơ bản đóng vai trò tạo ra
các điều kiện tiền đề cần thiết để các doanh nghiệp khác có thể hoạt động .
Vai trò của DNNN ở nớc ta hiện nay còn thể hiện ở góc độ đóng góp vào
ngân sách nhà nớc. Trong suốt quá trình phát triển nền kinh tế ở nớc ta từ trớc đến
nay DNNN đã, đang và sẽ là lực lợng tạo ra nguồn thu lớn nhất cho ngân sách Nhà
nớc.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế của nớc ta hiện nay, DNNN còn góp
phần đáng kể vào việc tạo ra các hình thức mới trong nền kinh tế quốc dân. Đó là
phần lớn các đối tác trong các doanh nghiệp liên doanh với nớc ngoài là Nhà nớc,
doanh nghiệp Nhà nớc đi đầu trong các lĩnh vực công nghệ cao (diện điện tử, bu
chính viễn thông...), đi đầu trong việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các
ngành mũi nhọn then chốt.
Tóm lại, nền kinh tế nớc ta hiện nay đòi hỏi phải duy trì một số doanh
nghiệp có quy mô lớn ở một số lĩnh vực nhất định, chỉ có các DNNN mới có đủ
điều kiện để đáp ứng yêu cầu này. Bên cạnh đó DNNN còn phát triển ở nhiều quy
mô khác nhau, đặc biệt là ở quy mô vừa. Việc phát triển DNNN dới nhiều hình thức
khác nhau, nh DNNN độc lập, DNNN là các tổng công ty... góp phần làm phong
phú các hình thức DNNN của nền kinh tế quốc dân.
2.2. Kinh tế Nhà nớc tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác.
Vai trò này đợc thể hiện chủ yếu theo các hớng sau đây:
Thứ 1: Thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các doanh nghiệp khác cùng góp phần
vào việc tăng trởng kinh tế. Để làm đợc điều đó DNNN phải giữ vị trí then chốt
trong một số ngành cũng nh một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Nhng các ngành, các lĩnh vực then chốt này cũng thay đổi theo các giai đoạn phát
triển của lịch sử. Vì vậy, Nhà nớc cần có chính sách phát triển kinh tế phù hợp cho
từng thời kỳ.
Thứ 2 : Doanh nghiệp Nhà nớc đóng vai trò thúc đẩy, chuyển giao và phát
triển công nghệ kỹ thuật hiện đại. Trong nhiều lĩnh vực chuyển giao công nghệ
không phải và không thể phát huy tác dụng trong thời gian ngắn và cũng xảy ra

nhiều trờng hợp việc chuyển giao công nghệ kỹ thuật vào ngành này sẽ tạo điều
kiện thúc đẩy kỹ thuật và tăng trởng ngành khác có liên quan. Trong trờng hợp đó
cũng chỉ DNNN vừa có đủ điều kiện về vốn, lao động kỹ thuật và cũng vừa dám
lĩnh trọng trách ở các lĩnh vực cần đổi mới công nghệ kỹ thuật mà cha hoặc không
hy vọng đem lại lợi nhuận trực tiếp ở lĩnh vực đầu t.
Thứ 3: Vai trò giảm thiểu ô nhiễm môi trờng. Môi trờng và bảo vệ môi trờng
đang là vấn đề thời sự nóng hổi không phải chỉ đối với nớc ta mà với toàn thế giới.
Tuy nhiên trong thực tế việc giảm ô nhiễm môi trờng lại mâu thuẫn với tối đa hoá
lợi nhuận của doanh nghiệp và cũng mâu thuẫn với vốn kinh doanh ít ỏi của các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì vậy DNNN là một chủ thể đứng ra cung cấp
các công nghệ kỹ thuật đảm bảo chống ô nhiễm môi trờng và DNNN cũng là lực l-
ợng đi đầu trong việc chấp hành bảo vệ môi trờng.
Thứ 4: Doanh nghiệp Nhà nớc đi đầu trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội
với cộng đồng, đặc biệt đối với điạ phơng nơi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh,
với các vùng kinh tế khó khăn vùng sâu, vùng xa DNNN phải có mặt và phát triển
tại các lĩnh vực mà các doanh nghiệp khác không muốn làm hoặc không có khả
năng làm, để đảm bảo cung cấp các hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho nhu cầu các
tầng lớp dân c.
2.3. Tạo điều kiện phát triển các mối quan hệ hợp tác và giúp đỡ các
doanh nghiệp khác.
Nền kinh tế nớc ta đến nay bao gồm chủ yếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
nhiều doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ, vốn đầu t thấp kỹ thuật thủ công lạc hậu. Vì
vậy hầu hết các doanh nghiệp nớc ta không đủ khả năng sản xuất một sản phảm
công nghiệp hoàn chỉnh với công nghệ cao. Thông thờng mỗi doanh nghiệp chỉ đủ
sức làm vệ tinh ,gia công hàng cho một DNNN nào đó. Hệ thống các doanh nghiệp
Nhà nớc ta từ trớc đến nay luân đóng vai trò làm hạt nhân trong một nhóm sản
phẩm naò đó. Cho đến nay mặc dù cơ cấu kinh tế đã có nhiều thay đổi, song vai trò
tạo điều kiện hình thành các nhóm sản phảm hiệp hội, thực hiện các mối liên kết
dọc, ngang trong nền kinh tế vẫn thuộc về DNNN.
2.4. Tạo điều kiện cho việc xây dựng xã hội mới.

Vai trò xây dựng xã hội mới đợc thể hiện ở việc hạn chế các khuyết tật của
cơ chế thị trờng , cung cấp các hàng hoá công cộng.....
II. Sự cần thiết phải đổi mới, sắp xếp lại DNNN
1. Những tồn tại yếu kém của DNNN
Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay việc phát huy vai trò
chủ đạo của DNNN còn những mặt tồn tại, cha thực sự làm đòn bẩy để đẩy nhanh
tăng trởng kinh tế bền vững, ổn định; cha giải quyết đợc những vấn đề cơ bản về
mặt xã hội, vai trò mở đờng, hớng dẫn, giúp đỡ các thành phần kinh tế khác và vai
trò đối tác chính của DNNN trong liên doanh còn yếu, cha tạo đủ vật chất để đảm
bảo những cân đối lớn của nền kinh tế và để Nhà nớc thực hiện chức năng điều tiết
và quản lý vĩ mô, tình trạng tham ô lãng phí, tham nhũng trong DNNN còn gia
tăng....
Những tồn tại trên cha khắc phục đợc vì bản thân DNNN còn có những yếu
kém sau đây:
1.1. Số lợng DNNN còn quá lớn và dàn trải:
Số lợng DNNN cha đợc phân loại chồng chéo theo cơ quan quản lý và ngành
nghề, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp Nhà nớc có quy mô nhỏ và vừa; số l-
ợng các công ty thành lập quá nhiều trong thời gian ngắn và cha đợc chuẩn bị đầy
đủ, nhất là các tổng công ty do các Bộ thành lập cha có bớc đi và điều kiện hợp lý
nên nhiều tổng công ty mới chỉ làm đợc chức năng trung gian, gom đầu mối quản
lý. Trong số trên 5000 doanh nghiệp, có tới 25% doanh nghiệp có số vốn dới 1 tỷ
đồng, trong đó 50% doanh nghiệp có số vốn dới 500 triệu đồng. Thậm chí có tỉnh
thành phố còn một số doanh nghiệp có vốn dới 100 triệu đồng. Trong số những
tổng công ty mới hình thành có một số công ty hình thành cha đầy đủ các điều kiện
nên hoạt động còn lúng túng, khó khăn kết quả còn hạn chế. Tốc độ tăng trởng của
DNNN có xu hớng chững lại chỉ có số ít các doanh nghiệp có quy mô lớn, công
nghệ hiện đại có khả năng cạnh tranh trên thị trờng quốc tế và khu vực.
Nhiều DNNN cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành
nghề kinh doanh, cấp quản lý tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong chính khu
vực DNNN với nhau. Các doanh nghiệp thuộc cùng một ngành nghề kinh tế kỹ

thuật rất manh mún, phân tán, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Điển
hình là trong các lĩnh vực thơng mại t vấn, xây dựng. Sự liên kết hợp tác giữa các
doanh nghiệp Nhà nớc với nhau và với doanh nghiệp Nhà nớc thuộc các thành phần
kinh tế khác còn lỏng lẻo và cha nề nếp.
Sự chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm. Trên một thị trờng
còn cha đợc phát triển và sức mua cha cao dẫn đến tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh, đầu t dàn trải trong khi nguồn vốn hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn
không cân đối.
1.2. Tốc độ tăng trởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN cha
cao và đang giảm dần.
Tốc độ tăng trởng năm của các DNNN tiếp tục tăng 13% cho đến năm 1998
và năm 1999 đến năm 2001 giảm xuống còn 8 9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm
năm 1998 một đồng vốn Nhà nớc tạo đợc 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi
nhuận. Tỷ lệ tơng ứng của năm 2000 là 1 đồng vốn chỉ làm ra đợc 2,9 đồng doanh
thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Thậm chí trong ngành công nghiệp một đồng vốn chỉ
làm đợc 0,02 đồng lợi nhuận.
Số doanh nghiệp thua lỗ, hoà vốn còn lớn, nhất là các DNNN ở địa phơng, số
doanh nghiệp làm tăng nợ khó đòi, không có khả năng trả lỗ kéo dài ngày càng
nhiều.
Tính đến hết tháng 4 năm 2001, số DNNN còn có đăng ký tại Bộ Kế hoạch
và Đầu t là 5.531, mức vốn bình quân là 17,9 tỷ đồng/doanh nghiệp. Nh vậy, so với
trớc thời kỳ chuyển đổi đã giảm hơn một nửa. Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất của các
DNNN vẫn còn rất thấp. Theo báo cáo của Tổng cục Quản lý vốn và tài sản Nhà n-
ớc tại doanh nghiệp năm 2000 chỉ có 45% số DNNN làm ăn có lãi; 40,6% số doanh
nghiệp hoạt động không có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Đáng chú ý là một số
doanh nghiệp lớn thuộc các ngành mà mấy năm trớc có lãi nay cũng nằm trong số
những doanh nghiệp bị lỗ nh dân dụng, khách sạn, điện
1.3. Mặt hàng đơn điệu, cơ cấu sản xuất lỏng lẻo không hợp lý, năng suất
chất lợng hàng hoá thấp, số doanh nghiệp vi phạm pháp luật tăng.
Do hiệu quả sản xuất thấp, giá thành cao nên khả năng cạnh tranh trên thị tr-

ờng quốc tế và khu vực thấp, sản lợng và giá xuất khẩu không cao. Số Giám đốc
doanh nghiệp vi phạm pháp luật, quy định của Nhà nớc tăng lên, có vụ nghiêm
trọng nh TAMEXCO, dệt Nam Định Việc quy định về tính giá trị sản phẩm, vấn
đề công khai tài chính, giao vốn và bảo toàn vốn, tính giá thành, hạch toán có mặt
cha hợp lý, còn sơ hở nên dẫn đến tình trạng báo cáo lãi giả, lỗ thật làm cho việc
tính toán và đánh giá hiệu quả cha chính xác. vì vậy sức cạnh tranh của DNNN và
khả năng tự tái đầu t yếu.
1.4. Liên doanh với các chủ đầu t nớc ngoài bị thua thiệt lớn, thậm chí
mất vốn.
Tuy DNNN liên doanh với nớc ngoài có tác dụng thu hút vốn nớc ngoài vào
Việt Nam. Nhng mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh xuất khẩu không thực
hiện đợc, vốn của DNNN bị lỗ, tỷ trọng giảm, vì các chủ đầu t nâng giá đầu t của
các thiết bị đầu t (C1 và C2) lên, có loại đầu vào tăng lên 1,5 lần thậm chí 2 lần.
Bằng cách đó nhà đầu t tăng thu nhập riêng cho họ mà không ai kiểm soát đợc về
thực chất chủ đầu t đã lấy lợi nhuận thông quả hình thức tăng chi phí đầu vào mà
phía Việt Nam không kiểm soát đợc Nhìn bề ngoài là lỗ nh ng thực chất là lãi, lãi
này chủ đầu t thu trớc còn lỗ doanh nghiệp Việt Nam phải chịu. Đó là hậu quả của
việc thiếu cơ chế kiểm tra, quản lý, kiểm soát nhất là về mặt hạch toán tài chính.
Đây là sự thiếu cơ chế bảo đảm của Việt Nam trong liên doanh với nớc ngoài.
2. Nguyên nhân chủ yếu những tồn tại yếu kém của DNNN hiện nay.
2.1. Nguyên nhân do quá trình hình thành và phát triển lịch sử.
Nhiều DNNN phải gánh chịu hậu quả do quá trình lịch sử hình thành và phát
triển. Cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, giá trị sử dụng của số tài sản, thiết bị thấp
nhng tính giá trị để bảo toàn vốn và khấu hao lớn, ngợc lại một số tài sản thiết bị có
giá trị cao không đợc tính theo giá thị trờng nên giá trị vốn còn thấp. Cơ chế bao
cấp để lại một đội ngũ lao động quá lớn, trình độ thấp, sức khoẻ kém không đáp
ứng đợc yêu cầu sản xuất kinh doanh hiện nay. Trong khi đó cũng còn một số
DNNN lại tăng biên chế, nhng ngời làm thì ít, ngời ăn thì nhiều nên năng suất
không cao, thu nhập thấp.
Chủ sở hữu DNNN là Nhà nớc, nhng phải thông qua nhiều chủ sở hữu gián

tiếp. Do nhiều đại diện quản lý nên tính năng động của kinh tế Nhà nớc không cao,
quyết toán không kiên quyết và kịp thời so với các thành phần kinh tế khác. Thêm
vào đó do quy định trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi cha thật rõ ràng cho từng đại
diện chủ sở hữu nên việc quản lý và sự phối hợp trong quản lý gặp nhiều khó khăn,
lúng túng, hiệu lực thấp.
Ngoài ra, DNNN còn có trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ xã hội công
cộng làm cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới. Vì lẽ đó, DNNN
tuy đợc coi là kinh doanh cũng phải tham gia phát triển một số mặt mang tính công
ích. Nh vậy, sẽ có nhiều nhân tố tác động đến tốc độ tăng trởng của DNNN.
2.2. Do những tồn tại, yếu kém trong quản lý Nhà nớc, việc thực hiện chủ
trơng, đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc đối với doanh nghiệp.
Cha có chiến lợc quy hoạch dài hạn đầy đủ để phát triển các ngành kinh tế,
kinh doanh, đặc biệt là quy hoạch phát triển doanh nghiệp Nhà nớc trên các vung
kinh tế, khi trọng điểm trong các ngành kinh tế - dịch vụ then chốt mũi nhọn. Do
vậy, hệ thống DNNN cha có cơ cấu hợp lý, DNNN quận/huyện còn tồn tại về hình
thức kéo dài, DNNN cha có chiến lợc kinh doanh và phát triển doanh nghiệp một
cách đầy đủ và đúng.
Chính sách đổi mới công nghệ, phơng thức, phơng tiện trong sản xuất kinh
doanh và quản lý chậm đợc thực hiện, nhất là các doanh nghiệp đợc xây dựng trong
thời kỳ bao cấp. Trong những năm đổi mới, công nghệ thiết bị phơng tiện sản xuất
có hiện đại hơn nhng lại do nhiều nớc sản xuất nên h hỏng thì thiếu phụ tùng thay
thế, sửa chữa cải tạo và việc hiện đại hoá gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó một số
DNNN trong quá trình tiếp thu công nghệ của nớc ngoài một phần do trình độ kỹ
thuật của chúng ta còn kém, một phần do cơ chế quản lý lỏng lẻo nên hiện tợng
nhập khẩu tràn nan máy móc thiết bị cũ của nớc ngoài là khá phổ biến gây xôn xao
d luận, có ngời còn coi Việt Nam liệu có phải là bãi thải công nghiệp của thế
giới, làm trình độ công nghệ của các DNNN vốn đã lạc hậu, tiếp tục lạc hậu hơn.
Thực trạng đó nếu không đợc chấn chỉnh thì sự tụt hậu nhanh của các DNNN là
điều khó tránh khỏi trong những năm tới. Mặt khác việc khai thác sử dụng máy
móc thiết bị còn thấp. Tính đến năm 2000 làm một ca máy một ngày đêm là 65%, 2

ca máy là 15%, 3 ca máy là 20%. Các doanh nghiệp giấy sử dụng 80% công suất
thiết bị, Tổng công ty điện là 72,4%
Một số chính sách tạo vốn để phát triển và kinh doanh cha hợp lý và đồng
bộ. Khi chuyển sang cơ chế mới doanh nghiệp không chỉ lo vốn cho một khâu mà
cho cả 3 khâu: vốn cho đầu vào, vốn cho sản xuất, vốn cho tiêu thụ. Vốn Nhà nớc
trong thời kỳ bao cấp chủ yếu là vốn sản xuất, Nhà nớc cung ứng vật t và tiêu thụ
sản phẩm. Vì vậy, số doanh nghiệp nợ Ngân hàng Nhà nớc còn nhiều. Tình trạng
các doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhau là phổ biến và có xu hớng tăng lên, tỷ
lệ lợi nhuận để lại cho tái đầu t của doanh nghiệp còn quá nhỏ bé, số doanh nghiệp
bị lỗ, hoà vốn không đủ để nộp thuế sử dụng vốn và tái đầu t còn nhiều
Số doanh nghiệp huy động vốn trong dân và cán bộ, công nhân viên cho phát
triển còn ít. Thực tế đó đã làm cho tài chính của doanh nghiệp thiếu lành mạnh, số
nợ khoanh, nợ treo trong từng thời gian tăng lên do nguyên nhân bất khả kháng
cha đợc giải quyết dứt điểm, nên số nợ ngày một lớn và kéo dài, làm cho tài chính
của doanh nghiệp trở nên phức tạp và cũng không có khả năng để trang bị các dây
chuyền công nghệ tiên tiến.
Hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế ban hành và thực hiện cha cơ bản,
còn mang tính chất tình thế, đặc biệt việc tổ chức thực hiện còn chậm, cha nghiêm
túc nên hiệu lực thực hiện còn thấp. Sở dĩ nh vậy là vì chúng ta mới chuyển sang cơ
chế thị trờng theo định hớng XHCN nên cha đủ thời gian và kinh nghiệm xây dựng
hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế đồng bộ, có tính khả thi cao. Mặt khác, việc
hớng dẫn và tổ chức thực hiện cha kịp thời nghiêm túc, một số chính sách kinh tế vĩ
mô cha ổn định, hợp lý, có văn bản vừa công bố đã tạm thời đình chỉ. Ngoài ra, việc
quy định pháp luật, pháp lệnh đối với DNNN không thống nhất, cha hợp lý nhng
chậm sửa đổi , điều đó không những ch a tạo đợc môi trờng kinh doanh thuận lợi,
ổn định cho các doanh nghiệp phát huy tính chủ động sáng tạo, mà còn cản trở đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sách tài chính của doanh nghiệp ch-
a hợp lý còn nặng về thu thuế suất cao, thuế tính chồng chéo và trùng lặp, thuế cha
khuyến khích tăng quy mô sản xuất và phát triển xuất khẩu, lãi suất cho vay còn
cao, thủ tục phiền hà, điều kiện cần để vay và thế chấp tài sản nhng lại thiếu cơ

quan kiểm soát thế chấp. Điều hành chính sách xuất nhập khẩu thông qua cơ chế
hạng ngạch nhng lộn xộn, không kiểm tra và quản lý chặt chẽ nên hàng nớc ngoài
tràn vào thị trờng trong nớc đang bóp chết hàng trong nớc. Tổ chức thực hiện quy
chế đấu thầu cha hợp lý, đang có nhiều biểu hiện tiêu cực, tổn hại đến lợi ích Nhà
nớc, trong nhiều trờng hợp các tổ chức đấu thầu của ta đang phải làm thuê cho một
nhóm doanh nghiệp t nhân và t bản nớc ngoài; Nhà nớc cha có chính sách hỗ trợ
cho các tổ chức đấu thầu Việt Nam tham gia đấu thầu quốc tế.
2.3. Do những yếu kém trong hoạt động của chính doanh nghiệp.
Những yếu kém về đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Một bộ phận không nhỏ các cán bộ bị thoái hoá, biến chất, vi phạm pháp luật
gây thất thoát tài sản, tiền vốn làm tổn hại cho Nhà nớc và tập thể công nhân viên.
Một số cán bộ lớn tuổi bảo thủ, ỷ lại, thiếu năng động nhng vẫn giữ chức vụ
quản lý, lãnh đạo quan trọng trong doanh nghiệp.
Một số cán bộ quản lý doanh nghiệp thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu kiến
thức kinh tế thị trờng và kinh doanh, cha đợc đào tạo, bồi dỡng lại nên đã bị thua
thiệt trong hợp tác kinh doanh và kinh doanh kém hiệu quả thậm chí gây lãng phí.
Một số công nhân trong doanh nghiệp trình độ văn hoá, công nghệ còn thấp,
đặc biệt là thiếu công nhân lành nghề, một số bộ phận còn thiếu trách nhiệm, do đó
không đáp ứng yêu cầu trách nhiệm và hạ giá thành nên sức cạnh tranh của sản
phẩm làm ra yếu và phục vụ nhu cầu công cộng không tốt.
Công tác tổ chức quản lý và khuyến khích phát triển sản xuất kinh
doanh trong một số doanh nghiệp cha hợp lý, hiệu quả kinh doanh còn
thấp.
Chiến lợc kinh doanh và phát triển doanh nghiệp cha đợc xác định đầy đủ,
chính xác.
Đổi mới công nghệ chậm, tổ chức sản xuất, bố trí xây dựng dây chuyền, sắp
xếp cán bộ chủ chốt và công nhân cha hợp lý.
Bộ máy quản lý còn nặng nề, cồng kềnh, số lợng lao động còn d thừa cha đ-
ợc giải quyết nên năng suất thấp.
Quản lý sử dụng tài sản và nguồn vốn trong doanh nghiệp cha đợc chặt chẽ,

hiệu quả còn thấp nên tình trạng thiếu vốn tăng lên.
Các hình thức tiền lơng, tiền thởng phân phối cho ngời lao động cha công
bằng còn bình quân, cha khuyến khích phát triển tài năng và nâng cao năng suất lao
động.
Công tác kiểm tra, kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nớc đối với hoạt động
của doanh nghiệp và thủ trởng các đơn vị còn bị buông lỏng.
3. Sự cần thiết phải đổi mới, sắp xếp lại DNNN
Do yêu cầu của quá trình mở cửa để tiếp thu công nghệ cũng nh giao lu buôn
bán với các nớc trong khu vực và trên thế giới. Quá trình này đòi hỏi mỗi tổ chức,
mỗi doanh nghiệp phải dần dần tách ra khỏi thế ỷ lại, dựa dẫm vào Nhà nớc mà
phải đứng vững trên đôi chân của mình, mỗi đơn vị trở thành một chủ thể kinh
doanh độc lập Nhà nớc chỉ đóng vai trò trung gian trong việc hỗ trợ về đầu ra, đầu
vào và công nghệ kỹ thuật cho những doanh nghiệp còn non yếu và thực sự có
triển vọng trong tơng lai.
Do quá trình CNH HĐH đã làm cho cơ cấu ngành nghề Việt Nam có sự
thay đổi đáng kể. Trớc kia từ cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ, ngày nay
chuyển sang công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và tơng lai sẽ là dịch vụ, công
nghiệp, nông nghiệp. Vì vậy, Đảng và Nhà nớc cần phải có chính sách chuyển dịch
các ngành, các lĩnh vực kinh tế sao cho phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,
với đặc điểm, tình hình của đất nớc ta.
Do những yếu kém từ chính bản thân DNNN nên việc giữ lại tất cả các loại
hình DNNN trớc đây trong giai đoạn hiện nay là điều khó khăn và không cần thiết.
Quá trình mở cửa hội nhập Nhà nớc ta đang có chủ trơng đa dạng hoá các hình thức
sở hữu, khuyến khích nhân dân cả nớc tham gia làm kinh tế. Vì vậy việc giải thể,
phá sản các DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài và việc giao bán, khoán, cổ phần hoá các
DNNN có thể khôi phục đợc là một chủ trơng đúng đắn của Đảng và Nhà nớc ta
nhằm mục đích nâng cao sức cạnh tranh của các DNNN, tạo môi trờng kinh doanh
bình đẳng cho các thành phần kinh tế, huy động tối đa nguồn vốn trong dân, đồng
thời phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi doanh nghiệp trong guồng máy phát
triển chung của đất nớc

III. Đánh giá chung về quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN
trong thời gian qua
1. Kết quả đạt đợc
Hơn 10 năm qua chúng ta đã triển khai nhiều chủ trơng, thực hiện nhiều biện
pháp, sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh góp phần làm tăng trởng và phát triển đất nớc. Những biện pháp kiên quyết
và sâu rộng tập trung trong 3 đợt chính.
Đợt thứ nhất (1990 1993) : tập trung kiểm soát số lợng DNNN vốn đã bị
bung ra trong một thời gian trớc đó. Sắp xếp lại DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài,
hình thành một số tiêu chuẩn, điều kiện cho các DNNN, nh về vốn pháp định,
ngành nghề kinh doanh, quy mô, luận chứng về thị trờng, tiêu thụ sản phẩm.
Đợt thứ hai (1994 1997) : khắc phục tính chất hành chính của các công ty
cũ thành lập mới các tổng công ty Nhà nớc 1990 1991 trong những ngành,
những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, cổ phần hoá một số DNNN. Thực hiện
luật DNNN, bắt đầu xoá bỏ dần chế độ chủ quan của các cơ quan hành chính Nhà
nớc.
Đợt thứ ba (1998 đến nay): tiếp tục củng cố và hoàn thiện các tổng công ty
Nhà nớc, thực hiện các biện pháp lành mạnh hoá tài chính, lập kế hoạch, chiến lợc
đổi mới công nghệ, hoàn thiện quản lý, nâng cao sức cạnh tranh và khả năng hội
nhập kinh tế quốc tế của các DNNN. Tiến hành chuyển một bộ phận DNNN sang
công ty cổ phần, bắt đầu thực hiện các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh và
cho thuê DNNN trên cơ sở phân loại doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Trung
ơng 4 (khoá VIII).
Đến nay số lợng DNNN đã giảm rất nhanh từ 12.300 trớc đây xuống còn
5.571 doanh nghiệp (giảm 54,7%) kể cả các doanh nghiệp ngân hàng, doanh
nghiệp của các tổ chức Đảng, đoàn thể. Cả nớc có 17 tổng công ty 91 và 77 tổng
công ty 90 đang hoạt động thuộc các ngành, các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng,
giao thông, nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản Trong các tổng công ty này hiện
có 1.605 doanh nghiệp thành viên, chiếm 28% tổng DNNN, chiếm 65% về vốn Nhà
nớc, 61% về lao động.

Nhờ sắp xếp, đổi mới DNNN, hiệu quả hoạt động đợc nâng lên đáng kể, cơ
cấu DNNN đợc điều chỉnh hợp lý có tác dụng tích cực đối với việc tích tụ và tập
trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh nghiệp mới có sức cạnh tranh và
hiệu quả, trình độ công nghệ kỹ thuật cao. Tỷ lệ nộp ngân sách trên một đồng vốn
đầu t tăng từ 14,7% năm 1991 lên 40,2% năm 2001.
2. Những tồn tại yếu kém
Tuy nhiên đến năm 2001 vẫn còn khoảng 60% DNNN trong đó 40% hoạt
động thất thờng và 20% thua lỗ, hoạt động tài chính của nhiều DNNN còn thiếu
lành mạnh, năng suất lao động còn thấp. Một trong những nguyên nhân quan trọng
tác động trực tiếp đến hạn chế trên là tình trạng lao động dôi d lớn trong các DNNN
cả trớc và sau khi đổi mới. Vì vậy, việc giải quyết lao động dôi d là một việc làm
quan trọng góp phần làm giảm thất nghiệp chung của cả nớc, đồng thời nâng cao
sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các DNNN. Đây là một việc làm đã đợc
Đảng và Nhà nớc ta quan tâm giải quyết nhng do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan vẫn cha có đợc đáp án tối u. Vì vậy, lao động dôi d luôn luôn là một
vấn đề mới đòi hỏi mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cần có sự quan tâm, giải quyết và đa
ra những giải pháp khác nhau nhằm khắc phục hạn chế một trong những vấn đề có
tính cấp thiết hàng đầu này.
Qua sự nghiên cứu về quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN em thấy việc giải
quyết lao động dôi d phù hợp với trình độ và năng lực bản thân nên em mạnh dạn
chọn đề tài này với mong muốn góp phần hiểu biết của mình vào giải quyết việc
làm cho nguồn lao động trong các DNNN nói riêng và ngời lao động trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói chung, góp phần làm tăng trởng và phát triển
đất nớc, thực hiện mục tiêu kế hoạch của thời kỳ CNH HĐH .
IV. đổi mới sắp xếp lại dnnn với vấn đề lao động dôi d
1. Quan điểm về lao động dôi d
1.1. Lao động dôi d thực tế
Đây là bộ phận lao động mất việc làm do doanh nghiệp giải thể, phá sản
hoặc thu hẹp phạm vi sản xuất.
Trong quá trình mở cửa để hội nhập với khu vực và trên thế giới có rất nhiều

các doanh nghiệp mà đặc biệt là các DNNN không có những chuyển biến tích cực
thích ứng với những đòi hỏi của cơ chế thị trờng nh trình độ công nghệ lạc hậu, đội
ngũ cán bộ quản lý yếu kém, thiếu sự năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh
doanh, thái độ ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp, bù lỗ của Chính phủ. Vì vậy, Đảng
và Nhà nớc phải cân nhắc, xem xét rất kỹ về tầm quan trọng và xu hớng phát triển
trong tơng lai của hàng loạt các doanh nghiệp kiểu này để đa ra quyết định giữ lại
hay giải thể, phá sản hay di chuyển, đổi hình thức sở hữu từ chỗ doanh nghiệp một
chủ sở hữu là Nhà nớc sang hình thức nhiều chủ sở hữu trong đó Nhà nớc giữ hoặc
không giữ một phần vốn nhỏ trong doanh nghiệp.
Các loại hình đổi mới DNNN nói trên đều tạo ra một lực lợng d thừa lớn.
Lực lợng lao động này bị đẩy ra ngoài xã hội, họ phải tự thân vận động để kiếm
việc làm mới, để trang trải cuộc sống trong một nền kinh tế vốn dĩ đang còn nằm
trong tình trạng kém phát triển. Vì vậy, sự quan tâm, giúp đỡ của Đảng, Nhà nớc là
một việc làm quan trọng nhằm tạo cho lực lợng lao động này tìm đợc việc làm ở
những đơn vị mới, hoặc đối với những ngời thực sự không thể bố trí, sắp xếp đợc
nơi làm việc thì cũng giải quyết cho họ chế độ hu trí, mất sức hay trợ cấp hàng

×