Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

quyền con người và thực hiện quyền con người trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.06 KB, 9 trang )

Quyền con người và thực hiện quyền con
người trong điều kiện hiện nay.
Ở Việt Nam, các quyền cơ bản của con người đã và đang được thực hiện
trên thực tế và được Hiến pháp, pháp luật Nhà nước bảo vệ. Những
chính sách, pháp luật về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và nhất là về
tôn giáo đã đi vào cuộc sống, được các giáo hội, các tu sĩ, chức sắc, chức
việc, tín đồ tôn giáo hoan nghênh. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và
đang làm tất cả những gì có thể làm được nhằm thực hiện ngày càng tốt
hơn dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, đồng thời góp phần tích cực vào
việc giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân quyền trên thế giới.
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ tuyên bố vào năm 1776 ghi rõ: “Tất cả
mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn của cách
mạng tư sản Pháp (1789) tuyên bố: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Những
lời tuyên bố trong các tuyên ngôn nói trên đã khẳng định sự mong muốn của
con người, của công dân với hai tư cách: tư cách con người nói chung và tư
cách công dân của một quốc gia dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, ở thời kỳ đầu,
quyền con người mới được thể hiện với ý nghĩa trừu tượng, còn quyền công
dân, trong đó cơ bản là quyền tư hữu thiêng liêng thì không bị giới hạn.
1
Quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân
loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác lập quyền bình đẳng,
tự do trong các quan hệ giữa người và người, cũng như giữa các dân tộc; và
đó cũng là thành quả đấu tranh của loài người nhằm hướng tới làm chủ thiên
nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Đó là quyền của mỗi người
với tư cách là thực thể tự nhiên và xã hội, không phân biệt quốc tịch, màu
da, ngôn ngữ, chính kiến, v.v được bảo đảm bằng luật pháp quốc tế và quốc
gia mà trước hết là luật pháp quốc gia.
Sống trong một đất nước đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược


do các thế lực thù địch gây ra và do đó, cũng là một quốc gia dân tộc bị vi
phạm lớn nhất về quyền con người, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam hiểu
rằng, quyền con người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung
của cả nhân loại, được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc, vừa có tính
đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng quốc gia dân tộc. Tính phổ biến và
tính đặc thù đó không tách rời nhau, luôn bổ sung cho nhau để tồn tại, phát
triển. Vì vậy, trong một thế giới toàn cầu hoá kinh tế và ngày càng phát triển
đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người, cần có sự kết hợp hài
hoà các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều
kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội và những giá trị văn hoá,
tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia dân tộc. Đồng
thời, cần có sự nhìn nhận toàn diện đối với tất cả các quyền về dân sự, chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hoá trong một tổng thể hài hoà, không nên xem nhẹ
bất cứ quyền nào.
Các quyền cũng như quyền tự do của cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và
phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc, của cộng
đồng; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội. Việc chỉ ưu tiên
2
hoặc tuyệt đối hoá các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân
mà không quan tâm thích đáng đến quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã
hội và văn hoá của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng quốc gia dân tộc là
cách tiếp cận phiến diện, không phản ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh về
quyền con người.
Do đó, việc bảo đảm và thúc đẩy thực hiện quyền con người trước hết là
trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia dân tộc. Các quốc gia có trách
nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc, có tính
đến hoàn cảnh của quốc gia mình để bảo đảm cho người dân được hưởng thụ
quyền con người một cách tốt nhất. Thế nhưng, do khác biệt về hoàn cảnh
lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển, giá trị truyền thống văn hoá…

nên cách thực hiện quyền con người của mỗi quốc gia có thể khác nhau. Sự
hợp tác và đối thoại giữa các quốc gia để thúc đẩy việc thực hiện và bảo vệ
quyền con người là một yêu cầu cần thiết và khách quan.
Việt Nam ủng hộ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con
người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì mục tiêu chung là thúc đẩy việc
bảo vệ và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền con người. Trong tình hình
hiện nay, các quyền con người chỉ có thể được tôn trọng và bảo vệ trong môi
trường hoà bình, an ninh bảo đảm, hợp tác bình đẳng và phát triển bền vững,
trong đó các giá trị nhân bản phải luôn được tôn trọng và bảo vệ.
Cuộc đấu tranh vì các quyền con người cần được tiến hành đồng thời với các
biện pháp ngăn chặn nguy cơ xảy ra các cuộc chiến tranh, xung đột vũ trang
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và khủng bố; chống nghèo đói, dịch bệnh, tội phạm
3
xuyên quốc gia. Bởi vì, đó là những yếu tố trực tiếp đe doạ hoà bình, an
ninh, độc lập và phồn vinh của mỗi quốc gia dân tộc, và do vậy, ngăn cản
việc bảo vệ và thực hiện quyền con người trong mỗi quốc gia dân tộc và trên
phạm vi toàn thế giới.
Ở Việt Nam những năm qua, cùng với sự phát triển không ngừng về mọi
mặt của đất nước, các quyền con người cũng ngày càng được hoàn thiện cả
về mặt pháp lý, nội dung và điều kiện thực hiện. Xem xét một cách tổng
quát nội dung hệ thống Hiến pháp, pháp luật nước ta, có thể nói rằng, qua
từng giai đoạn phát triển của đất nước, căn cứ vào những điều kiện cụ thể về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trình độ dân trí của nhân dân, Nhà nước
Việt Nam luôn luôn tôn trọng những nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp
quốc và các công ước quốc tế về quyền con người.
Pháp luật Việt Nam trong những năm qua đã từng bước được hoàn thiện
theo hướng ngày càng mở rộng và tăng cường bảo đảm các quyền con
người, quyền công dân trên mọi lĩnh vực, thể hiện ngày càng đầy đủ và bảo
vệ ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người. Kể từ khi ra đời

(1946) đến nay, Hiến pháp nước ta đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các
năm 1959, 1980, 1992 và 2001, với những điều khoản quy định rõ ràng về
các quyền con người được Hiến pháp bảo vệ: các quyền về dân sự, chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội; các quyền riêng của từng giới xã hội, đặc biệt là của
trẻ em, phụ nữ, các dân tộc thiểu số và quyền bình đẳng trước pháp luật của
các tôn giáo.
Trong chương V của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), khi nói về quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân đã có những điều ghi như sau: “Công dân có quyền
4
tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin, có quyền hội họp,
lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật” (Điều 69). “Công dân có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín
ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách Nhà nước” (Điều 70). “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình
thức truy bức, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân” (Điều 71).
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét
xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi
danh dự. Người làm trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý
nghiêm minh” (Điều 72). “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở…
thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của
công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp

luật” (Điều 73)…
Trong quá trình xây dựng và trước khi thông qua Hiến pháp cũng như các
đạo luật quan trọng, dự thảo các văn bản này đều được công bố rộng rãi để
lấy ý kiến đóng góp của nhân dân và được điều chỉnh trên cơ sở các ý kiến
đó. Bằng việc tham gia vào quá trình xây dựng Hiến pháp, luật pháp, nhân
dân đã thực hiện các quyền tự do, dân chủ của mình, và các văn bản pháp
5
luật quan trọng đều thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân.
Như vậy, ở Việt Nam, các quyền cơ bản của con người đã và đang được
thực hiện trên thực tế và được Hiến pháp, pháp luật bảo vệ. Những chính
sách, pháp luật về đời sống chính trị, kinh tế – xã hội và nhất là về tôn giáo
đã đi vào cuộc sống, được các giáo hội, các tu sĩ, chức sắc, chức việc, tín đồ
tôn giáo hoan nghênh. Việc thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta
được thể hiện trên tất cả các mặt, mà trước hết là việc đào tạo chức sắc, nhà
tu hành tôn giáo. Thứ đến là việc phổ biến kinh sách tôn giáo; xây dựng, tu
bổ nhà thờ, chùa chiền, thánh thất, thánh đường… Tất cả những việc này
đều được thực hiện rất tốt, rất phong phú, sinh động.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tôn trọng niềm tin, nghi thức thờ
phụng, những sinh hoạt tôn giáo phù hợp với giáo lý kinh thánh, với truyền
thống văn hoá dân tộc, góp phần nâng cao đạo đức, nhân cách của con
người, chứ không thể chấp nhận những hành vi lợi dụng hoặc đội lốt tôn
giáo để làm những điều trái pháp luật, phản văn hoá, đi ngược lại những lời
răn dạy của Chúa, Phật, thánh, thần… và những yêu cầu chính đáng của
đồng bào tôn giáo.
Trong tiến trình lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiều đồng bào tôn
giáo, nhiều tu sĩ, chức sắc tôn giáo đã làm tốt cả việc đạo lẫn việc đời, góp
phần sức lực, của cải, kể cả xương máu của mình cho sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc. Nhiều con em gia đình tôn giáo đã trực tiếp cầm súng
chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân,

bảo vệ chủ quyền độc lập của dân tộc. Bởi lẽ, họ hiểu rằng, trước khi mình
là người tôn giáo thì đã là người Việt Nam, và văn hoá dân tộc Việt Nam là
6
giá trị cơ bản của con người Việt Nam mà bất cứ tôn giáo nào cũng không
thể phủ nhận, nhất lại là văn hóa của một dân tộc đã có bề dày truyền thống
kiên cường, bất khuất trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Trong thế giới ngày nay, tuy có những vấn đề còn tuỳ thuộc lẫn nhau, thế
nhưng mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền thiêng liêng là tự lựa chọn con
đường phát triển, thể chế kinh tế, chính trị – xã hội và trước hết, phải dựa
vào Hiến pháp, pháp luật trong nước để thực hiện dân chủ, nhân quyền của
quốc gia dân tộc mình; không một nước nào có quyền áp đặt giá trị “dân
chủ”, “nhân quyền” của mình như là một khuôn mẫu chung cho các nước.
Tuy nhiên, quyền con người là vấn đề đang được đặt ra trong các mối quan
hệ quốc tế, và Việt Nam luôn tỏ thái độ thiện chí trong hợp tác giải quyết
vấn đề này. Thế nhưng, cũng cần khẳng định rằng, lịch sử hình thành và phát
triển hợp tác quốc tế về quyền con người luôn gắn với quan điểm, đường
hướng của các thể chế chính trị – xã hội và thời điểm lịch sử của các quốc
gia dân tộc khác nhau; gắn với sự cố gắng chung của nhân loại trong đấu
tranh để ghi nhận, bảo vệ và phát triển các quyền cơ bản của con người. Việt
Nam rất mừng là ngày càng có nhiều tổ chức quốc gia và quốc tế, tổ chức
phi chính phủ, nhiều cá nhân đã tích cực làm nhiều việc thiện, góp phần làm
cho con người sống trên hành tinh này giảm bớt đau thương, sống ngày càng
tốt hơn và quyền con người ngày càng được bảo đảm hơn. Song cũng đáng
tiếc là, tình cảm cao đẹp đó hiện nay đang bị một số nước lợi dụng vào mục
đích chính trị của mình. Họ lấy các vấn đề dân chủ, nhân quyền làm cái cớ
để gây sức ép chính trị và can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
Ngày 22-10 vừa qua, Nghị viện châu Âu thông qua cái gọi là “Nghị quyết về
quan hệ với Việt Nam”, kêu gọi gia tăng áp lực nhân quyền và tự do tôn giáo
7
đối với Việt Nam. Rằng, ở Việt Nam, một vài nhóm tôn giáo và dân tộc

thiểu số vẫn bị phân biệt đối xử và trấn áp. Các dân biểu châu Âu yêu cầu
Uỷ ban châu Âu đánh giá lại chính sách hợp tác với Việt Nam, “dựa trên tôn
trọng các nguyên tắc dân chủ và quyền cơ bản”, cũng như có cơ chế đánh
giá rõ ràng đối với các dự án phát triển ở Việt Nam để bảo đảm các tiêu
chuẩn về nhân quyền. Họ còn cho rằng, cần xây dựng những tiêu chuẩn
được xác định rõ ràng trong việc đánh giá các dự án hợp tác phát triển hiện
nay tại Việt Nam, theo hướng bảo đảm phù hợp với điều khoản liên quan
đến nhân quyền và dân chủ.
Về sự kiện này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã khẳng định:
“Việc Nghị viện châu Âu đã thông qua một nghị quyết không phản ánh đúng
tình hình Việt Nam, đặt ra những điều kiện không có căn cứ làm ảnh hưởng
đến quan hệ hợp tác đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Liên minh
châu Âu là không thể chấp nhận được… Bảo đảm và phát huy các quyền
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới ở Việt
Nam… Những nỗ lực của Việt Nam đã đem lại nhiều thành quả được cộng
đồng quốc tế thừa nhận”.
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế thế giới hiện nay, việc liên kết, hợp tác
giữa các nước trong khu vực và trên thế giới là yêu cầu khách quan đối với
sự phát triển của mỗi nước, dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi. Với
tinh thần đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp
tác với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời chúng ta
cũng luôn luôn mong muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước, tạo mọi
điều kiện cho sự hợp tác đó đạt được kết quả như mong muốn của mỗi bên.
Thế nhưng, nhân dân Việt Nam quyết không chấp nhận việc lợi dụng những
vấn đề hợp tác đó vào mục đích chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ của
8
nước ta trong giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo
mà Nghi viện Liên minh châu Âu nêu ra. Hơn nữa, những vấn đề mà họ đưa
ra chỉ dựa vào những thông tin lệch lạc, có dụng ý xấu và bóp méo, xuyên
tạc sự thật về các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam,

không phản ánh đúng tình hình ở Việt Nam. Đảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam đã và đang làm tất cả những gì có thể làm được nhằm thực hiện
ngày càng tốt hơn dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, đồng thời góp phần tích
cực vào việc giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân quyền trên thế giới hiện
nay./.
9

×