Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước và sự vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.92 KB, 88 trang )

Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước và sự vận dụng trong xây dựng nhà nước
pháp quyền việt nam
Trong quá trình học tập và trau dồi kiến thức về chính trị - pháp lý ở trường Đại
học Luật Hà Nội, có một vấn đề đã làm chúng em hết sức băn khoăn.
Tại sao Điều 16 của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp
lại nhấn mạnh rằng : "Một xã hội trong đó không bảo đảm việc sử dụng các quyền
và không thực hiện sự phân quyền thì không có Hiến pháp"(1); hay tại sao Điều 13
của Tuyên ngôn về chủ quyền quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Xôviết Liên bang Nga lại khẳng định: "Việc phân công các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga như là một nhà nước pháp
quyền"(2) ?
Việc chưa biết gì nhiều về tư tưởng phân chia quyền lực, và việc không thể dùng
những kiến thức đã có của mình để giải thích cho mối liên hệ giữa tư tưởng này
với công cuộc xây dựng một xã hội tôn trọng pháp luật, một nhà nước pháp quyền
đã thực sự cuốn hút chúng em để tâm tìm hiểu và nghiên cứu.
Với sự giúp đỡ và chỉ dạy tận tình của các thầy cô giảng viên bộ môn Lý luận Nhà
nước và Pháp luật, khoa Luật Hành chính - Nhà nước, trường Đại học Luật Hà
Nội, chúng em đã rút ra được những bài học rất quý báu.
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân - một nhiệm vụ đã được Đảng ta đề ra trong các Văn
kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, và X, thì việc vận dụng những
hạt nhân tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong tổ chức và xây dựng bộ máy
nhà nước Việt Nam theo hướng dân chủ, tiến bộ, khoa học và nhân đạo là điều tất
yếu. Điều đó đã được thể hiện rõ trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng: " Nhà nước ta
là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp
quyềncủa dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp"(1).
Bởi vậy, với mong muốn là góp thêm một vài dòng vào bên cạnh những công trình


nghiên cứu đã có trước đây, để càng làm rõ hơn ý nghĩa và giá trị của tư tưởng
phân chia quyền lực, cũng như cách thức vận dụng những hạt nhân hợp lý của nó
trong công cuộc xây dựng Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, chúng em đã lựa
chọn và nghiên cứu đề tài " Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước và sự vận
dụng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam" .
Do nguồn tư liệu được tiếp cận còn hạn chế, lại phải đề cập tới những vấn đề có
sức bao trùm cao, có ý nghĩa sâu sắc như học thuyết phân chia quyền lực và mô
hình nhà nước pháp quyền nên bản báo cáo kết quả nghiên cứu này chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp của
các thầy cô để giúp chúng em hoàn thiện được kiến thức của mình. Chúng em xin
chân thành cảm ơn.
Nhân đây chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn tới Tiến sĩ Luật học Nguyễn Thị Hồi,
giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội, đã hướng dẫn và giúp đỡ chúng em rất
nhiều trong quá trình nghiên cứu.
Bàn về quyền lực, Jean - Jacques Rousseau đã viết lên những dòng thật đẹp trong
Chương 3, Quyển thứ nhất của tác phẩm kinh điển Bàn về khế ước xã hội hay là
các nguyên tắc của quyền chính trị ( Du Contrat social - ou principes du droit
politique ). Ông cho rằng quyền lực là sức mạnh có khả năng buộc người khác phải
nghe theo. Và quyền lực nhà nước cũng vậy.
Quyền lực nhà nước là sức mạnh mang tính ý chí của nhà nước, có tính bắt buộc
phải tuân theo đối với mọi cá nhân, tổ chức, lực lượng trong xã hội; được đảm
bảo thực hiện bởi một bộ máy chuyên nghiệp quản lý mọi mặt đời sống xã hội, bởi
các công cụ sức mạnh như nhà tù, toà án, cảnh sát, quân đội , và bởi hệ thống
các quy tắc xử sự chung thống nhất cho toàn xã hội. Quyền lực nhà nước về bản
chất là biểu hiện tập trung cho quyền lực chính trị của lực lượng chiếm ưu thế về
kinh tế trong xã hội.
Từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp biên soạn có nêu ra
những đặc điểm cơ bản của quyền lực nhà nước như sau:
"1) Luôn luôn gắn với sự tồn tại của chính quyền nhà nước; 2) Được phân chia
thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; 3) Do giai cấp, hoặc liên minh

các giai cấp thống trị xã hội tổ chức và thực hiện; 4) Được bảo đảm thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước." (1)
Trong một xã hội có giai cấp, quyền lực nhà nước là sức mạnh có tính bao trùm
rộng lớn nhất, quan trọng nhất, có khả năng khống chế và bắt buộc mọi cá nhân, tổ
chức, lực lượng trong xã hội phải phục tùng ý chí của mình.
_____________
(1) Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nôi, 2006, tr.652, từ mục " quyền lực nhà nước ".
Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cách thức thực hiện thứ
quyền lực này, nhưng tựu chung lại thì có hai quan điểm cơ bản, đó là tập
quyền và phân quyền.
Tập quyền là "nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước thể hiện việc tập trung
quyền lực vào tay một người hoặc một cơ quan"(1).
Trong chế độ quân chủ chuyên chế, mọi quyền lực nhà nước nằm hoàn toàn trong
tay nhà vua, ý chí của vua là luật pháp đối với thần dân, vua quản lý mọi công việc
hành chính của nhà nước, đồng thời vua cũng là vị quan toà tối cao. Các chức vụ
quan lại, đều do vua cắt cử hoặc bãi chức, chính là hệ thống những người có nhiệm
vụ thực thi các mệnh lệnh, chiếu chỉ của nhà vua.
Phân quyền, hiểu một cách đơn gian là trái với tập quyền, là nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước sao cho không một cá nhân hay cơ quan nào nắm trọn vẹn
quyền lực.
Nhà nước quân chủ nhị hợp là một dạng nhà nước phân quyền. Vua nắm toàn
quyền hành pháp với quyền hạn thành lập và điều hành Chính phủ, nhưng lại
không được tham gia vào công việc lập pháp, là quyền được Hiến pháp giao cho cơ
quan đại diện nhân dân (có thể là cơ quan đại diện đẳng cấp hoặc Nghị viện), cũng
như không nắm quyền tư pháp - thứ quyền lực đã thuộc về cơ quan Toà án.
Trong nhà nước quân chủ đại nghị thì vua chỉ còn là một chức danh tượng trưng,
hình thức, không có thực quyền trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của quyền lực
nhà nước. Nghị viện nắm quyền lập pháp, quyền hành pháp nằm trong tay Chính
phủ do Nghị viện bầu ra, và Toà án nắm quyền tư pháp.

Những nhà nước cộng hoà tư sản thể hiện hình thức phân quyền rõ rệt và triệt để
hơn nữa. Ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp được giao cho các cơ
quan khác nhau như Tổng thống, Nghị viện, Chính phủ và Toà án, với cơ cấu tổ
chức để các cơ quan này có thể giám sát, kiềm chế lẫn nhau, không cho phép cơ
quan nào có khả năng thâu tóm toàn bộ quyền lực.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho cơ quan đại diện cao nhất của họ, do họ trực
tiếp bầu ra qua phổ thông đầu phiếu. Ở Việt Nam, Điều 82 Hiến pháp 1980 và
Điều 83 Hiến pháp 1992 đều khẳng định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam"(1). Nhưng cơ quan đại diện của nhân dân này chỉ nắm giữ
quyền lập pháp, giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nước, và quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước; nó phải thành lập các cơ quan khác như nguyên
thủ quốc gia, chính phủ, toà án để chúng thực hiện những quyền lực khác của Nhà
nước.
_____________
(1) Từ điển Luật học, Sđd, tr.694, từ mục "tập quyền ".
Tập quyền là nguyên tắc tổ chức nhà nước không còn phổ biến trên thế giới ngày
nay, trong khi phân quyền đã trở thành nguyên tắc hàng đầu trong việc xây dựng
bộ máy nhà nước. Trong điều 16 Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách
mạng Pháp năm 1789 có nêu : "Một xã hội mà trong đó việc tuân thủ pháp luật
không được đảm bảo, hay sự chia tách các quyền không được rõ ràng, thì cũng
chẳng có một hiến pháp nào hết ". Điều 13 của Tuyên ngôn về chủ quyền quốc gia
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga do Đại hội đại biểu
nhân dân Liên bang Nga thông qua ngày 12/12/1989 khẳng định: "Việc phân công
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là nguyên tắc quan trọng nhất trong
hoạt động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga như là một
nhà nước pháp quyền"(3).
Nguyên tắc nền tảng cho cách thức xây dựng bộ máy nhà nước của đa số các quốc
gia trên thế giới ngày nay ấy được rút ra từ một học thuyết có tên gọi học thuyết

phân chia quyền lực, hay còn được gọi là học thuyết phân quyền.
Học thuyết phân chia quyền lực lần đầu tiên được nêu ra thành hệ thống lý luận
hoàn chỉnh vào năm 1689 bởi John Locke, trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về
Chính quyền hay Luận về Nguồn gốc, Phạm vi và Mục đích chân chính của Chính
quyền dân sự; và được phát triển hoàn thiện bởi Charles Louis Montesquieu với tác
phẩm De L'esprit des Lois (Bàn về tinh thần Pháp luật),xuất bản năm 1748 ở Paris.
Nhà nước đầu tiên trên thế giới mà trong hiến pháp công nhận thực hiện nguyên
tắc phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với
bản Hiến pháp năm 1787.
Nhưng đó không phải là lần đầu tiên con người tìm đến nguyên tắc này như một
cách thức hữu hiệu để xây dựng bộ máy nhà nước, chống lại sự lạm quyền của
những người cai trị. Mầm mống của tư tưởng phân quyền đã xuất hiện ngay từ
những xã hội sơ khai đầu tiên của nhân loại.
_____________
(1) Hiến pháp Việt Nam ( Năm 1946, 1959, 1980, 1992 ), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, năm 1995, tr.102 và tr.163
(2) Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, Approved by the National
Assembly of France, 1789, translate by Marquis de Lafayette and Thomas
Jefferson
(3) TS Trần Hậu Thành: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, năm 2005, tr.225 - 226
1. Tư tưởng phân chia quyền lực trong thời kỳ cổ đại.
Aristote ( 384 - 322 TCN ) - bộ óc bách khoa nhất của thế giới cổ đại, là người đầu
tiên đề cập tới việc phân chia quyền lực trong các nhà nước. Trong tác
phẩm Politics ( Chính trị ) được viết từ cơ sở nghiên cứu tổ chức bộ máy nhà nước
của 158 quốc gia, ông cho rằng để đảm bảo sự công bằng trong dân chúng, để có
được những đạo luật công bằng thì nhà nước phải được tổ chức có quy củ, để có sự
quy củ này thì mọi nhà nước đều phải có "ba bộ phận: bộ phận tư vấn pháp lý về
hoạt động của nhà nước, bộ phận thứ hai là các toà thị chính, bộ phận thứ ba là

các cơ quan tư pháp" và "chính sự khác nhau của chế độ nhà nước bắt nguồn từ
sự khác nhau của mỗi bộ phận này"(1).
Không dừng lại ở đó, ông còn trình bày về cách thức hình thành, chức năng, quyền
hạn và cơ cấu của từng bộ phận cụ thể.
Về bộ phận thứ nhất, hay còn được gọi là Hội nghị nhân dân, được ông chỉ các
chức năng là: "quyết định về vấn đề chiến tranh và hoà bình, lập ra hoặc phá vỡ
những liên mình, ban hành các đạo luật, những án tử hình, đi đày hoặc tịch thu tài
sản và yêu cầu các pháp quan giải thích về cách xử sự của họ trong thời gian giữ
chức vụ"(2). Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì Hội nghị nhân dân này nắm quyền lập
pháp và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia. Số lượng, cách
thức lựa chọn các thành viên và quyền hạn của Hội nghị công dân có liên quan tới
hình thức nhà nước: ở chế độ dân chủ mọi công dân đều được tham gia Hội nghị
nhân dân và có quyền quyết định mọi vấn đề trọng yếu của đất nước; chế độ đầu sỏ
chính trị thì chỉ một số công dân đặc biệt mới được tham gia quyết định các vấn đề
nhà nước; còn trong chế độ quý tộc thì một bộ phận quyết định vấn đề này, trong
khi một bộ phận khác quyết định những vấn đề khác.
_____________
(1) TS Trần Hậu Thành: Sđd, tr. 34
(2) TS Nguyễn Thị Hồi: Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức
bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr.34
Về các toà thị chính, mà cụ thể là về các pháp quan, Aristote cho rằng cần có nhiều
pháp quan để chăm lo cho từng việc cụ thể trong nhà nước: quản lý thị trường,
quản lý đường xá, nhà cửa, quản lý đất đai
Nhưng cần có một pháp quan cao nhất, có quyền chỉ huy toàn bộ nhân dân với tư
cách như là người đứng đầu nhà nước. Theo ông, trong chế độ dân chủ, các pháp
quan được chọn ra từ trong toàn thể nhân dân; trong chế độ đầu sỏ chính trị thì
được chọn ra từ một đẳng cấp đặc biệt; còn trong chế độ quý tộc thì một số pháp
quan được chọn ra từ nhân dân, và một số khác được chọn ra từ những đẳng cấp
trên trong xã hội.
Về cơ quan tư pháp toà án, Aristote chia ra rất nhiều loại khác nhau, tuỳ theo tính

chất và đặc điểm các vụ việc mà toà án đó chuyên giải quyết. Về cách thức lựa
chọn các thẩm phán, ông cũng chỉ ra nhiều dạng tuỳ theo hình thức nhà nước: việc
mọi công dân đều có thể trở thành thẩm phán là đặc điểm của nhà nước dân chủ;
nếu chỉ có một số công dân thuộc những đẳng cấp nhất định mới có thể trở thành
thẩm phán thì đó là chế độ đầu sỏ chính trị; còn tuỳ theo từng vụ việc cụ thể mà
chọn thẩm phán trong nhân dân hay trong những người đặc biệt là biểu hiện của
chế độ quý tộc.
Dù là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập tới vấn đề phân chia quyền
lực, nhưng tư tưởng này của Aristote vẫn chưa chứa đựng quan điểm phân chia
quyền lực theo tinh thần của thuyết phân chia quyền lực hiện đại, và ông mới chỉ
dừng lại ở mô tả bộ máy nhà nước mà chưa đi sâu, chỉ ra mối liên hệ giữa các cơ
quan nhà nước, cũng như chưa chỉ được ra nguyên nhân phải chia quyền lực nhà
nước thành các nhánh quyền lực như vậy.
Polybe và Cicéron là những người đã thể hiện tư tưởng phân chia quyền lực qua
quan điểm về sự cai trị hỗn hợp.
Polybe ( khoảng 200 -120 TCN ) cho rằng một nhà nước lý tưởng là nhà nước hỗn
hợp của ba chính quyền - ba thế lực chính trị: chính quyền quốc vương, chính
quyền quý tộc và chính quyền nhân dân, mà theo quan điểm ngày nay đó chính là
ba thứ quyền lực: quyền hành pháp trong tay vua, quyền lập pháp trong tay viện
nguyên lão của giới quý tộc và quyền tư pháp thuộc về sự phán xét của dư luận
nhân dân. Polybe chỉ ra nhà nước tổng thể thực hiện quyền lực bằng cách nào, và
các chính quyền khác nhau trong nhà nước ấy bằng cách thức nào có thể cản trở,
kiềm chế nhau, hoặc ngược lại, bảo vệ và ủng hộ nhau. Khi một thế lực muốn vượt
quyền hạn của mình và gây phương hại tới lợi ích của các thế lực khác thì sẽ đụng
độ sự phản đối thích đáng từ các thế lực này, và kết quả là sẽ đạt đến một trật tự
đúng đắn, đảm bảo cho sự ổn định và vững mạnh của nhà nước tổng thể.
Cicéron ( 106 - 43 TCN ) - nhà lập pháp nổi tiếng của Roma thời kỳ Cộng hoà.
Trong tác phẩm Đối thoại, ông viết: " một phần quyền lực của nhà nước phải
được phân chia và trao cho uy thế của những người chiếm hàng đầu, còn một số
công việc phải dành cho nhân dân xét đoán và giải quyết "(1). Cicéron đã nghiên

cứu nhiều hình thức của nhà nước hỗn hợp, và cuối cùng ủng hộ cho hình thức nhà
nước có sự cân bằng giữa các phần quyền lực: "phân chia quyền lực: nghĩa vụ và
quyền hạn công bằng"(2).
Như vậy, ngay từ thời cổ đại, tư tưởng phân chia quyền lực đã hình thành với
nhiều quan điểm, trường phái khác nhau, và trở thành nền tảng cho sự phát triển
của tư tưởng trong thời kỳ cách mạng tư sản và giai đoạn hiện nay.
Khi nói đến tư tưởng phân chia quyền lực thì không thể không nhắc đến biểu hiện
cụ thể của nó trong các bộ máy nhà nước, mà tiêu biểu nhất trong thời kỳ cổ đại
chính là nhà nước Athène ở Hy Lạp và nhà nước Roma cộng hòa. Từ cơ sở nghiên
cứu sự tổ chức của các nhà nước này mà các học giả cổ đại đã đưa ra những quan
điểm, tư tưởng như đã nêu trên. Ta hãy thử nhìn qua bộ máy nhà nước cũng như cơ
cấu phân chia quyền lực ở các thành bang này để có thể hiểu rõ hơn tư tưởng phân
quyền trong thời kỳ cổ đại.
_____________
(1) TS Trần Hậu Thành: Sđd, tr.37
(2) TS Trần Hậu Thành: Sđd, tr.38
Bộ máy nhà nước Athène:
Athène là thành bang nằm ở vùng đồng bằng Attic, miền trung Hy Lạp.
Nhà nước Athène có chính thể Cộng hoà dân chủ chủ nô, là kết quả của những
cuộc cải cách chính trị, đã biến liên minh các bộ lạc của thời mạt kỳ xã hội thị tộc
thành đỉnh cao của nền chuyên chính dân chủ thời kỳ cổ đại.
Theo truyền thuyết, Thésée là người đặt nền móng cho sự ra đời của nhà nước
Athène. Ông chia lãnh thổ miền đồng bằng Attic thành 48 địa khu, và chia dân tự
do Athène thành 3 tầng lớp: quý tộc, nông dân và thợ thủ công. Dấu vết của các bộ
lạc cũ trong liên minh đã bị xoá nhoà. Đại hội nhân dân của các bộ lạc cũ vẫn còn
tồn tại, nhưng quyền lực thực tế đã được chuyển sang một tổ chức khác - Viện
nguyên lão - gồm những đại biểu của tầng lớp quý tộc giàu có. Viện nguyên lão có
toàn quyền trong các lĩnh vực lập pháp, tư pháp, giám sát và quyết định mọi vấn đề
hệ trọng của đất nước. Chức vụ thủ lĩnh quân sự của các bộ lạc ( basileus ) được
thay thế bằng chức vụ quan chấp chính, được cử ra từ tầng lớp quý tộc. Athène trở

thành một thành bang theo chế độ cộng hoà quý tộc chủ nô.
Trước đà phát triển của nền kinh tế công thương, năm 594 TCN, Solon - đang là
chấp chính quan của Athène, đã tiến hành một cuộc cải cách mang tính dân chủ
tiến bộ. Quan trọng nhất trong những cải cách về tổ chức bộ máy nhà nước của ông
là thành lập toà án nhân dân có nhiều bồi thẩm, cùng thảo luận xét xử để tránh sự
tuỳ tiện và tăng cường tính dân chủ.
Tiếp theo Solon là Clisthenes, và cuối cùng là hai thầy trò Ephialtes - Pericles đã
tiến hành những cuộc cải cách chính trị sâu rộng, từng bước dân chủ hoá bộ máy
nhà nước Athène, cũng như hạn chế quyền lực của Viện nguyên lão, đưa Viện
nguyên lão từ cơ quan nắm giữ mọi quyền lực nhà nước thành tổ chức chỉ có
quyền trong các hoạt động tôn giáo.
Cải cách của Pericles đã xây dựng bộ máy nhà nước Athène một cách hoàn thiện
nhất, bao gồm các cơ quan chủ yếu: Hội nghị công dân, Hội đồng 500 người, Toà
án nhân dân và Hội đồng 10 tướng lĩnh.
Hội nghị công dân ( người Hy Lạp gọi là Eccơlêdia ) là cơ quan quyền lực cao nhất
của thành bang, có quyền thảo luận và biểu quyết các vấn đề hệ trọng của đất nước,
thông qua hay phủ quyết các dự luật, chọn cử những viên chức nhà nước.
Eccơlêdia là đại hội của tất cả các công dân nam Athène tuổi từ 18 trở lên, họp
hàng tháng, và ít nhất là 10 lần trong một năm. Trong hội nghị, mọi công dân đều
có quyền đưa ra một dự án luật hoặc đề nghị bãi bỏ một điều luật hiện hành.
Hội nghị công dân bầu ra Hội đồng 500 người ( gọi là Bulê ) - là cơ quan hành
pháp của nhà nước. Bulê có nhiệm vụ thay mặt nhân dân thực hiện các công việc
hành chính của nhà nước trong suốt một năm. Ngoài ra Bulê còn có nhiệm vụ kiểm
tra tư cách công dân cũng như tư cách của các viên chức trong bộ máy nhà nước.
Hội đồng được chia thành 10 uỷ ban - Pơritani. Mỗi Pơritani có chức năng thường
trực thay mặt Bulê giải quyết các công việc hành chính hàng ngày trong nhiệm kỳ
1/10 năm ( khoảng từ 36 đến 39 ngày ).
Toà án nhân dân là cơ quan tư pháp của nhà nước có cơ cấu gồm 6000 thành viên,
do Hội nghị công dân bầu ra, vừa làm thẩm phán, vừa làm bồi thẩm trong nhiệm
kỳ một năm. Khi cần xét xử một vụ án cụ thể thì tiến hành bốc thăm trong số 6000

người này để chọn ra một số thẩm phán.
Hội đồng 10 tướng lĩnh có thành viên là các quý tộc giàu có, ban đầu chỉ nắm
quyền chỉ huy quân sự, nhưng sau dần trở thành cơ quan hành chính cao nhất của
nhà nước. Hội đồng được Hội nghị công dân bầu ra theo hình thức biểu quyết chứ
không phải là bỏ phiếu kín như việc bầu cử các cơ quan nhà nước khác, và hoạt
động của Hội đồng 10 tướng lĩnh phải chịu sự giám sát của Hội đồng 500 người.
Trong mỗi kỳ họp của Hội nghị công dân, đều có thủ tục biểu quyết chấp thuận
hay khiển trách các viên chức nhà nước. Nếu bị khiển trách, viên chức ấy sẽ bị bãi
miễn chức vụ. Ngoài ra, tại phiên họp cuối cùng hàng năm, các viên chức phải
tường trình trước một uỷ ban đặc biệt của Hội nghị công dân về số tiền công quỹ
do mình thu giữ và chi tiêu. Đây chính là hình thức đầu tiên của hoạt động kiểm
tra, giám sát của cơ quan quyền lực tối cao - chính là nhân dân, đối với hoạt động
của các viên chức trong bộ máy nhà nước, với các cơ quan nhà nước khác.
Bộ máy nhà nước Roma thời kỳ Cộng hoà:
Theo truyền thuyết, thành Roma được vua Romulux xây dựng vào năm 753 TCN
trên bờ sông Tibes, miền Trung bán đảo Italia.
Lịch sử Roma có thể chia làm ba thời kỳ: thời kỳ Vương chính ( thế kỷ 7 TCN đến
thế thế kỷ 4 TCN ), thời kỳ Cộng hoà (từ thế kỷ 4 TCN đến thế kỷ 1 ), và thời kỳ
Đế chế ( từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 5 ). Nhưng ở đây ta chỉ xem xét bộ máy nhà nước
dưới thời Cộng hoà.
Dưới thời kỳ Cộng hoà, bộ máy nhà nước Roma bao gồm các bộ phận chủ yếu sau:
Đại hội nhân dân Centuries, Đại hội bình dân Plebs, Viện nguyên lão, hai quan
chấp chính, và hội đồng các quan bảo dân. Bộ máy này thể hiện khá rõ tư tưởng
phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước.
Đại hội nhân dân Centuries, Đại hội bình dân Plebs và Viện nguyên lão là các cơ
quan nắm quyền lập pháp của nhà nước.
Đại hội nhân dân Centuries họp mỗi năm hai lần tại quảng trường Thần Chiến
tranh Mars, để quyết định những vấn đề cơ bản của nhà nước như: chiến tranh, hoà
bình, và bầu chọn các quan chức nhà nước. Hai chấp chính quan ( consul ) cũng do
Đại hội bầu ra với nhiệm kỳ 1 năm.

Đại hội bình dân Plebs ra đời muộn hơn các cơ quan khác của nhà nước Roma, là
kết quả của cuộc đấu tranh giữa các cư dân mới tới ( Plebs ) đòi hỏi phải có tiếng
nói của mình bên cạnh Đại hội nhân dân Centuries của cư dân Roma bản địa. Do
người Plebs chiếm tỉ lệ cao trong số cư dân Roma nên họ tự coi đại hội của mình là
đại hội của toàn thể cư dân Roma, những quyết nghị của đại hội này có hiệu lực
như pháp luật với toàn thể công dân Roma, nhưng Đại hội bình dân Plebs chỉ quyết
định các vấn đề liên quan tới các bộ lạc hay liên quan tới các đơn vị hành chính
lãnh thổ.
Viện nguyên lão ( Senate ) bao gồm 300 thành viên, là các quý tộc giàu có, hoạt
động theo nguyên tắc: Đại hội Centuries là cơ quan quyền lực tối cao, nhưng mọi
quyết định đều phải thông qua sự phê chuẩn của Viện nguyên lão; các quan chức
của bộ máy nhà nước cũng chỉ được bầu chọn từ những nghị viên của Viện, bởi
vậy, thực tế Viện nguyên lão chính là cơ quan đại diện thường trực của Đại hội
nhân dân Centuries để quyết định những vấn đề thường xuyên của nhà nước như:
hành chính, ngân sách, ngoại giao, lễ nghi tôn giáo
Hai chấp chính quan do Đại hội Centuries bầu ra nắm trong tay quyền hành pháp,
ngoài ra, còn có một số quyền lập pháp nhất định. Trong nhiệm kỳ 1 năm, nếu xảy
ra trường hợp Tổ quốc lâm nguy thì một trong hai chấp chính quan sẽ được chọn
cử làm Dictato - hay Độc tài, trong thời hạn 6 tháng. Trong thời gian này, Dictato
nắm giữ quyền hành tối cao về mọi vấn đề.
Hội đồng các quan bảo dân lúc đầu chỉ gồm 2 người, rồi là 4, 6 và 10 người, để
bảo vệ, bênh vực người dân trước những quyết định đi ngược lại lợi ích nhân dân
của Viện nguyên lão hay của các quan chấp chính, giám sát và có ý kiến đối với
những dự luật và việc làm của chính quyền Roma, ngoài ra còn giải quyết các vụ
án dân sự. Hội đồng này tương ứng với cơ quan tư pháp.
Theo thoả thuận giữa Viện nguyên lão với nhân dân, quyền lực và tư cách của các
quan bảo dân ( tribun ) là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nằm bên cạnh các cơ
quan của nhà nước Cộng hoà, các quan bảo dân có quyền phủ quyết đối với mọi dự
luật hay đề án chính sách của Viện nguyên lão nếu xét thấy có hại cho nhân dân.
Quan bảo dân cũng có quyền tham dự và theo dõi các phiên họp của của Viện

nguyên lão để có thể can thiệp trực tiếp hay phủ quyết tại chỗ các quyết nghị bất
lợi cho người dân. Tuy nhiên, quyền lực của các quan bảo dân ở Roma không phải
là vô biên. Theo thoả thuận, có một số giới hạn đối với quyền phủ quyết của quan
bảo dân như: quan bảo dân không được can dự vào chuyện quân sự, và quyền lực
của quan bảo dân chỉ có hiệu lực trong thành Roma. Trong trường hợp Tổ quốc
lâm nguy, và một trong hai quan chấp chính đã trở thành Độc tài thì quyền hành
của quan bảo dân tạm thời bị đình chỉ.
Như trên, ta đã thấy tổ chức nhà nước ở Athène và Roma thời kỳ Cộng hoà là một
hình thức phân quyền khá triệt để, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp tách
biệt nhau trong cơ cấu tổ chức và hoạt động; giữa các cơ quan này đã có sự kiểm
tra, giám sát, kiềm chế và đối trọng nhau một cách hợp lý. Bởi vậy, nhà nước
Athène và nhà nước Cộng hoà Roma là biểu hiện cao nhất của tư tưởng phân chia
quyền lực nhà nước trong thời kỳ cổ đại.
2. Học thuyết phân chia quyền lực trong thời kỳ cách mạng Tư sản
Trong gần 1500 năm của "đêm trường Trung cổ", tất cả các nhà nước ở Châu Âu
đều theo chính thể quân chủ chuyên chế, và không hề có sự tiếp nối tư tưởng phân
chia quyền lực từ thời kỳ cổ đại. Nhưng sự chuyên quyền của các vua, và sự khủng
hoảng của nhà nước phong kiến, cũng như sự xuất hiện và phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm thay đổi tất cả.
Bối cảnh chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản đã tạo ra nhiều quan
điểm mới về nhà nước, cũng như về vai trò của nó trong đời sống xã hội. Vị trí
trung tâm của các quan điểm này là vấn đề tổ chức và hoạt động của nhà nước: làm
sao để loại trừ sự độc đoán quyền lực trong tay một người hay một nhóm người,
làm sao để bảo vệ được quyền tự do, bình đẳng của mọi cá nhân trong xã hội bằng
pháp luật ? Và các học giả trong thời kỳ này đã tìm được câu trả lời qua một tư
tưởng cổ xưa: phân chia quyền lực nhà nước.
John Locke ( 1632 - 1704 ):
Phần hai của Hai khảo luận về chính quyền ( Two Treatises of
Gorvernment ), Khảo luận thứ hai về chính quyền hay Luận về Nguồn gốc, Phạm
vi và Mục đích chân chính của chính quyền dân sự - một trong những tác phẩm vĩ

đại nhất của nền triết học chính trị và chính trị học nhân loại, chính là nơi Locke
trực tiếp đưa ra học thuyết của mình về nhà nước - một học thuyết đan xen các tư
tưởng pháp quyền tự nhiên, khế ước xã hội và phân chia quyền lực.
Trong những chương đầu của tác phẩm, Locke giải thích cho sự ra đời của nhà
nước là từ một bản khế ước, khi những con người ở trạng thái tự nhiên chấp thuận
kết hợp bản thân mình vào cộng đồng quốc gia, và nhường những quyền tự nhiên
của mình cho nhà nước, nhằm mong muốn có được sự bảo vệ tài sản và bản thân
mình một cách ổn định. Từ đó, ông nêu cao yêu cầu nhà nước và pháp luật thực
định phải tôn trọng những quyền tự nhiên của con người, như là sự thực hiện đúng
những cam kết trong khế ước.
Về quyền lực nhà nước, Locke cho rằng đó là "quyền làm luật có án phạt tử hình,
và do đó, bao hàm tất cả những hình phạt thấp hơn, để quy định và bảo toàn sở
hữu, quy định và bảo toàn việc sử dụng vũ lực của cộng đồng khi thực thi các luật
này, trong việc phòng vệ của cộng đồng quốc gia trước những phương hại gây ra
từ nước ngoài; và tất cả những việc như thế chỉ duy nhất là vì lợi ích công"(1).
Từ quan điểm trên, có thể thấy Locke đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập
pháp. Ông nhấn mạnh: "chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp,
mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là, những cái phụ thuộc vào nó"(2).
Hơn thế, theo ông, "tuỳ việc quyền lực lập pháp được đặt ở cương vị nào mà hình
thức của cộng đồng quốc gia là như thế đó"(3). Nếu như quyền lực lập pháp nằm
trong tay đa số cộng đồng, và việc thi hành các đạo luật này là bởi các quan chức
do chính họ bổ nhiệm thì đó là một nền dân chủ hoàn hảo. Nếu như quyền lực này
nằm trong tay một số ít người được lựa chọn và những người thừa kế của họ thì đó
là chính thể đầu sỏ. Còn nếu như quyền lực này được giao trọn cho một người, thì
đó là một nền quân chủ. Khi quyền lực được dành cho ông ta và những người thừa
kế của ông ta, đó là nền quân chủ cha truyền con nối. Còn khi nó được dành cho
ông ta trọn đời nhưng vào lúc ông ta chết đi, quyền đề cử một người kế vị trở về
với số đông nhân dân, thì đó là nền quân chủ tuyển cử. Và từ những chính thể này
mà cộng đồng quốc gia có thể tạo sự kết hợp hoặc hỗn hợp giữa các hình thức
chính quyền, theo như cách họ cho là tốt nhất.

Bởi vậy, Locke cho rằng "Luật xác thực đầu tiên và làm nền tảng của mọi cộng
đồng quốc gia, là việc thiết lập cơ quan quyền lực lập pháp"(4). Cơ quan lập pháp
không những là quyền lực tối cao của cộng đồng quốc gia, mà còn là quyền lực
thiêng liêng và không thể hoán đổi một khi cộng đồng đã nhất trí đặt nó vào cương
vị đó. Cơ quan lập pháp là cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp luật, bởi nếu
không có sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp - cơ quan đại diện cho cộng đồng
toàn xã hội, thì dù đó là sắc lệnh của bất cứ ai, được bất cứ quyền lực nào hậu
thuẫn đi chăng nữa thì cũng không thể có được điều tuyệt đối cần thiết đối với
pháp luật - đó chính là sự chấp thuận của xã hội. Đồng thời, không một thành viên
nào của cộng đồng có thể không tuân thủ hay đi xa hơn những luật mà cơ quan lập
pháp đã ban hành, khi nó vẫn hoạt động phù hợp với sự uỷ thác của xã hội, dù cá
nhân đó có được sự ủng hộ từ một quyền lực ngoại quốc hay của bất cứ một quyền
lực nào khác trong nước.
Bên cạnh những quyền hạn ấy, Locke cũng vạch ra những ranh giới mà cơ quan
lập pháp không được phép vượt qua.
_____________
(1) John Locke: Khảo luận thứ hai về Chính quyền - Chính quyền dân sự, Nxb Tri
thức, Hà Nội, năm 2007
(2) John Locke: Sđd, tr.203
(3) John Locke: Sđd, tr.180
(4) John Locke: Sđd, tr.183
Thứ nhất, nó không thể là quyền lực độc đoán, chuyên chế đặt trên cuộc sống và
vận mệnh nhân dân. Con người trong trạng thái tự nhiên không thể xâm hại đến
tính mạng và tài sản của người khác, nếu như đó không phải là sự trừng phạt thích
đáng với những gì người đó đã gây ra cho mình, vậy nên cơ quan lập pháp - thứ
quyền lực có được từ tổng số tất cả những quyền tự nhiên được uỷ thác từ các cá
nhân trong cộng đồng, cũng không thể có quyền huỷ hoại sinh mạng của bất kỳ ai
trong xã hội một cách vô cớ. Không một luật lệ nào được coi là tốt hay là có căn cứ
nếu chống lạicái luật tự nhiên căn bản là bảo toàn loài người. Không một luật lệ
nào được coi là tốt hay là có căn cứ nếu không được thiết lập nhằm mục đích tối

thượng là vì lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, hay thực chất là nguyên tắc để ngăn chặn sự độc đoán, chuyên chế của cơ
quan lập pháp, là yêu cầu phải có những đạo luật thường trực đã ban hành và
những quan toà có hiểu biết được trao thẩm quyền khi đưa ra những quyết định có
liên quan tới các quyền của mỗi thành viên trong xã hội. Chỉ khi có những luật
được minh định, những quy tắc thường trực để ràng buộc thì con người mới biết
đâu là quyền và đâu là sở hữu của mình; "còn nếu không như thế thì hoà bình, sự
yên ổn và sở hữu của họ vẫn chỉ là trong cùng một trạng thái bất định như đã có ở
trạng thái tự nhiên"(1).
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr.189
Thứ ba, cơ quan lập pháp không thể ban hành những quyết định cho phép lấy toàn
bộ hay một phần tài sản của bất kỳ ai mà không có sự chấp thuận của anh ta, vì bảo
toàn sở hữu là mục đích chân chính và hàng đầu của chính quyền, và cũng là
nguyên nhân con người đồng ý từ bỏ trạng thái tự nhiên mà gia nhập vào cộng
đồng quốc gia, nên vi phạm vào nguyên tắc này nghĩa là nhà nước đã vi phạm vào
khế ước đầu tiên tạo thành xã hội. Nếu không có nguyên tắc này thì cũng có nghĩa
là không ai trong xã hội có sở hữu, bởi có thể bị người khác hay bởi chính chính
quyền tước mất. Cụ thể, Locke nhấn mạnh rằng: "nếu một người bất kỳ nào đòi hỏi
một quyền lực để đặt ra và thu thuế đối với nhân dân bằng thẩm quyền riêng của
ông ta mà không có sự chấp thuận của nhân dân, thì ông ta đã xâm lấn vào luật
căn bản của sở hữu và làm biến chất mục đích của chính quyền"(1).
Thứ tư, cơ quan lập pháp không thể chuyển giao quyền làm luật vào tay bất kỳ ai
khác, bởi theo khế ước, các cá nhân trong xã hội đã trao quyền lực vào cơ quan lập
pháp với nhiệm vụ "để làm luật mà không phải là để làm nên các nhà lập pháp, do
đó, cơ quan lập pháp không có quyền gì để chuyển giao thẩm quyền làm luật của
họ và đặt nó vào tay người khác"(2).
Theo Locke, luật pháp được làm nên trong thời gian ngắn nhưng có sức mạnh bất
biến và dài lâu, nên cơ quan lập pháp không phải lúc nào cũng cần hiện diện. Hơn
thế, sự cám dỗ của quyền lực rất dễ khiến những nhà làm luật có tham vọng nắm

luôn quyền thi hành nó, để rồi đặt lợi ích và bản thân mình lên trên luật pháp, và đi
trái lại mục đích của xã hội và chính quyền. Do đó, ông đưa ra mô hình của cơ
quan lập pháp tốt nhất là tập hợp của những người khác nhau trong một thời gian
nhất định để làm luật, và khi đã hoàn thành công việc, họ sẽ lại tách ra, trở lại là
một thành viên của cộng đồng và chịu sự chi phối của những luật mà mình làm ra,
như thế mới đảm bảo cho việc làm luật của họ là vì lợi ích chung của toàn cộng
đồng.
Trong một cộng đồng quốc gia, quyền lực lập pháp là thứ quyền lực đầu tiên và
quan trọng nhất, nhưng những nhà lập pháp phải luôn ghi nhớ rằng quyền lực của
họ là do nhân dân uỷ thác, và sự uỷ thác đó không phải là nhân dân trao tất cả các
quyền của mình cho cơ quan lập pháp, mà có một thứ quyền lực tối cao vẫn luôn
luôn được lưu giữ lại trong cộng đồng, đó là quyền tự bảo toàn. Đó là quyền"cứu
lấy chính mình trước cố gắng hay mưu đồ của bất kỳ ai, cho dù là các nhà lập
pháp của họ, vào bất kỳ lúc nào - khi mà những người này trở nên quá ngu xuẩn
hay quá độc ác"(3), nhằm chống lại các quyền tự do và sở hữu của con người. Khi
ấy, quyền lực phải "được chuyển giao về tay những người đã trao nó ra, để họ lại
đặt nó vào nơi mà họ nghĩ là sẽ tốt nhất cho sự an toàn và an ninh của họ"(1).
Trong chương XII: Về cơ quan lập pháp, hành pháp và quyền liên hiệp của cộng
đồng quốc gia, Locke chỉ ra trong quyền lực tối cao của cộng đồng xã hội, bên
cạnh quyền lập pháp còn có quyền hành pháp và quyền liên hiệp.
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr. 195
(2) John Locke: Sđd, tr. 196
(3) John Locke: Sđd, tr.204
Bởi nếu như cơ quan lập pháp không cần, và cũng không nên hiện diện thường
xuyên thì việc thực hiện những đạo luật đã được làm ra lại luôn cần tồn tại một
cách thường trực, đó chính là quyền hành pháp. Và như đã trình bày ở trên, nếu
quyền lập pháp và hành pháp cùng nằm trong tay một cá nhân hay một nhóm
người nào đó thì có thể họ sẽ miễn cho bản thân việc chấp hành các đạo luật, hay
khiến cho cả quá trình làm luật và thực hiện luật đều chỉ vì lợi ích của bản thân

mình, nên hai quyền lực này cần được trao vào những bàn tay khác nhau.
Theo Locke, nếu như trong một nhà nước mà cơ quan lập pháp không tồn tại
thường xuyên, một người nào đó nắm toàn quyền hành pháp và cũng có quyền
tham dự vào cơ quan lập pháp thì con người này, theo một nghĩa có thể chấp nhận
được, chính là quyền lực tối cao, bởi lẽ ông ta nắm toàn quyền hành pháp, và bởi lẽ
không có một cơ quan lập pháp cấp trên nào có thể thông qua một đạo luật nếu
không có sự đồng ý của ông ta. Từ bản thân ông ta xuất phát ra thứ quyền cai trị
của tất cả các quan cấp dưới, và các viên quan này cũng như toàn thể dân chúng
phải tuyệt đối trung thành với ông ta, phải tuân thủ mọi ý chí của ông ta. Nhưng sự
trung thành và sự tuân thủ này chỉ là một sự chấp hành luật pháp không hơn không
kém. Hành động của ông ta là dựa theo ý chí xã hội, là thứ đã được minh định
trong pháp luật, bởi vậy, ông ta không có ý chí nào khác, quyền lực nào khác ngoài
ý chí và quyền lực của luật pháp. Nếu ông ta không thực hiện, hoặc thực hiện trái
lại nhiệm vụ mà cơ quan lập pháp đã uỷ nhiệm cho, nghĩa là ông ta đã tự giáng
chức mình, trở thành một thành viên của cộng đồng như mọi thành viên khác, và
không còn bất cứ một quyền lực nào hơn những thành viên còn lại để buộc họ phải
tuân thủ theo ý chí của mình, khi mà bản thân họ chỉ duy nhất phải tuân thủ theo ý
chí chung của pháp luật.
Những cá nhân nắm quyền hành pháp phải luôn nhớ rằng quyền lực của mình là do
cơ quan lập pháp uỷ thác, để thực hiện cũng như giám sát sự thực hiện các đạo luật
đã được ban hành. Và do quyền lực đó được cơ quan lập pháp trao cho, nên cơ
quan lập pháp cũng có quyền thu hồi nó lại khi nhận thấy sự yếu kém hay sự đi
ngược lại luật pháp của quyền hành pháp, và trao lại cho một cá nhân hay tập thể
khác thích hợp hơn nắm giữ.
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr.203
Còn một thứ quyền lực khác nữa của chính quyền được Locke đưa ra, đó là quyền
liên hiệp, dù bản thân ông tự nhận là không quan tâm tới việc đặt tên gọi cho nó.
Ông cho rằng thứ quyền lực này "bao hàm quyền lực về chiến tranh và hoà bình,
tạo liên minh và lập đồng minh, cũng như tất cả mọi giao kết khác, với mọi cá

nhân và cộng đồng, bên ngoài cộng đồng quốc gia"(1). Giải thích cho nguồn gốc
của quyền liên hiệp, Locke chỉ ra rằng trong trạng thái tự nhiên con người có
những mối liên hệ với các cá nhân khác, bởi vậy, khi đã liên kết lại với nhau thành
xã hội, thì cái cơ thể chính trị mới này - tức là cộng đồng quốc gia, cũng phải có
những mối liên hệ với các cá nhân hoặc với những cơ thể chính trị - cộng đồng
quốc gia khác.
Theo Locke, quyền liên hiệp có tầm quan trọng to lớn đối với cộng đồng quốc gia,
hơn thế, lại rất khó để có thể điều chỉnh hoạt động của nó theo những luật xác thực
đã được cơ quan lập pháp thông qua, do những biến đổi thường xuyên trong hành
động, ý đồ và quyền lợi của những người nước ngoài, nên cần phải trao nó vào tay
một cá nhân cụ thể thông thái và cẩn trọng.
Về quyền liên hiệp này, nhiều nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng nó không có ý
nghĩa thực tiễn trong bộ máy nhà nước. Nhưng chúng em không nghĩ như thế, nhất
là xét trong hoàn cảnh thế giới hiện nay: khi xu thế toàn cầu hoá, hợp tác quốc tế
đang ngày càng được tăng cường, ranh giới giữa các quốc gia ngày càng bị xoá
nhoà, và sau các cuộc chiến tranh "bất hợp pháp" của Mỹ ở Afghanistan năm 2001,
ở Iraq năm 2003 thì theo chúng em, việc quan tâm tới quyền liên hiệp đang là
một yêu cầu quan trọng của tổ chức bộ máy nhà nước trong thời đại ngày nay.
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr.201
Theo Locke, dù quyền hành pháp và quyền liên hiệp rất khác nhau, vì một thứ là
sự thực thi các đạo luật đã có ở bên trong cộng đồng quốc gia đối với những thành
viên của nó, còn một thứ là sự bảo đảm an ninh và lợi ích của các cá nhân cũng
như toàn thể cộng đồng trong mối liên quan bên ngoài với các cá nhân và cộng
đồng khác, nhưng thực chất chúng luôn thống nhất với nhau. Ông viết: "quyền
hành pháp và quyền liên hiệp của mỗi cộng đồng thực sự phân biệt với nhau,
những chúng khó mà bị chia tách và cùng lúc
đặt vào tay của những cá nhân khác nhau. Vì cả hai quyền lực này đều cần đến vũ
lực của xã hội cho việc thực thi chúng, nên hầu như phi thực tế nếu đặt vũ lực của
cộng đồng quốc gia vào những bàn tay riêng biệt và không phụ thuộc nhau, hay

đối với cơ quan hành pháp và quyền lực liên hiệp phải được đặt vào những cá
nhân có thể hành động tách rời nhau, và theo đó mà sức mạnh cưỡng bức của dân
chúng sẽ được đặt dưới những mệnh lệnh khác nhau, là điều có khuynh hướng gây
ra sự hỗn loạn và phá hoại, vào lúc này hay lúc khác"(1).
Quay lại với cơ quan lập pháp, về thời điểm nhóm họp và hoạt động của cơ quan
quyền lực tối cao này, Locke đưa ra hai phương án: thứ nhất là thời điểm này được
ấn định rõ ràng trong hiến pháp gốc, và cơ quan hành pháp chỉ phải điều hành cụ
thể việc bầu chọn và hội họp của cơ quan lập pháp theo đúng quy định; thứ hai là
cơ quan hành pháp, bằng sự cân nhắc thận trọng của mình, tiến hành tuyển cử hay
triệu tập cơ quan lập pháp, khi nhận thấy đòi hỏi phải tu chỉnh, sửa đổi những luật
cũ hay ra những luật mới, hoặc khi nhận thấy những hiểm nguy đang đe doạ nhân
dân.
Việc trao quyền triệu tập hay giải tán cơ quan lập pháp cho cơ quan hành pháp
không phải là trao một vị thế cao hơn cho nó. Đó đơn giản chỉ là niềm tin được uỷ
thác cho nó, vì lợi ích cao nhất của nhân dân. Có thể cần ban hành ngay một điều
luật mới, có thể cần sửa đổi hay bãi bỏ ngay một điều luật cũ, có thể cần qiải quyết
một vấn đề khẩn cấp của cộng đồng, cũng có khi là không có việc gì cần tới cơ
quan lập pháp , mà thời gian hội họp của cơ quan lập pháp được ghi nhận trong
hiến pháp là không hợp lý ở hoàn cảnh đó, bởi vậy, một cá nhân luôn luôn hiện
diện, có nhiệm vụ canh giữ cho lợi ích công, được nắm quyền triệu tập hay giải tán
cơ quan lập pháp là phương cách tốt nhất có thể tìm được cho khiếm khuyết này.
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr. 202
Một câu hỏi được đặt ra là phải làm sao khi cơ quan hành pháp, với vũ lực của toàn
thể cộng đồng trong tay, sử dụng nó để cản trở việc hội họp và hoạt động của cơ
quan lập pháp ? Locke khẳng định rằng hành động đó của cơ quan hành pháp là
trái với thẩm quyền và nhiệm vụ đã được uỷ thác cho nó, và hơn thế, khi dùng sức
mạnh để chống lại nhân dân thì đây đã là trạng thái chiến tranh đối với nhân dân,
và nhân dân có đầy đủ lý do cũng như thẩm quyền để xoá bỏ sức mạnh ấy đi bằng
vũ lực.

Locke khẳng định rằng cơ quan hành pháp - dù khi đã nắm giữ luôn quyền liên
hiệp, và có quyền triệu tập hay giải tán cơ quan lập pháp, thì vị trí của nó vẫn
không cao hơn, nó vẫn luôn chỉ là quyền lực được uỷ thác để thực thi các đạo luật
của cơ quan lập pháp. Nhưng không phải lúc nào cơ quan hành pháp cũng phải
nhất nhất tuân thủ theo quyết định và luật pháp của cơ quan hành pháp, mà trong
một số trường hợp nó có thể giải quyết tự do theo ý chí riêng của nó. Locke gọi đó
là đặc quyền hành động của cơ quan hành pháp. Có đặc quyền này bởi không phải
lúc nào cơ quan lập pháp cũng có thể nhìn nhận thấy trước những vấn đề xã hội
cần phải điều chỉnh trong tương lai để có luật thích ứng, nên khi ấy cơ quan hành
pháp phải hành động theo ý mình, nhưng mục đích cuối cùng cần đạt được là lợi
ích cao nhất của nhân dân. Cũng vì mục đích này, trong một số trường hợp khác,
cơ quan hành pháp có thể giải quyết các sự vụ khác với quy định trong pháp luật,
thậm chí là đi ngược lại, bởi sự khắc nghiệt của luật pháp không phải lúc nào cũng
đúng, Locke cho ví dụ của trường hợp này là: không cho kéo sập nhà của một
người vô can để dừng ngọn lửa lại khi căn nhà bên đang cháy; do vậy, việc làm
này trái với quy định của pháp luật thực định nhưng lại phù hợp với pháp luật tối
cao, chính là lợi ích của nhân dân, như câu nói nổi tiếng của nhà luật học Lamã
Cicéron: "Salus populi suprema lex - Hạnh phúc của nhân dân là pháp luật tối
cao".
Trong những dòng cuối cùng của tác phẩm, Locke đưa ra một câu hỏi: Vậy ai sẽ là
người phán xét rằng quốc vương hay cơ quan lập pháp có hành động trái với sự uỷ
thác đã được đặt vào họ hay không ? Locke khẳng định: đó chính là nhân dân. Ông
cho rằng khi có tranh cãi giữa quốc vương với một số người dân khi pháp luật
không có quy định rõ ràng, hay khi vấn đề tranh cãi có hậu quả lớn thì người trọng
tài thích hợp nhất phải là cơ quan quyền lực của nhân dân, bởi ai sẽ là người phán
xét rằng một người được uỷ nhiệm có hành động tốt và theo đúng sự uỷ nhiệm hay
không thích hợp hơn chính người đã uỷ nhiệm ? Nhưng nếu quốc vương phản đối
cách giải quyết của cơ quan quyền lực nhân dân thì việc cáo kiện buộc phải "đưa
đến trời cao", mà ở đây có thể hiểu là việc sử dụng bạo lực và cách mạng để lật đổ
ông vua ấy đi, để thay thế cái hình thức chính quyền cũ ấy đi, bằng những con

người mới, những hình thức mới mà nhân dân cho là tốt đẹp nhất.
Tóm lại, qua tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền hay còn có tựa đề phụ
là Luận về Nguồn gốc, Phạm vi và Mục đích chân chính của chính quyền dân
sự của Locke, ta có thể khẳng định tư tưởng phân quyền của Locke là một bước
phát triển hơn hẳn so với các học giả thời kỳ cổ đại Hy Lạp - Lamã. Tuy vẫn còn
một số điểm hạn chế, mà chủ yếu là chưa phân tách quyền tư pháp ra độc lập với
quyền hành pháp, nhưng tư tưởng phân chia quyền lực của Locke vẫn là nền tảng
đầu tiên vững chắc cho các học giả tư sản về sau tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
Charles Louis Montesquieu ( 1689 - 1755 ):
Bàn về Tinh thần pháp luật ( De L'esprit des Lois ) - viên ngọc sáng trong kho tàng
lý luận về khoa học pháp lý cũng như triết học và nhiều môn khoa học xã hội khác
của nhân loại, là tác phẩm đồ sộ nhất và cũng là tác phẩm xuất sắc nhất của người
tiên phong cho phong trào Khai sáng Pháp Charles Louis Montesquieu. Đây chính
là nơi ông thể hiện một cách sâu sắc toàn bộ tư tưởng của mình.
Thành tựu to lớn nhất của Bàn về Tinh thần pháp luật chính là tư tưởng phân chia
quyền lực, bởi vậy khi nhắc đến Bàn về Tinh thần pháp luật là người ta nghĩ ngay
đến tư tưởng phân quyền, và bởi sự xuất sắc của Montesquieu trong tác phẩm kinh
điển này mà khi nhắc đến tư tưởng phân quyền, người ta cũng sẽ nghĩ ngay
đến Bàn về Tinh thần pháp luật. Tư tưởng này của Montesquieu được tập trung thể
hiện trong quyển 11, chương 6: Hiến pháp nước Anh, mà ta có thể dễ dàng nhận ra
nhiều sự tiếp thu, kết nối với tư tưởng phân quyền của Locke trong Khảo luận thứ
hai về chính quyền.
Ngay từ dòng đầu tiên của chương này, Montesquieu đã khẳng định: "Trong mỗi
quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp
với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự.
Với quyền lực thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra các thứ luật cho một thời
gian hay vĩnh viễn, và huỷ bỏ hay sửa đổi các luật này.
Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định việc hoà hay chiến, gửi đại sứ đi các
nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược.
Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh

chấp giữa các cá nhân. Người ta sẽ gọi đây là quyền tư pháp, vì trên kia là quyền
hành pháp quốc gia"(1).
Ta có thể nhận ra ngay sự tiến bộ hơn hẳn trong tư tưởng phân quyền của
Montesquieu so với tư tưởng của Locke, khi đã tách quyền lực xét xử - quyền tư
pháp ra độc lập với các thứ quyền lực khác.
Theo Montesquieu, một nhà nước tự do hoàn hảo là một nhà nước mà ba thứ quyền
lực này được phân chia và được đặt vào tay những cá nhân, tổ chức khác
nhau: "Tự do chính trị chỉ có được khi không có sự lạm dụng quyền lực. Nhưng
kinh nghiệm muôn đời chỉ ra cho chúng ta rằng bất kỳ ai khi được trao quyền lực
là sẽ có khuynh hướng lạm dụng quyền lực ấy, và sẽ tăng quyền lực của anh ta lên
đến hết mức Để ngăn chặm sự lạm dụng này, điều cần thiết rất tự nhiên là
quyền lực phải được ngăn cản ( kiềm chế ) bởi quyền lực"(2).
Về nguyên nhân của sự phân quyền, ông viết:
"Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một
viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta
hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì
là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán đối với
quyền sống và quyền tự do của công dân, quan toà sẽ là người đặt ra luật. Nếu
quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan toà sẽ có cả sức mạnh
của kẻ đàn áp.
Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân
chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết"(3).
Nguyên nhân này, so với nguyên nhân do Locke đưa ra về cơ bản là giống nhau,
bởi đều xuất phát từ luận đề: người nắm quyền luôn có xu hướng lạm quyền, nên
muốn chống sự lạm quyền đó để bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân thì phải
tổ chức và phân chia quyền lực sao cho đảm bảo "quyền lực ngăn cản quyền lực".
Thực tế lịch sử đã chứng minh: xu hướng lạm quyền của nhà cầm quyền là rất phổ
biến khi các quyền lực không được phân tách rõ ràng. Chính bản thân Montesquieu
đã đưa ra rất nhiều minh chứng cho hiện tượng này.

_____________
(1) Charles Louis Montesquieu: Bàn về Tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2006, tr.105
(2) TS Nguyễn Thị Hồi: Sđd, tr.75
(3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106
Ông cho rằng ở phần lớn các nước châu Âu, khi nhà vua nắm quyền lập pháp, hành
pháp và nhường quyền tư pháp cho nhân dân thì việc cai trị còn có mức độ; nhưng
ở các nhà nước mà quyền lực bị thâu tóm toàn bộ trong tay một người hay một
nhóm người thì "nền chuyên chế nghiệt ngã đè lên đất nước"(1). Và ông nghiên
cứu khá kỹ các nhà nước cộng hoà Italia - những biểu hiện của việc quyền lực tập
trung trong tay một tập đoàn quý tộc. Theo ông, nhân dân trong các nhà nước này
có ít quyền tự do hơn nhiều so với trong các nước quân chủ châu Âu. Ông khẳng
định: "Ở đây, tất cả quyền lực chỉ là một. Tuy bề ngoài chẳng có sự phô trương gì
của ông vua chuyên chế, mà người ta vẫn cảm thấy sự chuyên chế vào bất cứ lúc
nào"(2). Nhưng sự chuyên chế của những nhà nước cộng hoà này không giống hẳn
chính thể chuyên chế ở châu Á, ví dụ như ở Cộng hoà Venise có sự phân quyền
tương đối, khi Đại hội đồng có quyền lập pháp, các đại quý tộc Prégadi nắm quyền
hành pháp, và nắm quyền tư pháp là các quý tộc Quaranties; nhưng cái dở ở nhà
nước Venise này là: tuy có sự phân quyền, nhưng mọi cơ quan này đều nằm trong
tay tầng lớp quý tộc, nên cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thực chất
cũng chỉ là một thứ quyền lực mà thôi, thực chất là chẳng có một sự phân quyền
nào cả. Và ông chỉ ra cái tai hại của nhà nước ấy: "cơ quan cầm quyền vừa là kẻ
thi hành luật vừa tự cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng
những ý chí chung sai lầm của họ. Mà họ còn nắm cả quyền xét xử nữa thì họ có
thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của họ"(3).
Cũng giống như Locke, Montesquieu đặc biệt chú trọng tới cơ quan lập pháp, dù
ông hoàn toàn không thừa nhận rằng đây là cơ quan quan trọng nhất, có khả năng
uỷ thác quyền lực để hình thành nên các cơ quan khác như trong học thuyết của
Locke.
_____________

(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106
(2)(3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.107
Theo ông, trong một nước tự do thì mọi người dân cũng được tự do, và do đó họ có
quyền tự quản, bởi vậy, dân chúng phải nắm quyền lập pháp. Nhưng theo ông, nếu
mọi người dân đều tham gia vào công việc lập pháp, như trong Hội nghị công dân
của các nhà nước dân chủ thời cổ đại thì hoàn toàn không thích hợp, vì họ thường
đòi hỏi thực hiện những việc mà bản thân họ và cộng đồng không đủ sức làm Bởi
vậy, tốt nhất dân chúng chỉ nên tham gia vào công việc của nhà nước bằng cách
bầu chọn đại biểu của mình. Và cơ quan đại biểu dân chúng cũng không nên giải
quyết các công việc cụ thể, vì họ không thể làm tốt điều này, họ chỉ nên làm ra
luật, và xem xét người ta thực thi những luật này ra sao.
Về tổ chức của cơ quan lập pháp - cơ quan đại biểu nhân dân, Montesquieu cho
rằng nó nên gồm hai viện: Viện quý tộc và Viện thứ dân.
Nguyên nhân của việc cần có hai nghị viện riêng biệt, theo ông là do trong xã hội
có những người mà dòng giống, của cải hoặc danh vọng của họ nổi bật lên trên
những người khác, nên nếu trong cuộc bầu cử họ chỉ có được một phiếu bầu như
các công dân khác thì sự tự do chung là xiềng xích nô lệ đối với họ, bởi phần lớn
các quyết nghị chung sẽ chống lại họ. Bởi vậy, những người này cần phải có một
cơ quan đại diện riêng bên cạnh cơ quan đại diện dân chúng, để bảo vệ quan điểm
và lợi ích của mình. Ngoài ra, theo ông, quyền lập pháp cần phải có một uy lực
điều chỉnh để dung hoà, nên cơ quan lập pháp gồm hai viện riêng biệt là một cơ
chế thật thích hợp để phát huy sự dung hoà này.
Quan điểm này là một hạn chế của Montesquieu, bởi chính bản thân ông cũng là
một nam tước - nam tước De La Brède. Nhưng cách thức hoạt động của các viện
này được ông đưa ra lại là sự tiến bộ rất rõ ràng.
Theo ông, cơ quan đại diện quý tộc có thể đình chỉ dự định của cơ quan đại diện
dân chúng, cũng như cơ quan đại diện dân chúng có thể ngăn cản các quyết định từ
cơ quan đại diện các nhà quý tộc. Montesquieu chia quyền lập pháp ra làm hai
chức năng: chức năng quy định và chức năng ngăn cản. Trong đó, "chức năng quy
định là quyền tự mình ra lệnh, hoặc tự mình sửa lại điều mà người khác ra lệnh";

còn "chức năng ngăn cản là quyền làm cho quyết định của người khác trở thành
vô hiệu"(1). Theo ông, Viện quý tộc chỉ được tham gia vào công việc lập pháp với
chức năng ngăn cản chứ không có chức năng quy định, tức là chỉ có quyền phủ
quyết hoặc chuẩn y các quyết định của Viện thứ dân mà không được sửa đổi quyết
định đó, hoặc đưa ra một quyết định khác. Nguyên nhân của việc này, theo ông là
do Viện quý tộc có hình thức cha truyền con nối, mà lại được lập nên để bảo vệ
đặc quyền của một nhóm người, nên có thể nó sẽ chỉ biết đến lợi ích riêng tư của
mình mà quên đi lợi ích chung của cả cộng đồng.
_____________
(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.113
Về hoạt động của các đại biểu dân chúng trong cơ quan lập pháp, theo
Montesquieu, các đại biểu này là người đã nhận được ý kiến chung của những
người bầu ra họ, là đại diện cho ý chí của các cử tri, nên không nhất thiết mọi việc
đều phải hỏi ý kiến dân chúng. Ông thừa nhận làm như thế mới đảm bảo được
quyền tự do và dân chủ của nhân dân, nhưng như vậy thì công việc sẽ kéo dài vô
tận, và trong những trường hợp cấp bách thì lối làm việc này sẽ làm ngưng trệ cả
quốc gia, hay thậm chí là huỷ diệt nó. Và ông đưa ra cách làm mà ông cho là hợp
lý như ở quốc hội Hà Lan, khi các đại biểu chỉ phải báo cáo lại công việc với các
cử tri.
Về cách thức bầu cử cơ quan lập pháp, Montesquieu cho rằng người dân biết rõ
nhu cầu của thành phố mình hơn là của các thành phố khác, hiểu năng lực của
người láng giềng mình hơn là láng giềng của người khác, nên dân chúng ở mỗi địa
phương phải được chọn ra một người đại biểu, chứ không nên tiến hành bầu cử
chung trong cả nước.
Về tinh thần của người lập pháp, được ông nêu lên trong Chương 1, Quyển 29, và
được khẳng định lại bởi một chính khách Pháp về sau là Abel Francois Villemain
thì: "Luật phải thật vô tư, không thiên vị. Chính người lập pháp phải vô tư để
không ghi tham vọng của mình vào tác phẩm luật"(1). Và Montesquieu nhấn mạnh
lại quan điểm chính phủ phải "trung dung" của Aristote trong quyển 1,
sáchPolitics: "Một chính phủ càng xa đảng phái và càng gắn với phương sách

trung dung thì càng được vững vàng. Nhiều nhà lập pháp trong chính thể quý tộc
đã cho người giàu quá nhiều và rút bớt của người nghèo cũng quá nhiều. Lầm lẫn
đưa tới cái xấu xa thực sự; ưu thế của nhà giàu đánh đổ chính phủ nhiều hơn là ưu
thế của người nghèo, của muôn dân"(2). Có thể nhận thấy đây là một quan điểm
rất tiến bộ của Montesquieu, nhưng tiếc là ông lại không chỉ ra làm sao để có được

×