DIỄN TRÌNH GIAO LƯU KINH TẾ, VĂN HOÁ VIỆT - TRUNG
VÙNG LƯU VỰC SÔNG HỒNG TRONG BỐI CẢNH QUAN HỆ
KHU VỰC
PGS.TS Nguyễn Văn Kim
1. Nơi khởi nguồn của các nền văn minh
Trong tiến trình phát triển của văn minh nhân loại, chúng ta
thấy hầu hết các nền văn minh lớn (Great civilization) đều
được hình thành, phát triển ở lưu vực các dòng sông. Từ
khoảng thiên niên kỷ thứ tư trước Công nguyên (TCN) sông
Nil đã nuôi dưỡng nền văn minh Ai Cập. Ở vùng Trung Cận
Đông, chính hệ thống của hai dòng sông Tigre và Euphrate
đã bồi đắp nên nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamie). Và
không thể nói đến quá trình sinh tạo, toả rạng sớm của văn
minh Ấn Độ nếu không có nguồn nước vô tận của sông Ấn,
sông Hằng. Ở vùng Đông Bắc Á, văn minh Trung Hoa chắc
chắn cũng không thể hình thành sớm và phát triển rực rỡ
nếu không có môi trường tự nhiên, văn hoá của hai hệ thống
Hoàng Hà và Trường Giang chảy ngang chiều dài lãnh thổ
rồi đổ ra Biển Trung Hoa (China sea) rộng lớn.
Ở một cấp độ khác, dường như khiêm tốn hơn, theo cách
phân định của một số học giả quốc tế, mà tiêu biểu là Arnold
Toynbee, thì cùng với sự tồn tại của các nền văn minh lớn,
lịch sử nhân loại còn hiện tồn các nền văn minh khác có giá
trị tương hỗ gọi là “Văn minh vệ tinh” (Civilizations
satellites)(1). Dường như mang tính quy luật, hầu hết các
nền văn minh đó cũng đều được hình thành ở lưu vực các
dòng sông. Chỉ riêng khu vực Đông Á, hệ thống của các dòng
sông như Irrawady, Chao Phraya, Mekong, sông Hồng
không chỉ là môi trường thành tạo mà còn chứng kiến biết
bao sự thăng trầm của các nền văn hoá, trung tâm văn minh
khu vực. Khẳng định vai trò của yếu tố sông nước trong buổi
đầu sáng tạo văn hóa và lập quốc, nhiều nhà khoa học đã
gọi tên của các dòng sông để định danh cho một số nền văn
minh khu vực. Và khái niệm “Văn minh sông Hồng” đã xuất
hiện trong bối cảnh đó(2).
Khi nói đến sông nước chúng ta thường hay luận suy đến
môi trường và điều kiện canh tác tự nhiên của cư dân nông
nghiệp để rồi từ đó hình thành nên các trung tâm “Văn minh
nông nghiệp”. Theo lô gíc đó, “Văn minh nông nghiệp” vẫn
được coi là mô hình tiến triển phổ biến của các nền văn
minh. Nhưng, thực tế lịch sử cũng cho thấy cùng với mô
hình phổ quát đó, nhân loại cũng từng sáng tạo nên ba mô
hình khác nữa là: “Văn minh du mục”, “Văn minh thương
nghiệp” và “Văn minh biển” - ở đó, cư dân sống chủ yếu bằng
khai thác biển và giao thương trên biển. Điều hiển nhiên là,
không có bất cứ chủ nhân nền văn minh nào lại tự phân lập
phạm vi và chỉ thoả mãn với môi trường khai thác kinh tế
chính yếu của mình, đoạn tuyệt với các nguồn cung cấp
nguyên liệu, thực phẩm cùng các hoạt động kinh tế khác.
Dưới giác độ Kinh tế - nhân văn, chính các hoạt động kinh tế
đa dạng đó không chỉ đem lại nguồn bổ sung mà còn là điều
kiện tạo nên đặc tính đa dạng của các nền văn hoá. Nhu cầu
trao đổi thiết yếu của tự thân mỗi trung tâm văn hoá khiến
cho nó luôn chia sẻ và chứa đựng trong đó những giá trị
sáng tạo mang tính khu vực.
2. Trống đồng và tâm thức trống đồng Lạc Việt
Khởi nguồn từ dãy núi Nguỵ Sơn, gần hồ Đại Lý trên cao
nguyên Vân Quý (Trung Quốc), sông Hồng chảy theo hướng
tây bắc - đông nam, nhận nước của 72 nhánh sông lớn nhỏ
nhưng hội lưu với 3 nhánh chính là sông Đà, sông Thao và
sông Lô (cũng đều bắt nguồn từ Trung Quốc) ở vùng ngã ba
Bạch Hạc - Việt Trì(3). Trải qua thời gian, hệ thống sông
Hồng đã bồi đắp nên một châu thổ rộng lớn và nguồn phù sa
màu mỡ của dòng sông đã nuôi dưỡng nền văn minh Lạc
Việt - Đại Việt. Nền văn minh đó đã sớm thể hiện rõ những
đặc tính phát triển riêng biệt, bản địa nhưng đồng thời nó
cũng là sự kết tụ của quá trình giao lưu, giao hoà sâu sắc
với văn minh Trung Hoa cũng như các nền văn hoá khác
trong khu vực.
Cùng hòa chung dòng chảy với môi trường văn hóa Đông Á,
văn hóa Việt Nam hình thành trong một không gian văn hóa
đa dạng, rộng lớn. Từ thời tiền sử, cư dân Việt cổ, mà có học
giả phương Tây gọi là “Người tiền Việt” (Proto Viet), đã có
những mối liên hệ mật thiết với các trung tâm văn hóa Nam
Trung Hoa và Đông Nam Á. Về tự nhiên, khu vực rộng lớn
này có điều kiện khí hậu, môi trường tương đối đồng nhất
nhưng vẫn xen cài một số tiểu vùng có tính chất đặc thù của
miền giáp ranh giữa “Hệ sinh thái chuyên biệt” (Specialzed
ecosystem) ôn đới và “Hệ sinh thái phổ tạp” (General
ecosystem) nhiệt đới. Là một khu vực nằm ở vùng chân núi
Himalaya, bị chia cắt liên tục bởi các dãy núi và sông ngòi,
các tộc người cổ đã sinh sống dọc theo thung lũng và không
ngừng thiên di về phía đông nam theo hướng chảy phổ quát
của hệ thống sông ngòi Đông Nam Á. Được thôi thúc bởi sự
lắng kết phù sa của các bãi bồi ven sông và cửa biển, một số
tộc người từ vùng núi cao đã tiến dần xuống vùng hạ châu
thổ và tự tổ chức thành những cộng đồng xã hội đông đúc.
Họ vừa dựa vào tự nhiên vừa từng bước chinh phục tự
nhiên, hòa nhập với môi trường sống mới và không ngừng
mở rộng không gian sinh tồn. Do vậy, các triền sông và nơi
hội lưu của các dòng sông không chỉ là môi trường canh tác
thuận lợi mà còn là địa bàn tập trung với độ trù mật cao các
di chỉ cư trú của các tộc người cổ.
Trong môi trường văn hóa đó, vào thời đá cũ ở Việt Nam và
miền nam Trung Quốc đã phổ biến kỹ thuật chế tác công cụ
đá cuội trong các di tích hang động đá vôi. Trong đó, các
bước phát triển về kỹ thuật chế tạo và kiểu dáng công cụ rất
gần nhau. Kỹ nghệ Ngườm (Thái Nguyên), với đặc trưng nổi
bật là sự phong phú của công cụ mảnh tước kích thước nhỏ,
có niên đại khoảng 3 vạn năm rất giống hiện vật lớp dưới di
tích Bạch Liên Động ở Quảng Tây. Theo đó, công cụ Sơn Vi
cũng có sự tương đồng với các công cụ trong di tích Thanh
Đường, Hoàng Nham Động (Quảng Đông) và Bảo Tích
Nham, Lan Gia Thôn (Quảng Tây). Và nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng những công cụ đá tìm được trong một số di chỉ ở
Quảng Đông và Quảng Tây là thuộc về văn hóa Hòa Bình.
Nhưng cũng có ý kiến thiên về quan điểm: Các công cụ đó
chỉ mang phong cách Hòa Bình và rất có thể chúng là loại
hình địa phương của văn hóa này(4).
Đến thời đại kim khí, mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa
Việt Nam và Trung Quốc ngày càng trở nên mật thiết và
mang sắc thái mới. Nổi bật hơn cả là mối quan hệ qua lại
giữa văn hóa Đông Sơn và văn hóa Điền ở Vân Nam với sự
hiện diện của những chiếc qua đồng có hoa văn hình đầu
người ở chuôi hay loại dao găm cán hình chữ T, lưỡi phình
rộng ở giữa. Nhưng mặt khác, những dấu tích của văn hóa
Đông Sơn như những thạp đồng cũng được phát hiện ở
Thiên Tử Miếu, Trình Cống. Trống đồng Đông Sơn, một di
vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn, cũng được tìm thấy khá
nhiều ở vùng Hoa Nam. Trong di tích Trại Thạch Sơn nổi
tiếng ở Vân Nam, bên cạnh những trống đồng Điền vẫn còn
có những trống đồng đặc trưng của Đông Sơn. Trống Đông
Sơn cũng tìm được ở Quảng Tây. Theo dòng chảy văn hóa -
kinh tế lên phía Bắc, văn hóa Đông Sơn còn đi xa hơn nữa
đến các tỉnh Hồ Nam, Triết Giang ở Huyện Cẩn (Triết
Giang) đã phát hiện được một lưỡi rìu xòe rộng, trang trí
hình hai con cá sấu và bốn người chèo thuyền. Rõ ràng, đó là
lưỡi rìu mang phong cách đặc thù của văn hóa Đông Sơn(5).
Khác với quá trình thiết lập biên giới chính trị, các “Không
gian văn hoá - tộc người” đã được hình thành sớm và tự
nhiên trong lịch sử. Trên lãnh thổ Trung Hoa rộng lớn cũng
đã sớm hình thành hai trung tâm văn hóa lớn là Hoa Bắc và
Hoa Nam. Như vậy, toàn bộ phía nam Trường Giang là địa
bàn tụ cư chính yếu của các tộc Bách Việt. Họ cùng chia sẻ
nhiều giá trị chung và có mối quan hệ hết sức mật thiết.
Trên cơ sở những phát triển văn hóa mang tính bản địa, vào
những thế kỷ trước và sau Công nguyên, ở vùng tây nam
Trung Quốc, bắc Việt Nam, Lào, Myanmar và Thái Lan hiện
nay đã hình thành một khu vực “Văn hóa trống đồng”. Về cơ
bản “Không gian văn hóa trống đồng” đó cũng phát triển
tương đối trùng hợp với một trong những trung tâm nông
nghiệp trồng lúa nước hình thành sớm của châu Á(6).
Có thể thấy, trải qua một quá trình phát triển tương đối lâu
dài của thời kỳ “Tiền Đông Sơn”(Pre-Dong Son), con đường
tiến đến văn hóa Đông Sơn không phải là một dòng chảy
thuần nhất và đơn tuyến. Từ lưu vực sông Hồng, sông Mã và
sông Cả các trung tâm văn hóa đã cùng hội lưu để tạo nên
một nền văn hóa Đông Sơn phong phú và đạt những thành
tựu hết sức rực rỡ. Đặt trong mối liên hệ so sánh, “Cộng
đồng văn hóa Đông Sơn phát triển cao so với các nền văn
hóa khác đương thời trong khu vực, có nhiều nét độc đáo
riêng nhưng vẫn mang nhiều đặc trưng của văn hóa vùng
Đông Nam Á”(7). Hơn thế, văn hóa Đông Sơn không chỉ tích
hợp những giá trị của các trung tâm văn hóa trên lãnh thổ
Việt Nam mà còn thâu nhận nhiều phát triển sáng tạo và
đặc tính của các trung tâm văn hóa khác trong khu vực.
Theo đó, trước khi đi đến sự hội tụ để hình thành nên một
nền văn minh lớn, từ văn hóa Phùng Nguyên đã có sự giao
lưu nhất định với văn hóa Ân, Thương vùng Hoa Hạ.
Nhưng, trong khi chú trọng đến đặc tính khu vực của văn
hóa Đông Sơn thì cũng phải thấy rằng trước khi tiếp nhận
các ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, Việt Nam
đã có một nền văn minh riêng với những sắc thái Đông Nam
Á đặc thù, nổi bật. Và nhiều nhà khoa học đã gọi những nền
văn hóa trước Đông Sơn và Đông Sơn dưới một cái tên gọi
chung là “Văn minh Sông Hồng”. Đó là một nền văn minh
của cư dân trồng lúa đã biết thuần dưỡng động vật làm sức
kéo. Họ đã có một kỹ thuật chế tác đồng thau và đồ sắt khá
cao, biết tạo ra các công cụ tưới tiêu có kích thước lớn. Và,
quan trọng hơn hết thảy là xã hội đã có sự phân tầng và một
Nhà nước sơ khai xuất hiện. Nhà nước đó được thiết lập
dựa trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước với
kỹ thuật thuần thục. Theo Stephen O’Harrow thì: “Thói quen
cấy lúa nước trong vùng này có thể xuất hiện từ đầu thiên
niên kỷ thứ II TCN, nếu không phải là sớm hơn, và việc sử
dụng thường xuyên những công cụ bằng kim loại, có thể
muộn hơn song cũng đã khá lâu trước khi có mối giao lưu
lịch sử giữa người tiền Việt và người Trung Hoa Nói cách
khác, không một sự phát triển nào lại có thể coi là kết quả
của cuộc chiếm đóng của người Trung Hoa trong suốt thời
kỳ lịch sử đó”. Và, nhà nghiên cứu người Mỹ cũng nhấn
mạnh: “về mặt này những sự khẳng định cho đến nay của
các nhà sử học và các tác giả của những cuốn sách giáo
khoa chuẩn của chúng ta chắc sẽ phải sửa đổi lại một cách
nghiêm túc nếu không phải là sửa lại toàn bộ”(8).
Như vậy, trước khi có sự thâm nhập mạnh mẽ của người
Hán xuống phương Nam thì trong khu vực lãnh thổ phía bắc
Việt Nam hiện nay đã hình thành một nền văn hóa Đông Sơn
thể hiện sâu đậm những dấu ấn bản địa. Về bản chất đó là
một nền văn hóa “phi Hoa phi Ấn” và chủ nhân sáng tạo của
nền văn hóa đó là các tộc người Bách Việt đã từng sinh sống
ở phương Nam lâu đời. Trong tiến trình phát triển, văn hóa
Đông Sơn không ngừng tiếp nhận thêm những dòng thiên di
mới, những yếu tố kinh tế và kỹ thuật canh tác mới nhưng
tất cả đều trở thành những nhân tố bổ sung và làm phong
phú thêm nền văn hóa bản địa đã được định hình. Với văn
hóa Đông Sơn, có thể cần phải tiếp tục tìm thêm những
bằng chứng chữ viết(9) nhưng chắc chắn là vào thời kỳ này
những chủ nhân của văn hóa Đông Sơn đã nói một ngôn
ngữ riêng, ngôn ngữ Nam Á và có những phong tục, phương
thuật riêng. Ở Lào Cai, bãi đá cổ Sa Pa trong thung lũng
Mường Hoa, mà một số người coi là có mối liên hệ với văn
hóa Đông Sơn, vẫn còn là những bí ẩn của thời gian, đòi hỏi
các nhà khoa học phải có sự hợp tác liên ngành, quốc tế
trong những công trình khảo cứu mới(10). Là một thời đại
văn hóa lớn, văn hóa Đông Sơn gắn liền với Thời dựng
nước, vừa diễn tiến vừa có sự hòa quyện giữa sự thực lịch
sử với huyền thoại và thời đại này luôn là mạch nguồn của
những truyền thuyết thấm đượm những sắc màu tâm linh,
huyền nhiệm(11).
Trên phương diện kinh tế, cũng chính vào thời kỳ chuyển
giao giữa thời đại đồng và sắt sớm, văn hóa Đông Sơn đã có
những tiếp giao văn hóa, trao đổi và giao thương trên
khoảng cách lớn. Trong bối cảnh đó đã hình thành nên mối
liên hệ mật thiết Việt Điền - Dạ Lang của vùng Việt Bắc, Tây
Bắc và một bộ phận Bắc Bộ, bắc Trung Bộ với Vân Nam,
Lưỡng Quảng và với cả cư dân du mục vùng Trung Á. Và
như vậy, văn hóa Đông Sơn đã có sự giao hòa mạnh mẽ giữa
“Văn minh nông nghiệp trồng lúa nước” trong các thung
lũng với “Văn minh du mục”, với bản tính năng động, luôn có
khuynh hướng thiên di được hình thành trên những thảo
nguyên rộng lớn. Mạch nối giao lưu đó không chỉ được thôi
thúc bởi những yếu tố khác lạ về văn hóa mà còn do sức hút
mạnh mẽ từ trung tâm cung cấp nguyên liệu giàu tiềm năng
của vùng Việt Bắc, Tây Bắc và Vân Nam, Quảng Tây. Đó còn
là xứ sở của các nguồn lâm sản, động vật lớn và những mỏ
đồng, thiếc, chì, kẽm, sắt nhưng lại thiếu muối, lương thực,
vải cùng sản vật biển của miền kinh tế Hoa Nam và bắc Việt
Nam. Theo các triền sông và thung lũng, sự giao lưu, trao
đổi diễn ra rất mật thiết và để lại dấu ấn đặc sắc trên nhiều
biểu hiện tiêu biểu của thời đại văn hóa Đông Sơn và sau đó.
Dựa trên những phát hiện khảo cổ học, một số nhà khoa học
đã rất chú ý đến mối liên hệ giữa văn hóa Đông Sơn và văn
hóa Tấn Ninh (Vân Nam), giữa mộ thuyền Việt Khê - Châu
Can với vùng Ba Thục (Tứ Xuyên). Cùng với những cảnh
thức sinh hoạt nông nghiệp, đua thuyền, mùa hội trên
trống, thạp đồng Đông Sơn thì những dao găm tượng người
tết tóc kiểu tộc Khương nói ngữ hệ Tạng Miến ở Vân Nam,
những con thú vồ mồi trên nắp thạp đồng Vạn Thắng (Vĩnh
Phú) và cả một số lượng phong phú các vỏ sò trong các đồ
đựng, trống đồng Tấn Ninh cho thấy sự giao lưu sâu sắc
đó. Nhưng văn hóa Đông Sơn không chỉ hướng Bắc mà còn
lan tỏa đến miền Trung và nhiều vùng xa xôi khác ở phương
Nam. Trong nhiều di chỉ khảo cổ học thuộc văn hóa Sa
Huỳnh, các nhà khoa học đã phát hiện được các lưỡi rìu
đồng, vũ khí đồng điển hình của văn hóa Đông Sơn(12). Đó
là những minh chứng sinh động cho thấy tầm ảnh hưởng và
mối giao lưu rộng lớn của nền văn hóa nổi tiếng này(13). Và
như vậy, những yếu tố của “Văn hóa thực vật” đã có sự kết
hợp hài hòa với “Văn hóa động vật”. Theo Man thư của Phàn
Xước đời Đường, thì các tộc người vùng Điền, Nam Chiếu,
Đại Lý thường bán trâu, ngựa cho An Nam để đổi lấy
muối(14). Mối quan hệ đó vẫn được tiếp tục duy trì đến thời
Lý, Trần và chắc chắn họ cũng có mối liên hệ với các trung
tâm kinh tế của người Môn - Khmer và Tày - Thái cổ.
Thấm hiểu ý nghĩa, tâm thức trống đồng của người xưa ta
thấy: Trống đồng không chỉ là một loại nhạc khí mà còn là
một vật linh thiêng, hội tụ, kết giữ hồn dân tộc. Trống đồng
là biểu trưng của sức mạnh vật chất và quyền lực chính trị
của những Lạc tướng, Lạc hầu của lòng trung thành và
tinh thần hướng về nguồn cội. Có thể nói, trống đồng “là
những hiện tượng liên lập, là những thành phần hữu cơ, nội
sinh, của nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng của Việt Nam và
Đông Nam Á, của nền văn minh sông Hồng, của kỷ nguyên
bắt đầu dựng nước và giữ nước, Văn Lang, Âu Lạc, của thời
đại các vua Hùng Do vậy, từ trống đồng xưa cổ, có thể đúc
rút ra triết lý Việt cổ, có thể chắt lọc ra tư duy trống đồng,
tư duy Việt cổ”(15). Và Hội thề Đồng cổ vẫn là một nghi lễ
linh thiêng của nhiều triều đại về sau.
Nhưng, trước sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ về phương
Nam của người Hán, các cụm Bách Việt của Triết Giang,
Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông và Quảng Tây lần lượt bị
Hán hoá. Do vậy, cùng với sự xâm nhập của văn hóa Hán,
văn hóa Việt Nam vừa tiếp tục biến đổi vừa tiếp nhận và hòa
trộn thêm các đặc trưng văn hóa vùng Đông Á với tinh thần
“Vô tốn trung Quốc, bất dị Trung Quốc”. Do vậy, người Việt
của Lạc Việt dù bị thôn tính, chia cắt thậm chí bị sáp nhập
thành châu, quận vẫn duy trì được bản sắc văn hoá và ý
thức dân tộc mạnh mẽ. Theo Việt sử lược thì dưới thời
Trang Vương nhà Chu (696-682 TCN) “ở bộ Gia Ninh, có
người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là
Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang,
phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút.
Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương Việt Câu Tiễn
(505-465 TCN) đã sai sứ tới dụ, Hùng Vương chống cự
lại”(16).
Trước những biến thiên của lịch sử, để tồn tại và giữ vững
bản sắc của mình, nền văn hoá Việt, dân tộc Việt phải trải
qua một cuộc đấu tranh sinh tồn quyết liệt không chỉ với
những yếu tố văn hoá của người Hán mà còn cả với những
dạng thức văn hoá đã Hán hoá ở vùng Hoa Nam. Theo chân
các đội quân và dòng thiên di, đặc biệt là mỗi khi ở Trung
Quốc có những biến động chính trị lớn, tất cả những thành
tố văn hóa đó đã tràn vào Việt Nam vừa phủ lên trên vừa
xen cài với những lớp tầng văn hóa cũ. Đến khi bị Hán xâm
lược và nô dịch trực tiếp thì hiện tượng cưỡng chế văn hóa
đã diễn ra và để chống lại sự đồng hóa, người Việt đã phải
cố kết lại trong các làng thôn mặt khác không ngừng nuôi
dưỡng ý thức duy trì các yếu tố cộng đồng nguyên thủy mà
đúng ra trước những chuyển biến sâu sắc về chính trị và
kinh tế - xã hội thì chúng phải bị loại bỏ tự nhiên theo quy
luật vận động của lịch sử.
3. Khẳng định bản sắc và những tiếp giao kinh tế - văn hóa
Cho đến khoảng đầu Công nguyên, văn hóa Trung Quốc, Ấn
Độ mới tác động mạnh mẽ đến vùng đất của người Việt cổ ở
miền bắc Việt Nam hiện nay. Tôn giáo, thiết chế chính trị,
văn hóa phương Bắc bắt đầu thâm nhập vào khu vực. Có thể
nói, với sự xâm nhập của nhà Hán mối quan hệ văn hóa Việt
- Trung chuyển sang một giai đoạn mới.
Thực hiện chính sách cai trị và áp chế khuôn mẫu Trung
Hoa, trải các triều Tây Hán, Đông Hán, Lục Triều, Tùy
Đường nhiều quan lại và cư dân Trung Quốc đã sang làm
quan và sinh sống ở Việt Nam. Những người này chủ yếu tập
trung ở các trung tâm chính trị và kinh tế lớn. Văn hóa
truyền thống Việt Nam đứng trước những thách thức mới.
Để bảo tồn và khẳng định bản sắc của mình, song song với
quá trình “Hoa hóa” văn hóa Việt Nam cũng đồng thời diễn
ra quá trình “giải Hoa hóa”. Sự hiện diện của hệ thống các
mộ Hán và loại mộ mang phong cách Hán cho thấy rõ điều
đó. Điều đáng chú ý là, hệ thống các “mộ Hán” phần lớn tập
trung ở vùng hạ châu thổ sông Hồng và miền Đông Bắc.
Vùng cửa ngõ Đông Bắc càng trở nên có ý nghĩa quan trọng
khi Con đường tơ lụa trên biển được thiết lập. Như vậy, vào
thời kỳ Bắc thuộc ảnh hưởng của văn hóa Hán, một nền văn
hóa dựa căn bản vào hệ tư tưởng Hán nho, thiết chế tập
quyền và những định chế của kinh tế nông nghiệp, vẫn chủ
yếu tập trung và chỉ có thể gây ảnh hưởng mạnh ở vùng
châu thổ rộng lớn. Trong khi đó, vùng trung và thượng
nguồn hệ thống sông Hồng vẫn là một thế giới riêng với đời
sống sinh hoạt vật chất, tâm linh truyền thống. Thực tế, đó
vẫn là một Không gian văn hóa - xã hội tự nhiên. Ở mỗi
thung lũng, mường, động cư dân bản địa vẫn duy trì
những cấu trúc xã hội, tiếng nói, luật tục, phong tục tập
quán và vũ trụ luận riêng được chắt lọc, sáng tạo từ chiều
sâu lịch sử, trong các cách thức ứng xử xã hội và những hoạt
động kinh tế cổ truyền(17).
Hiển nhiên, nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận những
ảnh hưởng nhất định của văn hóa Hán cũng từng bước
vươn đến vùng trung, thượng nguồn sông Hồng và chiều
sóng áp lực thứ hai là từ Hoa Bắc tràn xuống Hoa Nam.
Nhưng trong một không gian rộng lớn, môi trường xã hội,
kinh tế khác nhiều so với đồng bằng, nhà Hán không thể dễ
dàng thay đổi những định chế cố hữu. Như vậy, khu vực
trung và thượng nguồn sông Hồng, sông Mã, sông Cả trở
thành nơi bảo lưu nhiều nhất, lâu bền nhất những mạch
nguồn văn hóa, tâm thức cổ. Nhưng, dường như tương phản
với quá trình biên giới quốc gia ngày càng được xác lập cụ
thể, ý thức về chủ quyền dân tộc cũng ngày một trở nên
mạnh mẽ thì mối giao lưu kinh tế, văn hoá giữa Việt Nam
với Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á vẫn là một
dòng chảy tự nhiên, đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển của
mỗi dân tộc. Sự giao lưu đó luôn diễn ra đa dạng, đa chiều,
vượt ra khỏi biên giới của hai nước và từ lâu đã chứa đựng
trong đó những yếu tố liên vùng. Rõ ràng là, từ thời cổ đại
sự thịnh suy của mỗi trung tâm kinh tế, mỗi nền văn minh
đều là nhân tố có ý nghĩa và tác động không nhỏ đến sự
phát triển chung của toàn thể khu vực.
Là một trong hai trung tâm kinh tế và văn hoá lớn nhất của
châu Á, văn minh Trung Hoa tự ngàn xưa đã có sức hút
mạnh mẽ đối với nhiều nước trong khu vực. Đến thời Đường
(618 - 907), trung tâm kinh tế và văn hoá đó lại càng có
nhiều ảnh hưởng và sức lan toả mạnh mẽ. Do có chung biên
giới trên bộ, trên biển và có những ưu thế kinh tế nhất định,
Việt Nam đã cùng chia sẻ nhiều bước chuyển quan trọng với
khu vực kinh tế miền Nam Trung Hoa và đồng thời là điểm
dừng chân của nhiều sứ đoàn, nhà truyền giáo, thương
nhân từ các quốc gia Đông Nam Á, Tây Nam Á đến Trung
Quốc để thiết lập quan hệ bang giao, giao lưu kinh tế. Vị thế
cửa ngõ, cầu nối giữa hai khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam
Á của Việt Nam luôn có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ
khu vực.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng sau khi Triệu Đà lập nước
Nam Việt, tự xưng là Nam Việt Vũ Vương (năm 207 TCN),
đóng đô ở thành Phiên Ngung (Quảng Đông) quan hệ kinh
tế trở nên rộng mở. Từ Nam Việt, dựa vào lưu vực Trường
Giang mối quan hệ với người Lão, người Khương ở Tây
Nam Trung Quốc cũng được thiết lập. Trong thời gian đó,
hàng hoá từ đất Thục cũng được truyền vào Việt Nam(18).
Năm 206 TCN, nhà Hán thống nhất Trung Quốc nhưng phải
đến năm 196 TCN Hán Cao Tổ mới phong cho Triệu Đà làm
“Nam Việt Vương”. Triệu Đà làm tôi nhà Hán, thần phục
chính quyền trung ương nhưng vừa tìm cách duy trì quyền
lực của mình ở địa phương vừa muốn gây ảnh hưởng,
chiếm đoạt một số vùng đất khác. Tuy nhiên, việc mở rộng
ảnh hưởng xuống phía Nam của triều Hán đã thúc đẩy các
hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá giữa vùng Hoa Nam với
Trung Nguyên. Thời Tây Hán (206TCN- 8SCN), nhất là dưới
triều Hán Vũ Đế (128- 88TCN), nhà Hán muốn tăng cường
hơn nữa áp lực chính trị về phương Nam. Sau khi chinh
phục được Nam Việt (bao gồm cả Âu Lạc), việc buôn bán với
khu vực Nam Hải (Quảng Đông) đã đem lại những nguồn lợi
to lớn cho giới quan chức và thương nhân Trung Quốc. Bộ
sử cổ Trung Quốc Tiền Hán thư cho rằng do miền này “gần
bể, có nhiều sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi, châu ngọc, bạc,
đồng, hoa quả, vải, người Trung Quốc đến buôn bán phần
nhiều được giàu có”(19). Đến thời Đông Hán (25-220), mối
quan hệ kinh tế với Nam Hải và Giao Chỉ khá phát triển.
Thương nhân, cả người Hán lẫn người Việt thường chở lúa
gạo từ Giao Chỉ đem bán cho các quận Cửu Chân, Hợp Phố
Họ cũng thường qua lại Hợp Phố để buôn châu báu.
Bên cạnh việc mua bán lương thực việc trao đổi nguyên liệu,
kim loại, vật dụng thường ngày, nông cụ, vũ khí giữa nhà
Hán và các triều đại sau đó với các trung tâm kinh tế
phương nam vẫn tiếp tục được duy trì và có quy mô ngày
càng lớn. Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học vùng đồng
bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ cho thấy nhiều loại vũ khí,
gương đồng, bình đồng và tiền đồng có nguồn gốc từ
Trung Quốc. Ngày nay, chúng ta thường nhìn nhận những di
vật đó như những biểu hiện giao lưu văn hoá nhưng thực tế
đó là những bằng chứng giá trị về một thời quan hệ giao
thương mật thiết giữa hai nước qua nhiều thời kỳ lịch sử.
Về sinh hoạt vật chất, trong tác phẩm Tề nhân yếu thuật, Giả
Tư Hiệp, người thời Bắc Nguỵ (386-534) đã viết: “Đất Giao
Chỉ có đến 30 loại cây đặc sản. Nhiều loại đã được đưa về
trồng ở Tề, Sở từ lâu. Đến lúc đó nó lại trở thành sản vật của
Trung Quốc”(20). Cũng trong tác phẩm trên tác giả còn cho
biết: Người Giao Chỉ ngay từ thế kỷ II TCN đã biết ép mía
nấu mật gọi là “Thạch mật”. Họ còn biết cô mật thành
đường trắng gọi là “Băng đường”. Hẳn là “đường Giao Chỉ”
là loại chế phẩm hiếm và có chất lượng nên Tôn Lượng vua
Ngô thời Tam Quốc đã cho nhập đường từ Giao Chỉ.
Theo GS. Phạm Hồng Quý, Viện Dân tộc học Quảng Tây, thì
vào khoảng thế kỷ IX, giống lúa từ Chiêm Thành (lúa Chiêm)
đã được trồng ở Quảng Châu, Phúc Kiến. Do có khả năng
chịu hạn, đến năm 1012, vua Tống Chân Tôn đã cử người
đến Phúc Kiến lấy 3 vạn cân giống lúa Chiêm chia cho 3 lộ
Giang Hoài Lưỡng Triết (tức 3 tỉnh An Huy, Giang Tô, Triết
Giang) và từ đó lúa Chiêm được trồng nhiều vùng ở Trung
Quốc(21). Theo chúng tôi, giống lúa của cư dân nông nghiệp
vùng khô đó có thể được đưa đến từ Chiêm Thành nhưng
cũng có thể đã trải qua một quá trình canh tác thử nghiệm
và thích nghi với môi trường tự nhiên vùng châu thổ Bắc Bộ.
Theo một số chuyên gia nông học thì từ thế kỷ III Việt Nam
được ghi nhận là quốc gia biết đến kỹ thuật canh tác 2 vụ
một năm sớm nhất và cũng chính từ Việt Nam giống lúa
ngắn ngày “lúa Chiêm” đã được gieo trồng ở vùng hạ lưu
Dương Tử từ đầu thế kỷ XI, thời kỳ được gọi là “Cách mạng
xanh của nhà Tống”(22). Từ đó, giống lúa Chiêm hệ Bengal
cũng được du nhập vào Nhật Bản(23). Đến thời Minh, Việt
Nam còn truyền sang Trung Quốc loại lúa tháng Năm, chín
sớm, hạt lúa trắng, thơm ngon và cho thu hoạch tốt. Về sau
giống lúa đó vẫn được gọi là “An Nam đạo”.
Cũng vào thời Minh, thời kỳ có sự tiếp xúc văn hóa Đông -
Tây mạnh mẽ, giống khoai lang mà người Hoa gọi là “Fan
Shu” cũng đã được đưa từ Philippines và Việt Nam đến
Trung Quốc vào thời Vạn Lịch (1573-1619). Sách Đông Quản
huyện chí viết: “Vạn Lịch canh thân (năm 1580) có khách đi
thuyền sang An Nam, Trần Ích đi theo, khi tới, tù trưởng mở
tiệc khoản đãi, mỗi bữa tiệc đều có thổ sản khoai lang rất
ngon. Ông ích rất thích nên nhờ người ở của ông tù trưởng
mua giúp giống khoai lang. Không lâu, ông ích tìm cách trở
về nước. Vì khoai lang không phải hang bình thường nên
trồng trong vườn hoa, lâu ngày sinh nở rất nhiều, đào lên
ăn rất ngon. Vì từ nước ngoài truyền vào, nên tên gọi là Fan
Shu tức “Cam thự” hay “Phiên thự”. Sau đó trồng ở phía
Nam, bổ sung cho việc thiếu lương thực, làm cho không có
người phải đói nữa”. Trong thời gian đó, bằng nhiều cách
khác nhau, thuốc lá cũng đã được truyền từ Mexico đến
Trung Quốc. Theo sách Cổ kim đồ thư tập thành thì “Thuốc
lá đến từ Giao Chỉ, nay khắp nơi đều có”. Đời xưa, người ta
cho rằng, hút thuốc lá có thể tránh được chướng khí, trừ ma
tà, chống rét, nên khắp nơi trồng và hút thuốc lá”(24).
Sau khi Việt Nam giành được độc lập vào thế kỷ X, dường
như tương phản với bức tranh chính trị, quan hệ giao
thương với Trung Quốc vẫn được duy trì tương đối mật
thiết. Việc trao đổi, buôn bán vẫn diễn ra hai chiều nhưng do
ý thức mạnh mẽ về bảo vệ an ninh biên giới nên mỗi bên đều
đưa ra những quy định chặt chẽ về chế độ và các địa điểm
giao dịch. Theo đó, vào thời Lý (1010-1225), vua Tống chỉ
cho thương nhân Đại Việt sang buôn bán ở Liêm Châu và
trấn Như Hồng. Nhưng, cùng với hai trung tâm đó, một hệ
thống giao dịch qua biên giới cũng đã từng bước được thiết
lập. Trong tác phẩm Lĩnh Ngoại đại đáp Chu Khứ Phi gọi là
các “Bạc dịch trường”. Tại Ung Châu có hai bạc dịch trường
lớn ở trại Hoành Sơn và Vĩnh Bình. Đây là các bạc dịch
trường có ý nghĩa thiết yếu với thương mại khu vực, là địa
điểm mà các nhà buôn lớn từ nhiều vùng xa xôi như Quảng
Nguyên (Cao Bằng), Đặc Ma của nước Đại Lý (Vân Nam)
thường tụ hợp về buôn bán. Bạc dịch trường Hoành Sơn đã
“chiêu hết những người man đến mua bán mà đánh thuế
nhẹ”. Ở Vĩnh Bình:“Người Giao hàng ngày đem các danh
hương, sừng tê, ngà voi, vàng, bạc, muối, tiền để đổi chác với
thương nhân ta lấy lăng, gấm, the, vải rồi đi. Phàm những
người đến Vĩnh Bình đều là người Giao ở động, đi đường bộ
mà đến. Các thứ họ mang rất quý, nhỏ duy có muối là thô
nặng”(25). Là những trung tâm kinh tế mang tính khu vực,
bạc dịch trường Hoành Sơn, Vĩnh Bình, Khâm Châu đã hoạt
động liên tục trong thời gian dài. Từ Hoành Sơn có nhiều
đường thông đến “Nam man”.
Đến thời Lê và Nguyễn, triều đình Thăng Long và Huế vẫn
duy trì quan hệ kinh tế với Trung Quốc đặc biệt là với các
tỉnh giáp biên giới phía bắc nước ta như Vân Nam (Điền),
Quảng Tây (Quế), Quảng Đông (Việt). Cùng với quan hệ
buôn bán trên biển các mối giao lưu kinh tế, văn hoá trên
đất liền vẫn tiếp tục được duy trì và có những bước phát
triển mới. Vào thời Thanh, vua Càn Long đã đặt ra những
luật lệ quy định việc giao thương trên vùng biên giới hai
nước và chính thức mở các cửa khẩu: Trấn Nam Quan, Bình
Nhi Quan, Thuỷ Khẩu Quan, Do Thôn Ải và Đông Hưng Thị
để buôn bán. Sau khi tấn công và chiếm Đà Nẵng, thực dân
Pháp từng bước mở rộng ảnh hưởng và đánh chiếm các tỉnh
Nam Bộ đồng thời tấn công ra Bắc. Sau khi cuộc Chiến tranh
Trung - Pháp kết thúc năm 1885, cùng với việc tìm cách đặt
ách thống trị lên toàn cõi Đông Dương, chính quyền thuộc
địa Pháp liền tiến hành đàm phán với nhà Thanh về đường
biên giới và quan hệ buôn bán qua biên giới với Trung Quốc.
Pháp đã xác định: “Những con đường thương mại và đường
vào Trung Quốc”. Là một thị trường lớn, giàu tiềm năng,
Trung Quốc nhất là khu vực kinh tế miền Nam Trung Hoa
luôn là mục tiêu chinh phục của các nước phương Tây. Để
không bị chậm chân so với các cường quốc châu Âu khác, từ
tháng 6-1885 đến tháng 6-1895, Pháp đã ký với nhà Thanh
3 bản “Hiệp ước thương mại”, một “Hiệp ước bổ sung” và
một “Phụ lục bổ sung Hiệp ước thương mại”. Cùng với
những quy định về ưu đãi thuế quan, hai bên cũng đã chính
thức mở bốn cửa khẩu thông thương: Long Châu (Quảng
Tây), Mông Tự (Vân Nam), Tư Mao và Hà Nội.
Trước áp lực ngày càng tăng của chính quyền Pháp đồng
thời cũng nhận thức rõ tầm quan trọng của đặc khu kinh tế
phía Nam, từ năm 1885, triều đình nhà Thanh cử Tô Nguyên
Xuân nhậm chức giám sát biên phòng để củng cố quốc
phòng và quản lý vùng biên giới. Là một nhà quản lý có tài,
trong hơn 10 năm trị nhậm, ông đã tích cực thực hiện chủ
trương di dân đến biên giới, khai hoang lập ấp đồng thời
mở các chợ vùng biên. Các chính sách đó đã góp phần làm
thay đổi diện mạo quan hệ kinh tế vùng biên giới Việt -
Trung và cũng nhờ đó có đến khoảng 20 chợ đường biên
được thiết lập. Trong số đó, có những chợ tương đối lớn như
Cát Ma ở Tịnh Tây, Bình Mạnh ở Na Pha, Thạc Long ở Lôi
Bình (nay thuộc huyện Đại Tân, Quảng Tây). Do đó mà Đại
Liên, Bằng Tường, ải Quan Tiền càng trở nên sầm uất. Bên
cạnh đó, Tô Nguyên Xuân còn cho “tu sửa ngàn dặm đường”,
hình thành nên mạng lưới giao thông lấy Long Châu làm
trung tâm. Ông còn cho nạo vét bãi Ba Diệu trên sông Minh
Giang làm cho giao thông thuỷ được nối liền thuận lợi. Tô
Nguyên Xuân còn cho lập “Ung Long lợi tế cục”, xúc tiến việc
phát triển ngành hàng hải ở Long Châu đồng thời cho xây
dựng một số con đường từ Tịnh Tây đến cửa ngõ biên giới
phía Tây Nam.
Năm 1885, triều đình nhà Thanh lập trạm Hải quan ở Long
Châu. Long Châu trở thành cửa khẩu thông thương ra bên
ngoài đầu tiên của tỉnh Quảng Tây, có vị trí hết sức quan
trọng đối với giao thương khu vực. Hàng hoá nhập khẩu
qua Long Châu chủ yếu là các nguồn lâm, thổ sản nhưng về
sau có thêm nhiều sản phẩm của châu Âu đặc biệt là Pháp.
Hàng xuất khẩu có: Tơ lụa, dầu lạc, đường, trà, đồ sứ, giấy,
nồi gang, giầy dép, thuốc phiện Doanh nhân buôn bán hai
nước sử dụng song song hai loại tiền là tiền bạc Đông
Dương do Pháp lưu hành và loại tiền giấy “Quế tệ ”. Nhưng,
sau khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, do thể chế chính trị nhà
Thanh bị lung lay đến tận gốc rễ nên ở Quảng Tây “Quế tệ”
không còn được sử dụng nữa. Tuy nhiên, cửa khẩu Long
Châu vẫn là một trung tâm thương nghiệp lớn của miền tây
nam Trung Quốc và được coi là “Biên tái bất dạ thành”
(Thành thị nơi biên ải không có đêm), còn chợ Thuỷ Khẩu
thì được coi như một “Quảng Châu nhỏ” và chợ Hướng Thuỷ
trở thành một trong 8 chợ lớn nhất ở Quảng Tây(26). Sự
phát triển của các trung tâm kinh tế đó đã có sức hút lớn đối
với nhiều dòng thiên di đến sinh sống lâu dài.
Bên cạnh đó, việc buôn bán cũng đạt đến độ phồn vinh ở
Trấn Biên (nay là huyện Na Pha, Trung Quốc). Do nằm ở vị
trí tiếp giáp giữa Quảng Tây - Vân Nam và Việt Nam, từ
Trấn Biên có hai con đường thông đến Vân Nam và Việt
Nam, trong đó đường hướng đến Vân Nam chạy qua Phú
Ninh, Quảng Nam, Văn Sơn, Khai Viễn Đó là con đường
xuất nhập khẩu hàng hoá chính yếu của huyện Trấn Biên và
Vân Nam. Con đường thứ hai là từ phố Trấn Ngọc của huyện
Thành đến Bình Mạnh rồi đến thôn Na Bố, qua đồn Thuỷ
Lộng rồi nối với Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Đó là
những mạch nối thông thương, buôn bán, xuất nhập khẩu
chủ yếu với Việt Nam. Hệ thống giao thương này, do ít tác
động bởi điều kiện chiến tranh nên luôn được duy trì trong
trạng thái tương đối ổn định.
4. Quan hệ Việt - Trung trước xu thế hội nhập khu vực
Sau khi Việt Nam (1945) và Trung Quốc (1949) giành được
độc lập, trước những tác động lịch sử, quan hệ giữa hai đã
trải qua nhiều bước thăng trầm. Nhưng từ khi Trung Quốc
tiến hành chính sách cải cách, mở cửa (1978) và Việt Nam
thực hiện chính sách Đổi mới (1986) đến nay, quan hệ giao
lưu kinh tế, văn hóa giữa hai nước đã phát triển nhanh
chóng. Với Trung Quốc, sau 26 năm cải cách, tốc độ tăng
trưởng luôn đạt bình quân hàng năm là 9,4% và thực sự trở
thành kỳ tích mới trong lịch sử tăng trưởng của nền kinh tế
thế giới. Năm 2003 GDP của Trung Quốc tăng 9,1% đạt
khoảng 1.400 tỷ USD, năm 2004 tốc độ tăng trưởng lên tới
9,5% đạt khoảng 1.650 tỷ USD. Kinh tế Trung Quốc sở dĩ đạt
được tăng trưởng nhanh là do công cuộc cải cách mở cửa
không ngừng phát triển theo chiều sâu và tham gia mạnh
mẽ vào hoạt động của nền kinh tế khu vực, thế giới(27).
Trung Quốc không chỉ là một thị trường lớn mà còn là địa
bàn đầu tư quan trọng của nhiều nền kinh tế lớn, tập đoàn
kinh tế quốc tế trong đó nổi bật là: Nga, Liên minh châu Âu,
Mỹ và Nhật Bản. Năm 2001, việc Trung Quốc trở thành
thành viên WTO đã đánh dấu sự hội nhập kinh tế toàn cầu
của Trung Quốc, tạo ra thế và lực mới cho kinh tế Trung
Quốc trên trường quốc tế.
Trong quan hệ với các nước khu vực, Báo cáo chính trị Đại
hội XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1997 chủ
trương: “Cần phải kiên trì quan hệ hữu nghị láng giềng thân
thiện. Đây là chủ trương nhất quán của nước ta, quyết
không thay đổi. Đối với những vấn đề tranh chấp giữa nước
ta với các nước láng giềng, cần phải xuất phát từ đại cục
giữ gìn hòa bình và ổn định, thông qua hiệp thương và đàm
phán hữu nghị để giải quyết. Nếu ngay một lúc không giải
quyết được, có thể tạm gác lại cầu đồng tồn dị”(28). Báo cáo
chính trị Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm
2002 cũng tiếp tục xác định: “Chúng ta tiếp tục tăng cường
quan hệ hữu nghị láng giềng, kiên trì thân thiện với các
nước láng giềng, lấy các nước láng giềng làm đối tác, tăng
cường hợp tác khu vực đưa quan hệ giao lưu hợp tác với
các nước xung quanh phát triển lên một trình độ mới”(29).
Về phần mình, Việt Nam luôn coi Trung Quốc là một đối tác
có ý nghĩa chiến lược. Việc hai nước ký kết “Hiệp ước biên
giới trên đất liền giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước
CHND Trung Hoa”, “Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ giữa nước
CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa” và một số
hiệp định khác có ý nghĩa lịch sử sâu rộng, góp phần thúc
đẩy mạnh mẽ quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện giữa hai nước phát triển lên một tầm cao mới trong
thế kỷ XXI. Cùng với mối quan hệ song phương, tháng 11-
2002, “Hiệp định thương mại hợp tác kinh tế toàn diện
ASEAN - Trung Quốc” được ký kết đã tác động mạnh và trực
tiếp đến quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc
đồng thời tạo ra khuôn khổ cho việc xây dựng khu vực mậu
dịch tự do giữa ASEAN với Trung Quốc. Với các nước Đông
Nam Á, Trung Quốc đã có quan hệ lâu đời. Sự hiểu biết của
người Trung Hoa về khu vực rất sâu sắc. Đông Nam Á cũng
là nơi tập trung nhiều Hoa kiều và từ xưa họ luôn nổi tiếng
là những thợ thủ công và thương nhân giỏi. Hiện nay, việc
duy trì và cải thiện quan hệ với ASEASN không chỉ bảo đảm
lợi ích kinh tế mà còn bảo vệ an ninh phía nam cho Trung
Quốc. Sau khi ký “Hiệp định khung hợp tác kinh tế toàn diện
Trung Quốc - ASEAN” vào tháng 11-2002, ngày 1-1-2004,
khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN đã chính thức đi
vào hoạt động. Tháng 11-2004, Trung Quốc lại ký với
ASEAN “Thỏa thuận về mậu dịch hàng hóa” và “Thỏa thuận
về cơ chế giải quyết tranh chấp” của khu mậu dịch tự do
Trung Quốc - ASEAN. Từ tháng 12-1997 đến nay, thực hiện