Tải bản đầy đủ (.docx) (187 trang)

tình hình sử dụng vốn lưu động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp cổ phần thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.11 KB, 187 trang )

1

Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI
1.1.Khái niệm về vốn lưu động và vốn lưu động trong các doanh nghiệp cổ phần
thương mại
1.1.1.Khái niệm về vốn lưu động
a.Khái niệm về vốn lưu động
Mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành kinh doanh, ngoài tư liệu lao động ra còn
phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia quá trình sản xuất không
giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ
thông qua quá trình chế biến hợp thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao
phí mất đi trong quá trình sản xuất, đối tượng lao động chỉ có thể tham gia một chu kỳ
sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau phải dùng một đối tượng lao động khác. Cũng do
đặc điểm trên nên toàn bộ giá trị của đối tượng lao động được chuyển dịch toàn bộ một
lần vào sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận: một
bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục
(nguyên nhiên vật liệu ); một bộ phận khác là những vật tư đang trong quá trình chế
biến (sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm). Hai bộ phận này biểu hiện dưới hình
thái vật chất gọi là tài sản lưu động. Để phục vụ cho quá trình sản xuất còn cần phải dự
trữ một số công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế, vật đóng gói cũng được coi là tài sản
lưu động.
Mặt khác quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu
thông. Trong quá trình lưu thông, còn phải tiến hành một số công việc như chọn lọc,
đóng gói, xuất giao sản phẩm và thanh toán do đó trong khâu lưu thông hình thành
một số khoản hàng hoá và tiền tệ, vốn trong thanh toán
Tài sản lưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm trong
quá trình lưu thông thay chỗ nhau vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình


tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Như vậy, doanh nghiệp nào cũng cần phải cố một số vốn thích đáng để đầu tư
vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi là vốn lưu động
2

của doanh
nghiệp. Vốn lưu
động luôn được
chuyển hoá qua
nhiều hình thái
khác
nhau, bắt đầu từ
hình thái tiền tệ
sang hình thái dự
trữ vật tư hàng
hoá và cuối cùng
lại
trở về trạng thái
tiền tệ ban đầu
của nó. Quá trình
sản xuất kinh
doanh của doanh
nghiệp diễn ra
liên tục không
ngừng, cho nên
vốn lưu động
cũng tuần hoàn
không
ngừng, có tính
chất chu kỳ thành

chu chuyển của
tiền vốn.
Do sự chu
chuyển
không
ngừng nên
vốn lưu
động
thường
xuyên có
các bộ phận
tồn tại cùng một lúc dưới các hình thái khác nhau trong các
lĩnh vực sản xuất và lưu
thông.
Tóm lại vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng
trước về tài sản lưu động
và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất
của doanh nghiệp thực
hiện được thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động lưu động toàn
bộ giá trị ngay trong
một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn
sau một chu kỳ sản xuất.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của
quá trình tái sản xuất.
Qua phần trình bày trên có thể thấy trong cùng một lúc, vốn
lưu động của doanh
nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn lưu động và tồn
tại dưới những hình thái
khác nhau. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục,
doanh nghiệp phải có đủ vốn

lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau đó khiến cho các
hình thái có được mức
tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy, sẽ khiến cho việc
chuyển hoá hình thái
của vốn trong quá trình lưu động được thuận lợi. Nếu như
doanh nghiệp nào đó, không
đủ vốn thì tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp khó khăn, và do đó quá
trình sản xuất cũng bị
trở ngại hoặc gián đoạn.
Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá
trình vận động của vật
tư hàng hóa, tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm dự
trữ, sản xuất, tiêu thụ
của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn là
phản ánh sự vận động
của vật tư hàng hóa. Nhìn chung vốn lưu động nhiều ít là phản
ánh số lượng vật tư sử
dụng tiết kiệm
hay không, thời
gian nằm ở khâu
sản xuất và lưu
thông sản phẩm

hợp lý hay không
hợp lý. Bởi vậy
thông qua tình
hình lưu động
vốn lưu động còn

thể đánh giá một

cách kịp thời đối
với các mặt mua
sắm dự trữ, sản
xuất và tiêu thụ
của doanh
nghiệp.
b.Ý nghĩa
của vốn
lưu động
Vốn lưu
động là
yếu tố
không thể
thiếu được
đối với bất
kỳ một
doanh
nghiệp
nào muốn tiến
hành hoạt động
sản xuất kinh
doanh.Vốn lưu
động cùng một
lúc được
3

phân bổ khắp các
giai đoạn sản
xuất và tồn tại
dưới nhiều hình

thức khác nhau.
Muốn
cho quá trình sản
xuất và tái sản
xuất được liên tục
thì doanh nghiệp
phải có đủ vốn
đầu tư vào các
hình thái đó để
cho nó có được
một mức tồn tại
hợp lý và đồng
bộ, từ
đó giúp cho việc
luân chuyển vốn
được thuận lợi.
Nếu doanh
nghiệp không đủ
vốn thì
sẽ gặp không ít
khó khăn trong
khâu tổ chức sử
dụng vốn và gây
gián đoạn cho
tiến
trình sản xuất
kinh doanh.Vốn
lưu động còn là
công cụ để phản
ánh quá trình vận

động
của vật tư hay khác hơn là kiểm tra và phản ánh quá trình mua
sắm, dự trữ, tiêu thụ.
Do đó nó là điều kiện cần và đủ cho hoạt động sản suất kinh
doanh. Một nguồn lực dồi
dào về vốn lưu động sẽ giúp cho doanh nghiệp tự chủ trong
quá trình kinh doanh, nắm
bắt được các cơ hội tốt dể có thể đầu tư, tìm kiếm nguồn lợi
cho doanh nghiệp mình.
Đồng thời với việc nắm bắt đựơc tình hình biến động của thị
trường giúp cho hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và ngược lại, trong quá
trình kinh doanh thì
doanh nghiệp cũng không ít khi trường hợp mất mát, rủi ro,
giảm giá,. Nếu doanh
nghiệp không đủ vốn lưu động để đối phó thì có thể rơi vào
tình trạng khó đứng vững
trong nền kinh tế thị trường như hiện nay. Do đó vốn lưu động
là yếu tố nâng cao tính
cạnh tranh của doanh nghiệp.
c.Các nhân tố ảnh hưởng
Tùy thuộc vào các nhân tố như qui mô sản xuất, uy tín,
các mối quan hệ trong
quá trình kinh doanh, đặc điểm của từng ngành và các điều
kiện khách quan của nền
kinh tế trong khu vực mà nó tác động một cách trực tiếp lên
lượng vốn lưu động của
mỗi doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ thì khả năng phát triển
việc đầu tư vào tài sản cố

định là rất khó do qui mô không bảo đảm, nên phần lớn chỉ
nhờ vào sự vận động của
vốn lưu động.Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ cần một tỷ lệ vốn
lưu động cao chiếm
trong tổng số tài sản lớn hơn các doanh nghiệp lớn có khả năng
đầu tư vào tài sản cố
định. Bên cạnh đó, mỗi ngành khác nhau đều có đặc điểm kinh
doanh riêng nên lượng
vốn lưu động cần
cho hoạt động
sản xuất kinh
doanh cũng khác
nhau. Mặt khác,
các
mối quan hệ của
doanh nghiệp
cũng ảnh hưởng
lớn đến lượng
vốn lưu động.
Nếu
doanh nghiệp có
uy tín trên thị
trường, có mối
quan hệ tốt với
nhà cung ứng,
với khách
hàng, thì nhu
cầu về vốn lưu
động cũng ít đi
(xem xét giữa các

doanh nghiệp
đồng
nhất). Ngoài ra,
nếu nền kinh tế
ổn định thì doanh
nghiệp cũng yên
tâm hơn, nhu cầu
về vốn lưu động
lúc đó cũng sẽ
thấp hơn.
4

1.1.2.Vốn lưu
động trong
doanh nghiệp cổ
phần thương
mại
a.Tài chính và
các quan hệ tài
chính trong các
doanh nghiệp cổ
phần thương mại
Tài chính
là một hệ
thống các
mối quan
hệ tiền tệ
nảy sinh
trong quá
trình phân

phối tổng sản
phẩm xã hội và
thu nhập quóc
dân nhằm hình
thành và sử dụng
các quỹ
tiền tệ phục vụ
cho quá trình sản
xuất kinh doanh
và thực hiện các
chức năng quản

nhà nước của
doanh nghiệp
Tài chính
doanh
nghiệp là
một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự ra
đời của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ. Mức độ phát triển của tài
chính trong doanh
nghiệp phụ thuộc vào tính chất và nhịp độ phát triển của nền
kinh tế hàng hóa. Nền
kinh tế bao cấp đã sản sinh ra cơ chế quản lý tài chính doanh
nghiệp là bao cấp. Nền
kinh tế thị trường đã làm xuất hiện hàng loạt các quan hệ tài
chính mới. Do vậy tính
chất và phạm vi của hoạt động tài chính doanh nghiệp cũng có
những thay đổi đáng
kể.
Tài chính doanh nghiệp là tài chính của những tổ chức,

các đơn vị sản xuất kinh
doanh có tư cách pháp nhân. Tài chính doanh nghiệp là một
khâu quan trọng trong hệ
thống tài chính quốc gia, ở đó diễn ra các quá trình sản xuất
kinh doanh như: đầu tư,
cung ứng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ra thị
trường. Trong đó sự chu
chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của tài sản, vật
tư hàng hóa. Như vậy
xét về mặt bản chất thì các mối quan hệ tiền tệ và quỹ tiền tệ là
hình thức biểu hiện bên
ngoài của tài chính doanh nghiệp, mà đằng sau nó ẩn chứa
những quan hệ kinh tế phức
tạp, những luồng dịch chuyển giá trị gắn liền với việc tạo lập
và sử dụng quỹ tiền tệ.
Sự vận động đó không chỉ bó hẹp trong một chu kỳ kinh doanh
mà trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã
hội. Hay nói một cách
khác, sự vận động đó làm phát sinh ra các quan hệ kinh tế dưới
hình thức giá trị trong
các khâu của quá trình tái sản xuất giữa các doanh nghiệp với
các đối tác trong nền
kinh tế thị trường. Những quan hệ đó tuy chứa đựng những nội
dung kinh tế khác
nhau
những chúng có
những đặc trưng
giống nhau, luôn
tồn tại và phát

triển song song
với
sự tồn tại và phát
triển của doanh
nghiệp.Các quan
hệ kinh tế đó là:
- Nhóm
các quan
hệ kinh tế
giữa doanh
nghiệp với
nhà nước:
Nhóm
quan hệ
này phát sinh
trong quá trình
phân phối và tái
phân phối tổng
sản phẩm xã hội
và thu
nhập quốc dân
giữa ngân sách
nhà nước và
doanh nghiệp.
Đối với doanh
nghiệp nhà
5

nước, quan hệ
này có tính hai

chiều: nhà nước
cấp vốn cho
doanh nghiệp
hoạt động,
doanh nghiệp có
trách nhiệm sử
dụng vốn có hiệu
quả và bảo toàn
vốn, đồng thời có
trách nhiệm nộp
đầy đủ các khoản
vào nhân sách
nhà nước; còn đối
với các doanh
nghiệp cổ phần
thương mại thì
quan hệ này biểu
hiện cụ thể thông
qua các khoản
thuế
mà Doanh nghiệp
phải nộp vào
ngân sách nhà
nước.
- Quan hệ
kinh tế
giữa các
doanh
nghiệp với
thị trường

tài chính:
Doanh
nghiệp
thương mại thực hiện quá trình trao đổi mua bán các sản phẩm
nhằm thỏa mãn mọi
nhu cầu về vốn của mình. Trong quá trình đó doanh nghiệp
luôn phải tiếp xúc với thị
trường tài chính mà chủ yếu là thị trường tiền tệ và thị trường
vốn
+ Thị trường tiền tệ: Thông qua hệ thống ngân hàng,
doanh nghiệp thương mại
có thể tạo được nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn để tài trợ cho
hoạt động kinh doanh
của mình; đồng thời các doanh nghiệp phải mở tài khoản ở một
ngân hàng nhất định
để thực hiện các giao dịch mua bán qua chuyển khoản, do vậy
mối quan hệ tài chính
này trở hành mối quan hệ vốn có tính bền vững.
+ Thị trường vốn: Doanh nghiệp cổ phần có thể tạo
được nguồn vốn dài hạn
bằng cách phát hành chứng khoán như cổ phiếu, kỳ phiếu;
đồng thời có thể tham gia
kinh doanh chứng khoán trên thị trường này để kiếm lời.
- Quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp với các thị
trường khác: Với tư cách là
một chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp thương mại quan hệ với
thị trường cung cấp
đầu vào và thị trường phân phối đầu ra. Đó là thị trường hàng
hóa, dịch vụ, thị trường
sức lao động. Thông qua thị trường này, doanh nghiệp có thể

xác định đựơc nhu cầu
sản phẩm và dịch vụ cung ứng; trên cơ sở đó doanh nghiệp xác
định được số tiền đầu
tư cho kế hoạch kinh doanh, tiếp thị quảng cáo nhằm thỏa mãn
nhu cầu thị trường và
đạt lợi nhuận cao nhất với chi phí thấp nhất, nhờ đó doanh
nghiệp có thể đứng vững và
phát triển trong quá trình cạnh tranh.
b.Các hình thức huy động vốn kinh doanh trong các doanh
nghiệp cổ phần thương
mại
Nhiệm vụ
cơ bản của
hoạt động
tài chính
trong các
doanh
nghiệp cổ
phần
thương mại nói
riêng và các
doanh nghiệp cổ
phần nói chung là
đảm bảo cho
doanh
nghiệp có đầy đủ,
kịp thời số vốn
tối thiểu, cần thiết
và hợp pháp để
doanh nghiệp có

thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ hoạt
động sản xuất
kinh doanh
6

Vốn kinh
doanh
đóng vai
trò quan
trọng
trong quá
trình kinh
doanh
cũng như
cho sự phát triển
của các doanh
nghiệp. Một
doanh nghiệp có
đủ vốn là điều
kiện cần
thiết để biến mục
tiêu trong kinh
doanh trở thành
hiện thực, nhằm
đem lại lợi nhuận
cao cho doanh
nghiệp. Trái lại,
việc lựa chọn
mục tiêu kinh

doanh là lý tưởng
nhưng
sễ không trở
thành hiện thực
nếu nguồn vốn
không đáp ứng
đủ mọi nhu cầu
kinh
doanh của doanh
nghiệp.
- Vốn góp
cổ đông: Trong nền kinh tế thị trường, tùy theo loại hình
doanh
nghiệp và hình thức sở hữu mà doanh nghiệp có thể huy động
vốn kinh doanh từ nhiều
nguồn khác nhau. Đối với doanh nghiệp cổ phần, nguồn vốn
chủ yếu là do các cổ đông
đóng góp dưới hình thức mua cổ phần. Đây không phải là các
khoản nợ nên các doanh
nghiệp cổ phần được toàn quyền sử dụng vào hoạt động sản
xuất kinh doanh mà không
phải lo trả cho sở hữu của nó. Đặc điểm này cho thấy mức độ
tự chủ trong các doanh
nghiệp cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn này. Một
doanh nghiệp cổ phần có
vốn góp cổ phần càng lớn thì mức độ tự chủ về vốn càng cao
và ngược lại. Không thể
nói rằng doanh nghiệp cổ phần có tính tự chủ về vốn cao trong
khi phần lớn tài sản của
nó được tài trợ bởi nguồn vốn vay nợ hoặc chiếm dụng từ bên

ngoài.
- Phát hành cổ phiếu: Các doanh nghiệp cổ phần có thể
phát hành cổ phiếu
thông qua thị trường chứng khoán hoặc phát hành trực tiếp cho
các cổ đông của doanh
nghiệp. Nếu phát hành thông qua thị trường chứng khoán thì
doanh nghiệp cần niêm
yết các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt
động kinh doanh để
các nhà đầu tư có thể tham khảo đánh giá triển vọng của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp
có được quyền phát hành cổ phiếu thông qua thị trường chứng
khoán hay không tất cả
đều phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có đáp ứng đầy đủ những
điều kiện mà cơ quan
quản lý là Ủy ban chứng khoán Nhà nước đặt ra hay không.
Nếu đáp ứng không đầy
đủ điều kiện thì doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu thông
qua sở giao dịch
chứng
khoán dưới hình
thức trực tiếp; các
cổ đông trong
trường hợp này
có thể là công
nhân
viên của doanh
nghiệp hoặc các
đối tác thường
xuyên cung cấp

nguyên vật liệu
hoặc
mua hàng của
doanh nghiệp
- Phát
hành trái
phiếu: Nếu
vốn góp cổ
phần
không đủ
trang trãi
nhu cầu
kinh
doanh, doanh
nghiệp cổ phần
có thể huy động
thêm vốn kinh
doanh bằng cách
phát
hành trái phiếu.
Trái phiếu là một
loại hình chứng
khoán mà người
phát hành vay nó
và có trách nhiệm
thanh toán cả tiền gốc lẫn lãi cho chủ dở hữu trái phiếu khi đến
hạn.
7

Đối với

các doanh
nghiệp cổ
phần việc
phát hành
trái phiếu
để vay nợ
có một
số ưu điểm sau:
+ Chi phí
vay nó
bằng trái
phiếu là cố
định,
không phụ
thuộc vào
kết quả
kinh
doanh, trong khi
chi phí sử dụng
vốn từ phát hành
cổ phiếu lại phụ
thuộc vào lợi
nhuận
đạt được, nên chi
phí sử dụng vốn
bằng phát hành
cổ phiếu cao hơn
so với phát hành
trái phiếu.
+ Việc

phát hành
trái phiếu
giúp
doanh
nghiệp tăng vốn kinh doanh mà không
bị ảnh hưởng đến việc phân chia quyền kiểm soát doanh
nghiệp.
+ Phát hành trái phiếu là hình thức vay nợ dài hạn nên
chi phí này được tính
vào chi phí hoạt động tài chính, doanh nghiệp được tính chi phí
này dến lợi tức chịu
thuế. Đây là lợi thế lớn so với hình thức huy động vốn bằng cổ
phiếu (cổ tức chia cho
cổ đông không đựơc trừ ra khỏi lợi tức chịu thuế)
Tuy nhiên so với phát hành cổ phiếu, hình thức huy
động bằng trái phiếu cũng
có một số hạn chế như:
+ Trái phiếu là hình thức vay nợ có thời hạn nên doanh
nghiệp phải có kế hoạch
sử dụng và trả nợ phù hợp
+ Nếu doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ thì doanh
nghiệp vẫn phải có trách
nhiệm thanh toán với trái chủ
- Vốn tự có: Đây là số vốn mà doanh nghiệp tích lũy
được và được bổ sung từ
kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh
Mặt khác khi nguồn vốn tài chính của doanh nghiệp đã
được huy động với một
cơ cấu tối thiểu và chi phí vốn thấp nhất thì nhiệm vụ quan
trọng hơn đối với hoạt

động tài chính của doanh nghiệp còn là:
+ Doanh nghiệp cần đầu tư vào đâu và đầu tư như thế
nào cho phù hợp với hình
thức kinh doanh mà doanh nghiệp đã chọn để đạt được mục
tiêu kinh doanh.
+ Doanh nghiệp quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn
như thế nào để đưa ra các
quyết định thu chi phù hợp
c. Đặc điểm của vốn lưu động trong doanh nghiệp cổ phần
thương mại
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu
động nên
đặc điểm
vận
động của vốn lưu
động luôn chịu sự
chi phối bởi
những đặc điểm
của tài sản lưu
động,
vốn lưu động
luôn luôn thay
đổi hình thái biểu
hiện.
mua
BTP,
SDP
P
thàn
h

phẩ
m
b
á
n
Tiền
Tiền NVL, CCDC
8

Đặc điểm
của vốn
lưu động
là luân
chuyển
toàn bộ
một lần
giá trị vào
giá trị
sản phẩm và kết
thúc một vòng
tuần hoàn vốn
sau một chu kỳ
sản xuất kinh
doanh.
Trong các
doanh
nghiệp,
người ta
thường
chia TSLĐ

làm 2 loại
đó là
TSLĐ
dùng trong sản
xuất và TSLĐ
dùng trong lưu
thông.
- TSLĐ
dùng trong
khâu dự
trữ sản
xuất hoặc
chế biến:
NVL
chính, NVL phụ
công cụ dụng cụ; phụ tùng thay thế, bao bì vật liệu
- TSLĐ dùng trong khâu lưu thông bao gồm: các sản
phẩm, thành phẩm chờ
tiêu thụ, vốn bằng tiền; các khoản vốn trong thanh toán, các
khoản chi phí chờ kết
chuyển, chi phí trả trước được dùng cho việc lưu thông nhằm
thúc đẩy việc SXKD
diễn ra liên tục.
Để có điều kiện tốt cho việc sản xuất kinh doanh, mỗi
doanh nghiệp đều phải
bỏ ra một số vốn nhất định tại thời điểm ban đầu. Vì vậy nói
khác hơn rằng vốn lưu
động của doanh nghiệp là số vốn bằng tiền ứng trước về
TSLĐ. Vốn lưu động thuần
của doanh nghiệp (vốn luân chuyển) được xác định bằng tổng

giá trị tài sản lưu động
của doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ ngắn hạn.
Để phù hợp với đặc điểm của TSLĐ, VLĐ của doanh
nghiệp cũng luôn vận
động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh như dữ trữ sản
xuất, sản xuất và lưu
thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và lặp lại theo chu
kỳ hay còn gọi là tuần
hoàn chu chuyển vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ
kinh doanh, vốn lưu
động lại thay đổi hình thái biểu hiện và từ hình thái vốn bằng
tiền ban đầu chuyển sang
hình thái vốn vật tư dự trữ và vốn sản xuất rồi cuối cùng lại trở
về vốn bằng tiền ban
đầu. Sau mỗi chu kỳ tài sản sản xuất, vốn lưu động hoàn thành
một vòng luân chuyển.
d.Vai trò của vốn lưu động trong doanh nghiệp cổ phần
thương mại
Vốn lưu động là một nhân tố không thể thiếu được trong
quá trình sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp là điều kiện cần và đủ cho hoạt
động kinh doanh
của mỗi
doanh nghiệp
được diễn ra một
cách bình thường.
Do đó doanh
nghiệp nào cũng

một số vốn lưu

động thoả mãn
đáng để mua sắm
các loại tài sản.
Trong đó TSLĐ
sản
xuất và TSLĐ
lưu thông thay
thế nhau, vận
động không
ngừng để quá
trình sản xuất
kinh doanh tiến
hành thuận lợi.
Nếu quy mô và
khả năng vốn lưu
động đủ lớn sẽ
giúp
cho doanh nghiệp
có nhiều thuận lợi
hơn trong việc
làm chủ sản xuất
cũng như đẩy
mạnh tiêu thụ sản
phẩm. Bởi vì giá
cả thị trường do
quy luật cung cầu
tác động luôn
biến đổi liên tục,
lúc cao lúc thấp. Việc nắm bắt được tình hình này giúp cho quá
trình

9

sản xuất kinh
doanh đạt hiệu
quả cao hơn nữa,
trong quá trình
sản xuất kinh
doanh
không thể không
gặp những rủi ro
mất mát hư hỏng,
giá cả bị giảm
mạnh. Nếu
Doanh
nghiệp không có
lượng vốn lưu
động đủ lớn ở
trường hợp này
giúp cho quá
trình sản
xuất kinh doanh
đạt hiệu quả cao
hơn nữa, trong
quá trình sản xuất
kinh doanh không
thể không gặp
những rủi ro mất
mát hư hỏng, giá
cả bị giảm mạnh.
Nếu Doanh

nghiệp
không có lượng
vốn lưu động đủ
lớn ở trường hợp
này sẽ làm cho
Doanh nghiệp
khó
đứng vững. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, cạnh
tranh trong kinh doanh rất
gay gắt, vốn lưu động là yếu tố nâng cao tính cạnh tranh của
các doanh nghiệp, nâng
cao uy tín của doanh nghiệp trong thị trường.
Mặc khác, do đặc điểm tuần hoàn của vốn lưu động
trong cùng một lúc nó phân
bổ trên các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình
thái khác nhau. Để tổ
chức hợp lý tuần hoàn của các tài sản ở các doanh nghiệp, để
quá trình sản xuất kinh
doanh được diễn ra nhịp nhàng, liên tục, doanh nghiệp phải có
đủ vốn để đầu tư vào
các hình thái khác nhau. Tổ chức cơ cấu vốn lưu động hợp lý
sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Vậy vốn lưu động có vai trò quan trọng tại mỗi doanh
nghiệp, khả năng huy
động vốn và sử dụng vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh của doanh
nghiệp. Do đó trong quá trình phải xác định đúng đắn quy mô
cũng như cơ cấu của
lượng vốn này, tránh tình trạng thiếu hụt hay lãng phí vốn lưu

động. Muốn vây doanh
nghiệp phải có kế hoạch cụ thể về quy trình huy động và sử
dụng vốn lưu động trong
quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
1.2. Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn
lưu động trong các doanh nghiệp Cổ phần thương mại.
1.2.1. Khái niệm phân tích vốn lưu động :
Phân tích tình hình quản lý sử dụng vốn lưu động là tập
hợp các khái niệm,
phương pháp, công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và
một số các thông tin
khác. Tuy nhiên, đấy không phải là quá trình tính toán các chỉ
số, chỉ tiêu mà là quá
trình tìm hiểu,
đánh giá, đưa ra
những nhận xét
về các kết quả
của sự quản lý và
sử
dụng vốn lưu
động ở doanh
nghiệp, qua đó
kiến nghị các
biện pháp để phát
huy những
điểm mạnh, khắc
phục những mặt
hạn chế của
doanh nghiệp và

đưa ra những
quyết
định quản lý phù
hợp.
10

- Sự cần
thiết của
việc phân
tích:
Vốn lưu
động có ý
nghĩa rất
lớn trong
quá trình
sản xuất
kinh doanh
của mỗi
doanh nghiệp, có
nhiều đối tượng
quan tâm đến tình
hình tài chính của
doanh nghiệp
vì nó gắn liền với
lợi ích lâu dài của
chính họ. Tuy
nhiên, không chỉ
đơn thuần dựa
vào
các con số trên

báo cáo tài chính
vì nó chưa phản
ánh đầy đủ, toàn
diện các thông tin
mà các đối tượng
cần quan tâm. Vì
vậy, tiến hành
phân tích tình
hình quản lý, sử
dụng
vốn lưu động là
một đòi hỏi khách quan. Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình
tài
chính trên nhiều góc độ khác nhau và có xu hướng tập trung
vào những khía cạnh
riêng phục vụ cho mục đích của mình.
- Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp: Mối quan tâm
hàng đầu của họ là quản
lý sử dụng vốn lưu động như thế nào để có hiệu quả, thông qua
việc phân tích tình
hình quản lý sử dụng vốn lưu động họ có thể lập ra kế hoạch
sử dụng vốn lưu động tốt
hơn, có những quyết định về tồn trữ tiền mặt, hàng hoá,
nguyên vật liệu phù hợp với
chính sách tín dụng đúng đắn nhất nhằm lựa chọn các phương
án kinh doanh, huy
động vốn.
- Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các chủ nợ
khác họ chú ý đến khả
năng thanh toán, khả năng trả nợ hiện tại và tương lai, hiệu quả

sử dụng vốn của doanh
nghiệp để quyết định cho vay hay bán chịu
Do những lợi ích trên nên trong quá trình kinh doanh phải
xác định cơ cấu vốn
lưu động một cách hợp lý tránh thiếu hụt hay lãng phí. Mỗi
doanh nghiệp phải có kế
hoạch cụ thể về sử dụng vốn lưu động trong các kỳ sản xuất
kinh doanh của mình.
1.2.2. Tài liệu phân tích
Tài liệu sử dụng để phân tích là những số liệu, dữ liệu,
chứng từ, sổ sách có liên
quan mà nhà phân tích cần phải dựa vào đó làm cơ sở để phân
tích.
Ý nghĩa của những tài liệu này là nhằm cung cấp những
thông tin chính xác về
tình hình của doanh nghiệp cho nhà phân tích nhằm phục vụ
cho việc phân tích được
thuận lợi.
- Bảng
cân đối kế
toán :
+ Nội
dung của
bảng cân
đối kế
toán
BCĐKT là
một báo
cáo tài
chính tổng

hợp, phản
ánh tổng
quát tình
hình tài
sản
và nguồn hình
thành tài sản của
doanh nghiệp
dưới hình thái
tiền tệ tại một
thời điểm
nhất định. Thời
điểm đó thường
là cuối tháng,
cuối quí, cuối
năm. Gồm hai
phần :
11

Phần tài
sản phản
ánh toàn
bộ giá trị
tài sản
hiện có
của doanh
nghiệp tại
thời
điểm báo cáo
theo cơ cấu tài

sản và hình thức
tồn tại trong quá
trình kinh doanh
doanh
nghiệp. Các tài
sản được sắp xếp
theo khả năng
hoán chuyển
thành tiền theo
thứ tự
giảm dần hoặc
theo độ dài thời
gian để chuyển
hoá tài sản thành
tiền.
Phần
nguồn vốn
phản ánh
toàn bộ
nguồn
hình thành
tài sản
hiện có ở
doanh
nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các loại nguồn vốn được sắp
xếp theo trách nhiệm
của doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn vốn đối với các
chủ nợ và chủ sở hữu.
+ Ý nghĩa của BCĐKT :
BCĐKT có ý nghĩa về mặt kinh tế và pháp lý. Về mặt

kinh tế : số liệu phần tài
sản cho phép nhà phân tích đánh giá một cách tổng quát qui
mô và kết cấu tài sản của
doanh nghiệp. Số liệu phần nguồn vốn phản ánh các nguồn tài
trợ cho tài sản của
doanh nghiệp, qua đó đánh giá thực trạng tài chính của doanh
nghiệp. Về mặt pháp lý :
số liệu phần tài sản thể hiện giá trị các loại tài sản hiện có mà
doanh nghiệp có quyền
quản lý và sử dụng lâu dài để sinh lợi. Phần nguồn vốn thể
hiện phạm vi trách nhiệm
và nghĩa vụ của doanh nghiệp về tổng số vốn kinh doanh với
chủ nợ và chủ sở hữu.
Như vậy, tài liệu từ BCĐKT cung cấp những thông tin tổng
hợp về tình hình huy động
và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
+ Nội dung báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài
chính tổng hợp, phản ánh
tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
trong một thời kỳ (quý,
năm) chi tiết theo các loại hoạt động, tình hình thực hiện nghĩa
vụ của doanh nghiệp
với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác.
+ Ý nghĩa của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có ý nghĩa rất lớn
trong việc đánh giá
hiệu quả kinh doanh và công tác quản lý hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.

Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm
tra tình hình thực
hiện
kế hoạch thu
nhập, chi phí và
kết quả từng loại
hoạt động cũng
như kết quả
chung toàn
doanh nghiệp. Số
liệu trên báo cáo
này còn là cơ sở
để đánh giá
khuynh hướng
hoạt
động của doanh
nghiệp trong
nhiều năm liền,
dự báo hoạt động
trong tương lai.
Thông
qua báo cáo kết
quả hoạt động
kinh doanh có thể
đánh giá được
hiệu quả và khả
năng
sinh lợi của
doanh nghiệp :
Đây là một trong

các nguồn thông
tin rất bổ ích cho
người
12

ngoài doanh
nghiệp trước khi
ra quyết định đầu
tư vào doanh
nghiệp. Số liệu
trên báo
cáo kết quả kinh
doanh còn cho
phép đánh giá
tình hình thực
hiện nghĩa vụ đối
với nhà
nước về thuế và
các khoản phải
nộp khác, đặc
biệt là thanh
quyết toán thuế
GTGT, qua
đó đánh giá phần
nào tình hình
thanh toán của
doanh nghiệp.
+ Các
thông tin
khác :

Bên cạnh
việc sử
dụng các
BCTC cần
được sử
dụng thêm
các sổ chi
tiết, các
hợp đồng kinh
tế .v.v để phân
tích tình hình quản lý sử dụng VLĐ được cụ thể hơn,
hoàn thiện hơn.
Chẳng hạn, dựa vào sổ chi tiết công nợ ta biết được các
khoản phải thu của
doanh nghiệp đối với từng khách hàng, từ đó có biện pháp
thích hợp đối với mỗi khách
hàng, hoặc khi hàng tồn kho tăng thì dựa vào sổ chi tiết thành
phẩm tồn kho, ta biết
được loại hàng nào còn tồn đọng, loại nào thích ứng trên thị
trường, từ đó ta quyết
định đúng đắn, phù hợp .
Tuy nhiên, khi phân tích không chỉ giới hạn trong phạm
vi các BCTC hay sổ
chi tiết mà mục tiêu của phân tích là đưa ra những dự báo giúp
việc ra quyết định về
vốn trong tương lai của doanh nghiệp. Vì vậy, cần quan tâm
đến các thông tin chung
như :
Những thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh
nghiệp:

Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng trong tổ
chức sản xuất kinh
doanh và trong phương hướng hoạt động nên để đánh giá tình
hình tài chính, nhà phân
tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm hoạt động của doanh
nghiệp, bao gồm :
* Mục tiêu và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp,
gồm cả chiến lược tài
chính và chiến lược kinh doanh.
* Tính thời vụ, tính chu kỳ trong hoạt động kinh doanh.
* Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp,
khách hàng, và các đối
tượng khác.
* Các chính sách hoạt động khác
Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế :
Thông tin về tăng trưởng kinh tế, suy thoái kinh
tế.
Thô
ng
tin
về
lãi
suất
ngâ
n
hàn
g,
trái
phi
ếu

kho
bạc,
tỷ
giá
ngo
ại
tệ.
Thô
ng
tin
về
lạm
phá
t.

×