Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Một số vấn đề liên quan tới lao động trong các Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.94 KB, 36 trang )

Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
LỜI MỞ ĐẦU
Ở nước ta hiện nay, số người không có việc làm khá nhiều, thêm vào đó hàng
năm có hàng triệu lao động bổ xung cho thị trường sức lao động làm cung vượt quá
cầu ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả nhân công. Với giá nhân công rẻ, nguồn lao động
phong phú cộng nền chính trị ổn định thì đây là điều kiện thuận lợi để thu hút các
doanh nghiệp ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Các công ty nước ngoài đã sử dụng
một khối lượng lao động lớn để giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn lao động
nhưng chất lượng và môi trường lao động cho người Việt Nam ở các công ty có vốn
đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập, do chạy theo lợi nhuận các công ty này ít quan
tâm tới vấn đề an toàn vệ sinh lao động, làm việc trong môi trường độc hại, cường độ
căng thẳng, không có nhà ở gây khó khăn cho công nhân cùng với đó là vấn đề trả
lương cho người lao động chưa được hợp lý có tình trạng 2-3 tháng công nhân không
được trả lương hoặc trả lương không đúng như hợp đồng đã ký kết.... Từ đó phát sinh
các mâu thuẫn gây ra sự tranh chấp lao động trong doanh nghiệp.
Ngoài ra các chính sách, quy định của nhà nước về tiền lương, tiền thưởng chưa được
các công ty thực hiện tốt. cần có biện pháp cụ thể giám sát chặt chẽ và thực hiện các
quy định của Bộ luật lao động.
Từ những vấn đề bức xúc cần quan tâm giải quyết ở trên, em chọn đề tài "
Một số vấn đề liên quan tới lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài " làm đề án môn học của mình và đưa ra những nhận xét đánh giá của mình để
có thể giúp ích phần nào giải quyết những khúc mắc trên.
Bài viết chia làm 3 phần chính:
Chương1: một số vấn đề liên quan tới lao động trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và các nhân tố ảnh hưởng.
Chương 2: Thực trạng về AN – VSLĐ, việc làm, thu nhập và tranh chấp lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp về vấn đề liên quan đến lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- 1 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo


Là một sinh viên năm thứ 4, đang còn trong quá trình nghiên cứu khoa học. Vì
vậy, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Mong sao những thiếu
sót và hạn chế của bài viết được thầy cô và bạn đọc cho lời nhận xét để đề án môn
học được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chuyển lời tới TS. Vũ Hoàng Ngân lời cảm ơn chân thành
nhất về sự chỉ bảo tận tình chu đáo của cô, đã giúp em hoàn thành tốt đề án môn học
của mình.
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị thu Thảo
- 2 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI LAO ĐỘNG TRONG
CÁC DN CÓ VỐN ĐTNN VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG.
I.Một số vấn đề liên quan tới lao động trong các DN có vốn DTNN.
Đặc điểm của lao động trong các doanh nghiệp có vốn DTNN.
Với dân số khá đông, Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào lại là
một nước đang phát triển, nền kinh tế còn trong giai đoạn chuẩn bị cất cánh. Vì vậy
chi phí trả cho lao động việt nam khá rẻ so với các nước trong khu vực. Kết hợp với
nguồn tài nguyên phong phú đa dạng và nền chính trị ổ định, Việt Nam được coi là
điểm dừng chân lý tưởng của các nhà đầu tư. Mức lương hấp đẫn hơn các doanh
nghiệp nhà nước do vậy lao động đổ xô vào các doanh nghiệp nước ngoài khá đông
nhưng đa số là lao động trẻ và lao động đang trong giai đoan tích lũy.
Các doanh nghiệp nước ngoài đòi hỏi sự nhanh nhạy và sự dẻo dai bền bỉ của sức trẻ
cho nên lực lượng lao động trong khu vực này ở độ tuổi chủ yếu là 20-35, do tính
chất công việc, yêu cầu khắt khe trong sản xuất mà lao động trong khu vực này chấp
hành tính kỷ luật khá cao.
2. Một số vấn đề liên quan đến lao động trong các doanh nghiệp nước
ngoài.
Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước nói chung và trong
các doanh nghiệp nước ngoài nói riêng đều bị chi phối bởi nhiều vấn đề khác nhau,

các vấn đề đó có ảnh hưởng tốt hay xấu tới kết quả kết quả hoạt động, đời sống của
người lao động từ đó ảnh hưởng lớn tới năng suất lao động của cả doanh nghiệp.
Nhất là trong các doanh nghiệp nước ngoài các vấn đề như an toàn- vệ sinh lao động,
việc làm, thu nhập, tranh chấp lao động càng cần xem xét kỹ.
2.1 An toàn và vệ sinh lao động.
Khái niệm: An toàn lao động là tình trạng điều kiện lao động không gây nguy
hiểm trong sản xuất.
Điều kiện lao động là tập hợp các yếu tố của môi trường lao động( yếu tố vệ
sinh, tâm sinh lý, tâm lý xã hội, thẩm mỹ) có tác động lên trạng thái, chức năng của
- 3 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
cơ thể con người, khả năng làm việc, thái độ lao động, sức khỏe, quá trình sản xuất
sức lao động và hiệu quả lao động của họ trong hiện tại cũng như trong lâu dài.
Sự cần thiết nghiên cứu vấn đề an toàn vệ sinh lao động:
Một trong những mục tiêu của doanh nghiệp đó là tăng năng suất lao động dẫn tới
tăng ồ ạt sản phẩm bằng cách thúc đẩy người lao động làm việc nhiều hơn. Nhưng
trong quá trình lao động dù sử dụng công nghệ thông thường hay công nghệ hiện đại,
đều phát sinh và tiềm ẩn những yếu tố nguy hiểm, có hại. Nếu không được phòng
ngừa cẩn thận, chúng có thể tác động gây chấn thương, bệnh nghề nghiệp đối với
người, làm giảm sút hoặc mất khả năng lao động hoặc tử vong. Cho nên, việc chăm
lo cải thiện điều kiện lao động đảm bảo nơi làm việc an toàn, vệ sinh vừa là quyền lợi
của cả người sử dụng lao động và người lao động, đồng thời đó là một trong những
yếu tố quan trọng để phát triển sản xuất và tăng năng xuất lao động. Chính vì vậy,
công tác bảo hộ lao động có vị trí rất quan trọng và là một trong yêu cầu khách quan
của hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2 Việc làm và thu nhập.
( 1 ) Việc làm
Khái niệm: Là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và điều
kiện cần thiết để sử dụng sức lao động đó.
Tạo việc làm: Là quá trình tạo ra sản lượng, chất lượng, tư liệu sản xuất, số

lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư
liệu sản xuất và sức lao động.
( 2 ) Thu nhập.
Khái niệm: Là tất cả khoản tiền mà người lao động nhân được.
Sự cần thiết: Các doanh nghiệp nước ngoài hiện nay tạo ra khối lượng việc
làm rất lớn, vấn đề tạo việc làm cho người lao động là rất cần thiết nhằm giảm thất
nghiệp, công nghiệp hóa là xu hướng tất yếu đối với các quốc gia muốn nhanh chóng
thoát khỏi tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, mức sống thấp sang
nền kinh tế công nghiệp, năng suất cao. Trong quá trình phát triển nền kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo chuyển dịch cơ lao động. Vì vậy, có nghề
mới, hoạt động sản xuất mới ra đời, trong khi một số nghề cũ, hoạt động cũ bị mất đi,
thất nghiệp phát sinh, có việc làm đồng nghĩa có thu nhập nâng cao vị thế của người
- 4 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
lao động trong gia đình và ngoài xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, hạn chế các
tiêu cực xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và bình ổn xã hội. nếu không có việc
làm sẽ không có thu nhập, không có điều kiện thỏa mãn nhu cầu chính đáng về vật
chất, tinh thần của người lao động , chất lượng cuộc sống giảm sút. Như vậy việc làm
và thu nhập là các vấn đế mà không chỉ các doanh nghiệp mà các quốc gia đều phải
lưu tâm, nhất là trong các doanh nghiệp nước ngoài chất lượng lao động quyết định
rất lớn tới hiệu quả sản xuất và cần phải nghiên cứu để đưa ra các biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng cho người lao động.
2.3 Tranh chấp lao động
Khái niệm: Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích liên
quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện khác về thực hiện hợp đồng
lao động, thỏa ước tập thể và trong quá trình học nghề.
Khi làm việc trong các doanh nghiệp nước ngoài, người lao động thường chịu rất
nhiều áp lực về tiền lương, thu nhập, hợp đồng lao động…vv thường từ phía người
sử dụng lao động từ đó có thể dẫn tới các mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ, giữa
người lao động và người sử dụng lao động kiến cho hoạt động của sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp không tốt. Chính vì vậy để giải quyết ổn thỏa những mâu
thuẫn này cần phải xem xét nguyên nhân, và tìm ra những biện pháp để hạn chế và
ngăn ngừa những mâu thuẫn đó.
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới an toàn lao động, việc làm, thu nhập,
tranh chấp lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1. Người lao động.
Có thể nhận thấy rằng người lao động là một trong những nguyên nhân lớn
gây tác động tới ATLĐ, VSLĐ, thu nhập, tranh chấp lao động. Như nguyên nhân
chính gây nên tai nạn lao động chết người nói riêng là do người lao động vi phạm an
toàn, vệ sinh lao động. trong các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nước ngoài luôn
luôn có đầu tư kinh phí rất lớn để cải thiện điều kiện lao động, trang bị bảo hộ lao
động, huấn luyện công tác an toàn, vệ sinh lao động, nhưng một sai lầm là không coi
trọng công tác tuyên truyền giáo dục cho người lao động có ý thức chấp hành quy chế
an toàn, vệ sinh lao động. Như vậy người lao động có ý thức kém trong vấn đề an
toàn vệ sinh lao động. Do đó dẫn tới những thiếu sót trong hoạt động sản xuất cuả
- 5 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
người trực tiếp điều khiển, những nhân viên bảo quản, người quan sát,...vv. Bên cạnh
vấn đề an toàn vệ sinh lao động, đó là vấn đề về thu nhập và việc làm. Trong bối
cảnh một đất nước đang phát triển như việt nam, cung về số lượng lao động không
phải là vấn đề đáng bàn vì dư cung.
Vấn đề quan trọng hơn là chất lượng sức lao động, khi làm việc cho các doanh
nghiệp nước ngoài không phải bất cứ cá nhân nào cũng có một mức lương khá ổn mà
đó còn tùy thuộc vào sức lao động mà người lao động bỏ ra. Do vậy người lao động
muốn kiếm được việc làm và nhất là việc làm có thu nhập cao phù hợp với năng lực,
trình độ, cần có thông tin thị trường lao động, cần đầu tư cho sức lao động của mình
tức đầu tư cho vốn con người cả về thể lực và trí lực, luôn luôn bồi bổ, tìm tòi học
hỏi
. 2. Trình độ tổ chức và quản lý.
Bên cạnh ý thức kỷ luật của người lao động thì tổ chức công đoàn có vai trò

quan trọng trong công tác an toàn- sức khỏe thu nhập của tổ chức.
Nhiều cán bộ quản lý có trách nhiệm về mặt xã hội và chủ sở hữu đã lưu tâm tới vấn
đề an toàn sức khỏe, tổ chức thực hiện thanh tra báo cáo theo định kỳ, phổ biến tới
toàn thể người lao động, trang bị đầy đủ các dụng cụ an toàn lao động, tổ chức một
cuộc diễn tập phòng chống tai nạn trong quá trình sản xuất giúp cho người lao động
tiếp cận và sử lý kịp thời khi có tình huống đó xảy ratrong công tác giảm an toàn lao
động hay cũng như tăng thu nhập của người lao động thì vai trò của tổ chức, quản lý
khá là quan trọng. Để người lao động hoàn thành công việc được tốt, suất sắc thì cần
phải có sự hướng dẫn của người quản lý. Vậy người quản lý phải quản lý như thế
nào? Người quản lý phải hiểu từng loại đối tượng, loại lao động, công việc cụ thể để
có cách quản lý phù hợp. Người lao động làm việc tốt hay không, đạt hiệu quả cao
hay không một phần lớn phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý của người sử dụng
lao động.
3. Đặc điểm nghành nghề.
Tùy thuộc vào nghành nghề khác nhau mà người lao động có mức thu nhập
khác nhau. Đối với người công nhân sản xuất thường làm việc theo dây truyền sản
xuất, sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm khác hẳn với người quản lý không thể dựa
vào khối lượng công việc mà họ làm ra để xác định lương cho họ, và thu nhập của
- 6 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
hai đối tượng này cũng khác nhau. Thường nghành nghề đòi hỏi lượng chất xám cao
thì mức lương được đánh giá là cao hơn so với nghành nghề lao động thủ công và tùy
thuộc vào đặc điểm của nghành nghề này mà việc áp dụng hướng dẫn công tác an
toàn lao động khác nhau, mỗi nghành nghề gây ra những ảnh hưởng khác nhau, vì
vậy phải có cách phòng hộ riêng biệt.
- 7 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ AT-VSLĐ, VIỆC LÀM, THU NHẬP
VÀ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI.
1. An toàn và sức khỏe người lao động.
Cùng bước nhịp với nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhà nước đưa ra các
chính sách khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài thuộc các thành phầm kinh tế, các
tổ chức cá nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các khu công
nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng cao trong khu vực
này.
Nhiều khu công nghiệp có từ 90%-100% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
như khu công nghiệp: Sài Đồng (Hà Nội), khu chế xuất Linh Trung (TP.HCM), khu
công nghiệp AMATA(Đồng Nai)…Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp chủ yếu
đầu tư vào lĩnh vực gia công, lắp giáp và sản xuất các sản phẩm công nghiệp để xuất
khẩu và tiêu thụ thị trường trong nước với các mặt hàng chủ yếu là hàng may mặc
xuất khẩu, lắp giáp điện tử, lương thực thực phẩm. Các doanh nghiệp đã thu hút một
lượng lao động đáng kể đặc biệt là lao động nữ.Ví dụ ở khu chế xuất Tân
thuận(tp.HCM) với 84 doanh nghiệp sử dụng 16034 lao động trong đó có 11334 là
lao động nữ; hoặc khu chế xuất Linh trung với 14 doanh nghiệp trong đó có 7844 lao
động nữ. Nhiều doanh nghiệp trong khu chế xuất đã sử dụng hơn 90% lao động nữ
như tại công ty TNHH Bultel- internationl(khu công nghiệp Biên Hòa 2) chuyên sản
xuất hàng may mặc xuất khẩu của Đức, nữ chiếm tới 92% lượng lao động. Do được
xây dựng biệt lập với khu dân cư và có lợi thế về cơ sở hạ tầng ban đầu cũng như vốn
ĐTNN mà doanh nghiệp có điều kiện xây dựng cơ sởa sản xuất, thiết kế nhà xưởng
theo đúng tiêu chuẩn an toàn- vệ sinh lao động. Nhìn chung người lao động làm việc
ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại các khu chế xuất, khu công nghiệp được
hưởng điều kiện lao động thuận lợi, tiện nghi hơn do những dây truyền công nghệ
được cơ giới hóa, tự động hóa, làm giảm bớt cáccông việc thủ công, các yếu tố nguy
hiểm, độc hại, môi trường làm việc cũng được cải thiện, ít ôi nhiễm và khang trang
- 8 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
sạch sẽ hơn.Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã áp dụng những kinh nghiệm tốt trong
quản lý lao động đặc biệt là đảm bảo vệ sinh và an toàn cho người lao động. Trong

các khu công nghiệp người sử dụng lao động trong nhiều doanh nghiệp đã nhận thức
được đúng mối quan hệ giữa cải thiện điều kiện lao động và năng suất lao động cũng
như sự khang trang và bề thế của công ty là lời bảo đảm uy tín chất lượng hàng hóa
của doanh nghiệp mình với bạn hàng.
Bên cạnh đó, trong khu vực này người lao động đang phải đối đầu với cường độ
làm việc căng thẳng, gánh nặng tâm lý, làm việc trong dây truyền công nghệ mới với
tư thế không phù hợp. Qua nghiên cứu tìm hiểu về an toàn – sức khỏe của người lao
động có vốn ĐTNN tại khu công nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lắp giáp điện tử,
may mặc, giầy da, chế biến nông sản và hải sản nhận thấy:
Người lao động khi làm việc phải thực hiện những thao tác đơn điệu đòi hỏi phải
tập chung cao độ các giác quan để hoàn thành nhanh chóng các nhiệm vụ của mình
trong dây truyền. Họ gần như phụ thuộc vào nhịp độ dây truyền công nghệ khép kín,
có công đoan phải đứng suốt một ca. Chính vì vậy người lao động trụ lại được ở
doanh nghiệp thường là người có sức khỏe dẻo dai, tác phong nhanh nhẹn, đi nhanh,
làm nhanh, nhanh mắt,nhanh tay, đã không ít người lao động ngất tại nơi làm việc do
chưa quen, quá mệt mỏi, căng thẳng.
Số liệu điều tra:Dây truyền lắp giáp trong doanh nghiệp ĐTNN.(SÀI ĐỒNG)
Nhịp điệu thao tác tăng 1.84(lần)
Mức độ mệt mỏi căng thẳng tăng qua độ run rẩy của
Tay chân
1.2(lần)
Mức độ mệt mỏi do nhịp đập của tim tăng 1.22(lần)
Kết quả điều tra chỉ ra rằng chỉ số thần kinh tâm lý, thị giác sau lao động giảm
hơn trước lao động, nhịp điệu thao tác tăng hơn so với trước là 1.84 lần từ đó dẫn tới
sự căng thẳng trong làm việc, mệt mỏi thông qua độ run rẩy của chân tay, nhịp đập
của tim tăng lên rất nhiều so với người làm việc ngoài dây truyền. Bên cạnh đó do
khâu nhập khẩu chưa chặt chẽ, nhập các thiết bị máy móc cũ lạc hậu, nhiều dây
truyền sản xuấttừ những naem 1974 đã hết hạn gây ô nhiễm môi trượngg và ản
hưởng đến suất khẩu của người lao động, ngoài ra, công nghệ mới cũng xuất hiện
những bất lợi, độc hại mới, người lao động phải làm việc ở nhiều vị trí có tư thế

- 9 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
không phù hợp gây sự mệt mỏi tâm lý. Kết quả điều tra 106 lao động kỹ thuật cao
trong ngành nhiệt điện, xi măng, truyền tải, phân phối điện cho thấy:
Các trung tâm điều khiển đều được lắp đặt theo thiết kế nước ngoài, nênchỉ phù hợp
với 65% người lao động việt nam. Khi người việt nam làm vịêc trên dây truyền công
nghệ này, họ phải chịu đựng căng thẳng hơn, hoặc phải đưa bớt công việc cho người
khác.
Sự phù hợp của người lao động với công ngệ:
Công nghệ sự phù hợp với công nghệ(%)
Đức 13
Pháp, ý 34
Nhật 65
Theo số liệu của viện y học lao động Hà Nội
Với sự phù hợp chỉ có 13% quả là một con số quá nhỏ, điều này gây khá nhiều
bất lợi cho người trong khi làm việc. khảo sát về điều kiện làm việc của một số lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của trung tâm vệ sinh phòng
dịch Hà Nội cho thấy:có đến 71% trong ca người lao động phảilàm việc trong tư thế
không phù hợp, như ngồi xổm, quỳ gối, khom lưng, ngồi trên ghế gỗ không có cần
điều khiển cao thấp cho phù hợp với chỉ tiêu nhân chắc, đặc biệt ở phân xưởng chân
không điển hình (orion-Hanel) công nhân phải đứng suốt ca tay nhấc bóng đè hình
(trọng lượng 6-7 kg) từ 800-1000 lần trong ca. Do phải chịu sự thay đổi lớn về tâm
lý, cộng với tư thế lao động bất lợi, người lao động làm việc trên dây truyền mới
thường mắc các bệnh nghề nghiệp như rối loạn cơ xương và một số các bệnh khác
dẫn tới sức khỏe của người lao động bị giảm sút và một số người lao động đã phải bỏ
việc. kết quả khám sức khỏe trong một số doanh nghiệp cho thấy những biểu hiện
lâm sàn tim mạch tim mạch của người lao động trong các doanh nghiệp này cũng khá
cao mà nguyên nhân có thể là do quá căng thẳng về thời gian và tâm lý. Việc tuân thủ
lao động liên quan đến vấn đề an toàn sưc khỏe người lao động trong các khu công
nghiệp còn nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp đã không khai báođăng ký xin phép

sử dụng một số thiết bị có yeu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh lao độngnhư nồi
hơi, bình nén khí, thang máy. Chưa lập kế hoạch về an toàn- vệ sinh lao động, cải
thiện điều kiện làm việc và khám sức khỏe định kỳ cho người lao động điều này có
- 10 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
thể thấy rõ ở các doanh nghiệp tại khu công nghiệp Biên Hòa hoặc Sài Đồng. các
công ty này chỉ biết các thông tư dưới luật liên quan tới việc khai báovà xin giấy
phép các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn sau khi làm việc với thanh tra
lao động. Nhưng cơ chế phối hợp lao động giữa các ban quản lýkhu công nghiệp và
cơ quan lao động địa phương còn chưa hoàn thiện nên với nhiều lý do, chủ sử dụng
lao động không thực hiện nghiêm chỉnhvà càng gây khó khăn hoặc cố tình ngăn cản
các hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước. vì vậy còn nhiều tồn tại
trong công tác an toàn và vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp này chưa được
phát hiện và sử lý kịp thời.
Cường độ làm việc căng thẳng và nhiều bất lợi do sự không quản lý chặt chẽ
từ đầu quá trình chuyển giao công nghệ có thể dẫn tới nguy cơ người lao độngphải
dời khỏi dây truyền sản xuất sớm hơn nhiều so với tuổi về hưu theo định của pháp
luật, điều này đã xảy ra ở nhiều nước trong khu vưc như thái lan, philipin, đang phải
đối đầu với đông đảo lực lượng lao động mà phần đông là lao động nữ phải dời khỏi
dây chuyền sản xuất.
Do xu hướng muốn tăng năng suất, tăng sức cạnh tranh, nhiều người sử dụng
lao động trẻ hơn- đối tượng dễ nhận tiền lương thấp và cókhả năng đáp ứng đòi hỏi
của dây truyền công nghệ cao- sự thay đổi của khoa học công nghệ được dùng như
một cớcho việc giảm biên chế. Thay cho việc đào tạo lại để sử dụng công nghệ mới,
những người phụ nư sấp sỉ 40tuổi mà phần lớn mới ở trình độ lớp 6 phổ thông bị thay
thế. Như ở doanh nghiệp đèn hình orion-hanel do tính chất công việc, các thao tác
của người lao động đòi hỏi phải tinh mắt, nhanh tay mới đáp ứng được về mặt thời
gianvà tốc độ của dây truyền, mặc dù độ tuổi trung bình của công nhân hiện nay là 22
tuổi nhưng với cường độ và tính chất công việc như hiện tại thì những công nhân ở
độ tuổi 35 không thể tiếp tục công việc. Đây thực sự là thách thứcđối với người lao

động trong các DNNN, khi họ bước qua ngưỡng tuổi thanh xuân, việc làm không
còn, chế độ không có…họ có thể bị nghỉ việc hay có thể mắc những căn bệnh mà do
trước đấy họ đã cống hiến hết mình cho công việc.
Thực hiện pháp luật về an toàn vệ sinh lao động trong các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài.
- 11 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
Một hệ thống an toàn vệ sinh lao động hữu hiệu, điều kiện làm việc thuận
lợilà nhu cầu quyền lợi chính đáng đầy tính nhân văn, nhân đạo cho mỗi người lao
động tham gia vào các quá trình lao động xã hội. đó là nhân tố bảo toàn sức khỏe khả
năng sáng tạo của người lao động, cái quý nhất của mỗi con ng cũng như bảo toàn
sức lao động xã hội để không ngừng tăng năng suất lao động và phát triển lực lượng
sản xuất. Tuy nhiên vấn đề an toàn lao động hầu như đối với mỗi quốc gia, ở mọi
thời điểm luôn mang tính bức xúc, bởi nó liên quan tới tất cả các khâu của tất cả hệ
thống sản xuất, hạch toán kinh tế, thành tịu khoa học, công nghệ sản xuất và an toàn
lao động. an toàn lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có
những đặc trưng riêng về kinh tế, công nghệ, quản lý sản xuất kinh doanh, quan hệ xã
hội doanh nghiệp môi trường áp dụng pháp luật. viện lao động khoa học- lao động và
các vấn đề xã hội thuộc bộ lao động- thương binh xã hội vừa thực hiện dự án điều tra
áp dụng bộ luật lao động trong đó có vấn đề thực hiện dự án điều tra áp dụng bộ luật
lao động trong đó có vấn đề thực hiện pháp luật về an toàn lao động tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Dưới đây là một số vấn đề quan tâm nôi lên khá
đậm nét cần đước sự nghiên cứu xử lý và chấn chỉnh. Tại thời điểm quý IV năm 2000
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỉnh phía bắc có 27% tổng số lao động đang
phải làm việc trong điều kiện không thuận lợi, bao gồm các yếu tố tải trọng thể lực
cao, nguy hiểm độc hại, trật trội, tổ chức nơi làm việc không phù hợp với nhân trắc
học, tính đơn điệu cao của chỗ làm việc. Tỷ lệ này cao hơn mức bình quân chung là
trong một số ngành, như ngành công nghiệp nặng số lao động làm việc trong điều
kiện không thuận lợi chiếm 44.3%, ngành xây dựng là 63.3%. Chủ yếu các ngành này
có số lao động làm việc không thuận lợi là thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư của Đài

Loan, Nhật Bản, nước châu Mỹ, thấp nhất là doanh nghiệp Hàn Quốc(81% tổng số
lao động) tại một bộ phận doanh nghiệp hệ thống kỹ thuật an toàn lao động tăng, bao
gồm các phương tiện kỹ thuật và thao tác làm việc bảo đảm an toàn cho người lao
động chưa được trang bị đầy đủ(giầy, khẩu trang, quần áo bảo hộ, mũ,găng tay…) đó
là chưa xét đến chất lượng chủng loại được cung cấp số này chủ yếu ở các doanh
nghiệp Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore.tuy nhiên điều đáng mừng trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài các nước châu mỹ 100% trang bị đầy đủ phòng hộ
lao động. nhưng bộ phận khá lớn trong doanh nghiệp này là không được huấn luyện
- 12 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
an toàn lao động chiếm 37% do đó những lao động này thườngtiến hành những công
việc, thao tác một cách tùy tiện coi thường nguy cơ an toàn lao động. bên cạnh đó
một bộ phận lao động được tuyển vào (đặc biệt lao động nông thôn) chưa quen với
lối sản xuất và văn minh công nghiệp, ý thức chấp hành quy trính công nghệ, quy
trình kỹ thuật an toàn lao động thấp làm cho chủ sử dụng lao động một số doanh
nghiệp ngánngẩm.việc vi phạm thực hiện huấn luyện an toàn lao động có phần
nghiêm trọng hơn là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài các nước châu
mỹ, Hồng Kông, Nhật Bản, các nước châu Âu đóng tại các địa phương: Hà Tây, Thái
Nguyên,Hải Dương.
Công tác an toàn lao động chưa hoàn chỉnh còn do từ phía người sử dụng lao động.
Thống kê hiện nay có khoảng 30% tổng số doanh nghiệp chưa cử người làm công tác
giám sát an toàn lao động, việc xây dựng kế hoạch, chương trình, biện pháp an toàn
lao động không thực hiện trong các doanh nghiệp, chỉ có 4% tổng số lao động ngành
công nghiệp nặnglà có thực hiện, kể cả doanh nghiệp một số nước thực hiện khá hơn
về công tác an toàn lao động thì cũng mới chỉ chú trọng về cung cấp trang bị phòng
hộ lao động mà chưa có biện pháp toàn diện về bảo đảm an toàn lao động hiện tạivà
lâu dài cho người lao động. Chính vì vậy khi có các khâu đổi mới công nghệ, máy
móc thiết bị vật tư sản xuất chưa tiến hành xây dựng nội quy, quy trình an toàn lao
động để phổ biến huấn luyện kịp thời cho người lao động. Đối với công tác khám sức
khỏe định kỳ cho người lao động thấy sự vi phạm khá phổ biến của chủ sử dụng lao

động, gần nửa số lao động trong doanh nghiệp không được khám sức khỏe định kỳ.
Bình quân chung các doanh nghiệp mới chỉ có 64.7% tổng số lao động được khám
sức khỏe định kỳ. Trong các doanh nghiệp công nghiệp chỉ đạt 50.7% lao động được
khám sức khỏe định kỳ, phần lớn là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tại địa phương Quản Ninh, Hải Dương, Thái Nguyên, Hà Tây. Nguyên nhân chủ yếu
của sự vi phạm này là do tính toán lợi ích kinh tế của chủ sử dụng lao động, một phần
do hệ thống dịch vụ y tế không thuận lợi do một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài ở địa bàn khó khăn. Chính từ những tồn tại trên của công tác an toàn lao động
mà tình hình tai nạn lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có
tính chất khá nghiêm trọng về quy mô.
- 13 -
Đề án môn học Bùi Thị Thu Thảo
Qua nghiên cứu một số doanh nghiệp, công ty nước ngoài thu được kết quả số vụ tai
nạn như sau:
Doanh nghiệp Hàn Quốc 3.69 (vụ)
Doanh nghiệp Hồng Kông 2.7
Doanh nghiệp Đài Loan 2.1
Doanh nghiệp các nước châu Mỹ 0.1
Công ty biến thế ABB 30
công ty vải sợi Hàn Quốc 28
Trong các Doanh nghiệp trên đối với các doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư
càng lớn thì số vụ tai nạn lại càng tăng, số người ảnh hưởng của các vụ tai nạn lao
động tính bình quân là 2.04 người. hầu hết các tai nạn lao động làm mất sức lao động
(giảm khả năng lao động) từ 0-31%. Tai nạn lao động xảy ra nhiều hơn là trong
ngành công nghiệp nặng, điện tử, xây dựng, công nghiệp nhẹ, nếu tính theo tổng số
lao động thì chỉ số tần suất tai nạn lao động là 100%, bệnh nghề nghiệp cũng được
phát hiện trong doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, một số nước hầu hết thuộc ngành
xây dựng. Trong doanh nghiệp đầu tư nước ngoài các nước Mỹ là 14.6‰, Nhật Bản
là 6.54‰, Hồng Kông là 1.12‰ và chỉ phát hiện được 3 ngành xây dựng là 19.67‰,
điện tử 0.93‰, dịch vụ .037‰. số liệu cung cấp của người sử dụng lao động và số

liệu điều tra người lao động cho biết 66.80% trường hợp tai nạn lao động xảy ra là do
người lao động vi phạm quy chế an toàn lao động và 20-34% do chủ sử dụng lao
động vi phạm quy định pháp luật về an toàn lao động. Còn nguyên nhân của bệnh
nghề nghiệp phát sinh ở người lao động chủ yếu là người sử dụng lao độngchưa chú
trọng đúng mức thực hiện các biện pháp vệ sinh công nghiệp, bảo đảm tiêu chuẩn
giới hạn cho phép các yếu tố môi trường lao động( chất độc hại, từ trường, rung
động, ít hiểu biết về vệ sinh trong lao động-cũng là nguyên nhân của phát sinh bệnh
nghề nghiệp). Một vấn đề nữa là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
các quy địngvề điều kiện lao động cho lao động nữchưa được thực hìện tốt. trên tổng
thể còn có 33% tổng số lao động nữ làm việc trong cả doanh nghiệp không có nhà
tắm, tương tự 11.7%không có nhà vệ sinh, 25.1% không có nơi thay quần áo, gây khó
khăn cho lao động nữ, thậm chí còn có tính trạng đại tiểu tiện trong doanh nghiệp làm
giảm mỹ quan chung. Chính vì vậy ngành luật lao động có quy định riêng đối với lao
động nữ nhằm đảm bảo quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam
giới, tạo điều kiện cho người lao động nữ làm việc nâng cao hiệu quả năng lực nghề
- 14 -

×