Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

PHÂN TÍCH VAI TRÒ của các cơ QUAN HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.9 KB, 10 trang )

Mở đầu
Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước
được thực hiện bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo
sự chấp hành pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà
nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc
xây dựng và đổi mới của đất nước. Hoạt động quản lí hành chính nhà nước
được đặt dưới sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước mang hình
thức chủ động, sáng tạo.
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp
luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Nội
dung của pháp chế rất phong phú, trong đó có nội dung cơ bản nhất là sự triệt
để tôn trọng pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.
Nghiên cứu hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, và đặc
biệt chú trọng đến vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có ý nghĩa
rất quan trọng, đáp ứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay.
1
Nội dung
I. Khái niệm chung
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức pháp
lý do các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực
hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ
chức ấy cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
Bằng những cơ chế và hoạt động pháp lí việc bảo đảm pháp chế trong
quản lí hành chính nhà nước làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả
trong thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung cũng như hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng phải thực sự vì nhân
dân, qua đó khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, tinh thần và trí tuệ của nhân dân
đem lại những hiệu quả thiết thực đối với nhân dân. Cụ thể là các thủ tục hành
chính được thực hiện dễ hiểu, dễ làm và thực hiện quyền và nghĩa vụ công


dân theo một trình tự nhất định.
Giám sát là hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất định,
là một nội dung của hoạt động quản lí nhà nước và là một hình thức kiềm chế,
đối trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện nay. Giám sát tức là
theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhân định về một công việc nào đó là đúng hay
là sai với những điều đã quy định. Hoạt động giám sát luôn gắn với một chủ
thể nhất định cũng như với một đối tượng cụ thể, qua đó thể hiện mối quan hệ
giữa chủ thể tiến hành hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. Việc
thực hiện tốt công tác giám sát dựa trên những quy định cụ thể và đòi hỏi cần
phải thực hiện tốt công tác này nhất là đối với nhà nước pháp quyền ở nước
ta.
Khái niệm giám sát được dung để chỉ quyền của nhân dân lao động
thông qua hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Được quy định cụ thể
tại Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội: “Giám sát là việc Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, uỷ ban của Quốc hội, đoàn
2
đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội”.
II. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối
với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Các cơ quan quyền lực nhà nước là những cơ quan có vị trí đặc biệt
trong bộ máy nhà nước, chúng có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và địa vị
pháp lí do Hiến pháp quy định. Các cơ quan này đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân lao động qua các hoạt động, tác động tích cực và chi phối
rất lớn hoạt động của các cơ quan nhà nước khác như cơ quan hành chính nhà
nước cũng như các cơ quan tư pháp.
Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước giám sát
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, Quốc hội va hội

đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường xuyên
và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt các hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước khác cùng cấp. Qua việc giám sát này, các cơ quan
quyền lực của nhà nước có thể phát hiện ra những yếu kém, khuyết điểm
trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những khó khăn vướng mắc
trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy
định đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Dựa vào những cơ sở đã đạt
được, cơ quan quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những biện pháp thích hợp
và thực hiện trong những thời gian cụ thể để khắc phục những khó khăn và
tồn tại ấy. Cũng qua hoạt động giám sát, Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp có dịp kiểm nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản luật đã ban
hành. Nếu các văn bản luật đó có khuyết điẻm về hình thức hay nội dung thì
các cơ quan quyền lực nhà nước đó phải đưa ra những biện pháp, giải pháp
khắc phục. Và cũng thông qua đó các cơ quan quyền lực nhà nước này cũng
đưa ra những yêu cầu và biện pháp để cải tiến chế đọ, quy trình lập pháp, lập
quy nâng cao hiệu lực quản lí của nhà nước. Nếu có những vi phạm pháp luật
3
xâm phạm tới trật tự và lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ
nhà nước thì cần phải phát hiện kịp thời và có những biện pháp xử lí nghiêm
minh những vi phạm đó để củng cố pháp chế.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, các hình thức và phương pháp giám
sát được triển khai đem lại những kết quả tốt góp phần vào việc thực hiện
nhiệm vụ mục tiêu, tăng cường hiệu qủ hoạt động của bộ máy nhà nước, phát
huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1. Hoạt động giám sát của quốc hội
Hoạt động giám sát của Quốc hội được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều
84 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 và khoản 2 Điều 2 Luật tổ
chức Quốc hội năm 2001: “Quốc hội…thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” Qua đó thể hiện hoạt động giám sát của
Quốc hội vừa là chức năng, nhiệm vụ và là quyền han của Quốc hội. Quốc hội

là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của
nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện nguyên tắc thống
nhất quyền lực nhà nước tập trung trong tay nhân dân lao động. Qua đó nói
lên rằng chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao là Quốc hội, trong đó bao
gồm toàn thể đại biểu của Quốc hội.
Xét về mặt đối tượng chịu sự giám sát tối cao là Chủ tịch nước, Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (Điều 84 Hiến pháp 1992).
Xét về nội dung của quyền giám sát tối cao bao gồm: Một là, theo dõi,
kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Hai là, xử lý các hành vi vi
phạm Hiến pháp và luật bằng các chế tài như bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức
vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước, đình chỉ và bãi bỏ các văn bản trái với
Hiến pháp, luật và ra các nghị quyết khi xét thấy cần thiết (Điều 84 Hiến pháp
1992). Nội dung giám sát này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
4
Về hình thức, hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, có thể định kì tại các kì họp của Quốc hội hay
cũng có thể được thực hiên thường xuyên thông qua Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, các uỷ ban Quốc hội, các hội đồng của Quốc hội cũng như các đại biểu
Quốc hội. Đối tượng giám sát tối cao là các cơ quan, cá nhân do Quốc hội
thành lập, bầu hoặc phê chuẩn như Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
những người đứng đầu của các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ.
Hậu quả giám sát tối cao của Quốc hội: Thứ nhất là Đình chỉ, huỷ bỏ
những văn bản do các cơ quan nói trên ban hành trái Hiến pháp, luật, pháp
lệnh và nghị quyết của Quốc hội hay Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Thứ hai là
Bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ
tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện

Kiểm sát nhân dân tối cao.
Xét về phương pháp thực hiện quyền giám sát tối cao: Xem xét báo cáo
của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; thực hiện quyền chất vấn của đại
biểu Quốc hội; kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp, luật, pháp lệnh,
nghị quyết khi xét thấy cần thiết; xem xét việc khiếu nại, tố cáo của công dân
tại các kỳ họp Quốc hội.
Ngoài ra, vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội còn thực hiện thông
qua hoạt động của các tổ đại biểu và các đại biểu Quốc hội ở các địa phương
và các cơ sở, thông qua việc tiếp xúc của họ với các cử tri, nghe các yêu cầu,
đề nghị hay các khiếu nại của họ về việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan
hành chính nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền của các cơ quan ấy. Thông
qua việc thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và các
cán bộ có thẩm quyền của các cơ quan ấy, Quốc hội xây dựng những biện
pháp và giả pháp hữu hiệu giải quyết những vấn đề nảy sinh trong hoạt động
5
giám sát của mình. Ví dụ: khoản 7 Điều 84 Hiến pháp 1992 về việc bỏ phiếu
tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn.
Vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội thể hiện trước hết với các cơ
quan hành chính nhà nước vì thông qua đó tức là thực hiện quyền lực nhà
nước về mặt tổ chức đối với bộ máy hành chính nhà nước. Chỉ có Quốc hội
mới có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ trái với
Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
2. Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương thực hiện quyền giám sát với các hoạt động của ủy ban nhân dân, các
cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân cũng như các đơn vị trực thuộc.
Đây là chức năng chủ yếu của các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
được thực hiện trước hết ở các kì họp của hội đồng nhân dân. Cung giống như
Quốc hội hoạt động giám sát này được thực hiện thông qua việc nghe và thảo

luận báo cáo của ủy ban nhân dân cũng như các đại biểu là lãnh đạo của cơ
quan kiểm sát và xét xử ở địa phương.
Phạm vi hoạt động của hội đồng nhân dân không chỉ thu gọn trong phạm
những hoạt động của các cơ quan lực Nhà nước ở địa phương mà còn mang
tính chất toàn hiện của các cơ quan chính quyền địa phương. Dưới sự chỉ đạo,
hướng dẫn và kiểm tra của các cơ quan nhà nước cấp trên, hoạt động giám sát
của hội đồng nhân dân được tiến hành một cách toàn diện và mang tầm quan
trọng cao.
Nhiệm vụ của hội đồng nhân dân do Hiến pháp và Luật tổ chức hội dồng
nhân và ủy ban nhân dân quy định. Vì vậy hoạt động của hội đồng nhân dân
không chỉ thực hiện theo trong Hiến pháp và pháp luật quy định mà còn phải
chủ động cụ thể hóa những quy định này cho phù hợp với đặc điểm cụ thể ở
địa phương của mình. Đây chính là cơ sở pháp lí để khẳng định quyền hạn
của chính quyền địa phương trong hoạt động giám sát của mình thong qua
việc chủ động và luôn tăng cường quyền giám sát của hội đồng nhân dân với
mọi hoạt động thực thi pháp luật ở địa phương mình. Qua đó làm thúc đẩy sự
6
năng động và sang tạo của quanà chúng nhân dân lao động, đánh giá xác thực
khả năng thực thi pháp luật của địa phương.
Ngoài ra, hình thưc giám sát của hội đồng nhân dân còn một biểu hiện
quan trọng là việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Giải quyết khiếu
nại, tố cáo của cử tri một cách kịp thời, nhanh chóng vàđúng pháp luật là nghĩ
vụ của toàn thể đại biểu hội đồng nhân dân. Làm tốt các hoạt động này hội
đồng nhân dân đã thực thi nhiệm vụ của mình một cách thiết thực vào việc
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Đây cũng
là điièu kiện để hội đồng nhân dân hoàn thành nhiệm vụ của người đại biểu
của dân mà cử tri và nhân dân địa phương đã tín nhiệm giao cho họ.
Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân góp phần tích cực vào việc
phát hiện những sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc chấp hành pháp
luật, trên cơ sở đó kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết, xử lí kịp thời

những sai phạm đó và còn đôn đóc những cơ quan, tổ chức hưu quan thực
hiện nghị quyết của hội đồng nhân dân và của cấp trên cũng như giải quyết
các vấn đè bức xúc ở địa phương, bảo đảm thi hành có hiệu quả các quy định
của pháp luật và nghị quyết của hội đồng nhân dân ở địa phương.
III. Các biện pháp tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí
hành chính nhà nước
1. Đối với quốc hội
Thực tế, hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay đang đặt ra nhiều
vấn đề cần phải xem xét giải quyết. Các hình thức hoạt động giám sát của
Quốc hội và của các cơ quan thuộc Quốc hội tuy đã được quy định trong một
số văn bản pháp luật nhưng vẫn chưa được quy định một cách đầy đủ, có một
số vấn đề chưa thật cụ thể, chưa đủ các căn cứ pháp lý để đảm bảo cho hoạt
động giám sát thực hiện một cách có hiệu quả. Trong những năm qua, mặc
dầu đã có nhiều cố gắng, nhưng hoạt động giám sát của Quốc hội chưa triển
khai đồng bộ trên nhiều lĩnh vực mà chỉ mới tập trung được một số vấn đề cần
7
thiết. Chất lượng hiệu quả, hiệu lực giám sát có được nâng lên một bước,
nhưng vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi mà thực tế cuộc sống đặt ra. Vì
vậy, để tăng cường hiệu lực giám sát của Quốc hội, cần triển khai một số biện
pháp sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục xây dựng, ban hành và cụ thể hóa các quy định
pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội để xác định rõ ràng, cụ thể,
phạm vi, thẩm quyền, đối tượng giám sát của các chủ thể thực hiện quyền này
đồng thời từng cơ quan phải thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật.
Tránh tình trạng chồng chéo, lẫn lộn trong hoạt động của các cơ quan khi thực
hiện việc kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật.
Thứ hai, hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay chủ yếu là thông
qua các kỳ họp của Quốc hội với thời gian không dài. Vì vậy, hoạt động giám
sát của Quốc hội cần được thực hiện với quỹ thời gian dài hơn. Hoạt động

giám sát thông qua các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, mặc dù đã
hết sức cố gắng, nhưng do tổ chức, cũng như số lượng cán bộ của mỗi cơ
quan không nhiều, nên không thể đáp ứng được một cách đầy đủ, nhanh
chóng các yêu cầu giám sát. Do đó, để tăng cường hiệu lực hoạt động giám
sát, cần thông qua các cơ quan của Quốc hội là chủ yếu. Để cho các cơ quan
của Quốc hội đảm nhiệm được chức năng hoạt động giám sát thì phải tăng
cường các cơ quan này về mọi mặt, như nâng cao trình độ, năng lực, phẩm
chất cho cán bộ công chức của Văn phòng Quốc hội, tăng cường cơ sở vật
chất để các cơ quan Quốc hội hoạt động. Đặc biệt là phải nâng cao chất lượng
đại biểu Quốc hội, phải đảm bảo cho mỗi đại biểu đủ điều kiện để hoàn thành
được nhiệm vụ của mình, trước hết là trong việc thực hiện hoạt động giám sát.
Mặt khác, phải phát huy sức mạnh và khả năng của các Đoàn đại biểu Quốc
hội. Vì trên từng địa phương, giữa hai kỳ họp của Quốc hội, thì Đoàn đại biểu
Quốc hội có khả năng giám sát nhanh nhạy và kịp thời nhất.
Thứ ba, để tăng cường hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội, cần
phải đổi mới hình thức, phương thức và phát triển giám sát của Quốc hội phù
hợp với vị trí pháp lý và điều kiện hoạt động của Quốc hội. Phải đổi mới việc
8
xem xét báo cáo của các cơ quan nhà nước, việc tổ chức các đoàn đi kiểm tra
cơ sở cho đến hoạt động chất vấn của các đại biểu. Đổi mới hoạt động của các
cơ quan Quốc hội, phải làm sao để đạt ở “tầm” Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Đối với hội đồng nhân dân
Khi nghiên cứu về hiệu quả giám sát của hội đồng nhân dân, có một
điểm đặc biệt cần phải xét nó trong mối quan hệ với hiệu lực giám sát của hội
đồng nhân dân. Hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào việc hội đồng nhân dân
thực hiện chức năng giám sát của mình theo quy định của pháp luật đến đâu
cũng như những kết luận kiến nghị từ hoạt động giám sát có được các cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh hay không. Để đảm bảo hiệu
lực, hoạt động giám sát cần phải có chất lượng, nghĩa là phải đưa ra những kết

luận đề xuất đúng đắn. Trong mối quan hệ giữa chất lượng và hiệu lực giám
sát thì chất lượng giám sát là tiền đề bảo đảm hiệu lực, nhưng để đảm bảo
hiệu lực giám sát cần còn sự tự giác chấp hành nghiêm chỉnh của các chủ thể
bị giám sát đối với các kết luận, đề xuất đúng đắn rút ra từ hoạt động giám sát.
Đồng thời cần có các biện pháp xử lý đối với các chủ thể không chấp hành
nghiêm các kết luận đề xuất đó. Một khi chất lượng và hiệu lực giám sát được
đảm bảo thì đương nhiên hiệu quả hoạt động giám sát sẽ tốt hơn.
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về giám sát là cơ sở pháp lý cho
hội đồng nhân dân thực hiện quyền năng của mình. Nếu luật không quy định
cụ thể về thủ tục, trách nhiệm, quyền hạn của các đối tượng liên quan đến
hoạt động giám sát thì việc ghi nhận chức năng giám sát của hội đồng nhân
dân trong Hiến pháp cũng chỉ là hình thức. Để nâng cao hiệu quả giám sát của
Hội đồng nhân dân thì đòi hỏi quan trọng nhất là phải ban hành đủ các văn
bản pháp luật trong lĩnh vực giám sát cho hội đồng nhân dân nói riêng và toàn
bộ hoạt động của hội đồng nhân dân nói chung.
Thứ hai, Để thực hiện tốt chức năng của mình, đặc biệt là chức năng
giám sát, đòi hỏi Hội đồng nhân dân phải có một bộ máy làm việc đủ mạnh và
năng động. Bởi thực tế cho thấy bất kỳ một cơ quan nào, nếu có tổ chức hợp
9
lý và đồng bộ sẽ tạo nên guồng máy làm việc nhịp nhàng và mang lại hiệu
quả.
Thứ ba, Năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm thực hiện vai trò hoạt động
giám sát của Đại biểu hội đồng nhân dân. Các đại biểu dân cử phải có đủ tâm
và đủ tài. Bởi người làm công tác giám sát, ngoài công nhận cái đúng còn
phải chỉ rõ và đề ra các kiến nghị, những biện pháp hữu hiệu để loại bỏ cho
được cái tiêu cực, trái pháp luật; để phát hiện cái sai của người khác, của các
ngành chức năng. Như vây, người đại biểu nhân dân phải có quan điểm trình
độ, bản lĩnh vững vàng, có cánh nhìn sáng suốt và phương pháp làm việc khoa
học, hợp lý. Phải có bản lĩnh giám nói thẳng, nói thật, không nể nang né tránh,
phải vì lợi ích của dân, của nhà nước.

Thứ tư, muốn nâng cao vai trò hoạt động giám sát của hội đồng nhân
dân, cần phải đầu tư chi phí và điều kiện vật chất cho hoạt động giám sát.
Trong đánh giá hiệu quả giám sát của hội đồng nhân dân, cần hiểu tính chất
hai mặt của đầu tư chi phí cho hoạt động này.
Kết luận
Hoạt động giám sát cơ quan quyền lực nhà nước có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong cơ chế đảm bảo tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự pháp
luật của đời sống nhà nước. Vì vậy, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của hoạt
động này phải được tiến hành một cách đồng bộ giữa các yếu tố, các khâu của
cơ chế nhằm đảm bảo và tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật.
10

×