Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận kinh tế chính trị VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.84 KB, 16 trang )

PHẦN 1: CÁC QUAN ĐIỂM VỀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
1. Tự do kinh tế
Trong các trường phái kinh tế chính trị trong lịch sử thì có trường phái KTCT
TSCĐ và Tphái Tự do mới là ủng hộ cơ chế tự do kinh tế.
I. Trường phái TSCĐ:
Xuất hiện vào cuối TK 18, vào thời kỳ này sau khi tích luỹ được khối lượng tiền tệ
lớn, giai cấp tư sản tập trung phát triển lĩnh vực sản xuất, các công trường phát
triển mạnh, ra đời CNTB.
Nhìn một cách khách quan, các nhà kinh tế học thời kỳ này ủng hộ tư tưởng tự do
kinh tế * Trong giai đoạn ban đầu của TP TSCĐ:
W.Petty (1623 – 1678): là một trong những người sáng lập ra học thuyết KTCĐ ở
Anh. Là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học, được gọi là
phương pháp KH tự nhiên. Về bản chất đó là phương pháp nghiên cứu thừa nhận
và tôn trọng các quy luật khách quan, vạch ra mối liên hệ phụ thuộc nhân quả giữa
các sự vật hiện tượng. Theo ông trong chính sách và trong kinh tế phải tính đến
những quá trình tự nhiên, không nên dùng hành động cưỡcg bức để chống lại quá
trình đó. Đây là mầm mống của tư tưởng tự do cạnh tranh.
* TSCĐ ở Pháp: trường phái trọng nông: Do chính sách của Bộ trưởng BTC Pháp
J.B.Colbert mà nền nông nghiệp Pháp suy sụp. Trường phải trọng nông ra đời và
trường phái này cũng ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế. Nổi bật trong lý luận về
“Quyền tự nhiên” của Fransoiis Quesnay. Trong một bài luận, ông đã phân biiệt
quyền tự nhiên và quyền theo pháp luật. Theo ông “tất cả mọi người và mọi lĩnh
vực của loài người được gọi là quy luật tự nhiên, phụ thuộc vào quy luật tối cao
này, do bản thể tối cao ấn định ra. Nhưnggx quy luật này bất di bất dịch và nhìn
chung chúng là những quy luật tố nhất có thể tồn tại. Cơ sở của mọi sự cầm quyền
tốt nhất là quy tắc chủ yếu của tất cả các đạo luật tích cực, bỏi vì các qluật tích cực
không phải là một cái j khác, ngoìa quy luật cầm quyền có liên quan đến trật tự tự
nhiên có lợi nhất cho loài người”. Họ hướng về tự do kinh tế , coi đó là môi trường
thuận lợi cho sự phát triển.

*Trong giai đoạn phát triển của TP TSCĐ: tư tưởng tự do kinh tế được thể hiện


ngày càng rõ ràng hơn. Điển hình về tư tưởng này là lý thuyết “bàn tay vô hình của
A.Smith. Điểm xuất phát trong phát triển kinh tế của ông là nhân tố “con người
kinh tế”. Theo ông, loài người là một liên minh trao đổi. Thiên hướng trao đổi là
đặc tính vốn có của con người. Nó tồn tại vĩnh viễn, cũng như loài người tồn tại
vĩnh viễn. Trong khi trao đổi ssản phẩm và lao đọng cho nhau, phụ vụ lẫn nhau thì
con người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân. Mỗi người chỉ biết tư lợi, chỉ thất tư lợi,
làm theo tư lợi. Song khi chạy theo tư lợi, thì có một ‘bàn tay vô hình’ buộc con
người kinh tế đồng thời thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự kiến là đáp
ứng lợi ích xã hội và đôi khi làm như vậy, họ đáp ứng lợi ích XH còn tốt hơn ngay
cả khi họ có ý định thực hiện điều đó từ trước.
Về thực chất “ bàn tay vô hình” đó chính là các qluật kinh tế khách quan tự phát
hoạt động, chi phối hoạt động của con người. ông gọi heej thống các quy luật kinh
tế khách quan đó là ‘trật tự tự nhiên’. Một trong các điều kiện cần thiết để các quy
luật kinh tế khách quan hoạt động đó là Nền kinh tế phải pt trên cơ sở tự do kinh
tế, tự do mậu dịch, tự do SXKD những j mà họ mong muống. Ông cho rằng Nhà
nước không nên can thiệp vào kinh tế.
Theo ông, trong nền ktế, Nhà nưứơc có các chức năng là bảo vệ quyền sở hữu TB,
đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống phần tử tội phạm trong nước. Đôi khi Nhà
nước có nhiệm vụ kinh tế khi nhiệm vụ này vượt quá sức của một doanh nghiệp
như XD đường xá, đào sông, XD các công trình lớn khác.
Với ông, qluật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách ktế có thể kìm hãm or thúc
đẩy sự hoạt động của quy luật kinh tế. Muốn XH giàu có phải pt kinh tế theo tinh
thần tự do.
• D.Ricardo: ủng hộ việc Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của thị
trường lao động, phê phán giúp đỡ đối với ngưòi nghèo, vì theo ông, làm
vậy sẽ ngăn cản hoạt động của quy luật tự nhiên.
Tự do thương nghiệp giữa các nước là có lợi vì cuối cùng thì tất cả lại trở về cân
bằng.
Coi trọng tự do kinh tế - bàn tay vô hình trong việc hình thành, phân phối, trao đổi
và sử dụng giá trị, xác định cho Nhà nước vai trò tạo khuôn khổ luật pháp và bảo

vệ an ninh – chính trị, đảm bảo sự ổn định cho quá trình tạo gia giá trị, song cũng
cho rằng Nhà nước phải là người tạo ra CSHT, hỗ trợ cho SX.
• Sismondi (1773 – 1842):
Qtrình phát triiển tư tưởng kiknh tế của ông chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu: ủng hộ A.Smith, vdụ trong ‘Bàn về TS thương nghiệp’ ông ủng
hộ quan điểm của A.Smith về tự do kinh tế, không có sự can thiệp của nhà nước.
+ GĐ sau: do phát triển của CM CNghiepẹ làm cho những tệ nạn của nền KTTT
càng trầm trọng thì ông phê phán TBCN và các quan điểm của phái cổ điển. Theo
ông ‘đối tượng của KTCT học là phúc lợi vật chất của con người do Nhà nước
quyết định’.
** Trường phái Cổ điển mới:
Cuối TK19 - đầu TK20, những mâu thuẫn vốn có và những khó khăn về kinh tế
của CNTB ngày càng trầm trọng. Khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp càng làm tăng
thêm mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Việc chuyển biến mạnh mẽ của CNTB tự do cạnh tranh sang CNTB độc quyền ở
các nước tư bản phát triển đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng kinh tế xã hội mới, đòi
hỏi phải có sự phân tích kinh tế mới. Một sự kiện đó là sự xuất hiện chủ nghĩa
Marx và nó trở thành đối tượng phê phán mạnh của các nhà kinh tế học tư sản.
Trước bối cảnh đó, các học thuyết kinh tế của trường phái tư sản cổ điển tỏ ra bất
lực trong việc bảo vệc chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, đòi hỏi phải có những học thuyết
kinh tế mới thay thế. Nhiều trường phái kinh tế chính trị học tư sản xuất hiện để
phân tích nền kinh tế thị trường, trong đó, trường phái “Cổ điển mới” đóng vai trò
quan trọng.
Trường phái Cổ điển mới dựa vào yếu tố tâm lý chủ quan để giải thích các hiện
tượng và quá trình kinh tế - xã hội. Đối lập với trường phái tư sản cổ điển và
K.Marx, trường phái Cổ điển mới ủng hộ thuyết giá trị chủ quan. Theo thuyết này,
cùng một hàng hoá với người cần nó, hay ích lợi nhiều thì giá trị của hàng hoá sẽ
lớn và ngược lại, với người không cần nó, hay ích lợi ít thì giá trị hàng hoá sẽ thấp.
Cổ điển mới phát triển ở nhiều nước, như trường phái giới hạn thành Vience,
truờng phái giới hạn ở Mỹ, trường phái Cambridge ở Anh, … Thời kỳ đầu, cuối

TK19, cũng giống như phái cổ điển, Cổ điển mới ủng hộ tự do cạnh tranh, chống
lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Họ tin tưởng chắc chắn rằng, cơ chế thị
trường tự phát sẽ bảo đảm thăng bằng cung cầu, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển
bình thường, tránh được khủng hoảng kinh tế. Thời kỳ sau là vào đầu TK20, lúc
này thế giới phương Tây đang ở vào thời kỳ đầu của CNTB độc quyền. Độc quyền
ra đời từ tự do cạnh tranh nhưng không loại bỏ cạnh tranh mà tồn tại cùng cạnh
tranh, thống trị cạnh tranh và làm cạnh tranh đa dạng, phức tạp hơn.
Mặt khác, sự xuất hiện của nhà nước XHCN đầu tiên, do kết quả của CMT10 Nga,
là một đòn nặng nề giáng vào TBCN. Nền kinh tế thế giới không còn là thuần nhất
TBCN nữa. Lúc này các nhà kinh tế sáng lập ra Cổ điển mới không thể giải thích
được hiện tượng độc quyền xen lẫn cạnh tranh và nguyên nhân thật sự của những
dao động và khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ.
Trước thực tế đó, các nhà kinh tế học trường phái Cổ điển mới tiếp tục phát triển
các quan điểm kinh tế của trường phái này. Và các học thuyết kinh tế của họ ít
nhiều có sắc thái về tư tưởng nhà nước can thiệp vào kinh tế.
**Trường phái tự do mới: xuất hiện sau những năm 30 TK20:
TP Tự do mới là một trong các trào lưu tư tưởng tư sản hiện đại. Trong khi thiên
về ủng hộ cơ chế tự do tạo ra giá trị thì vẫn coi trọng vai trò Nhà nước trong việc
sử dụng các công cụ chính sáhc như tiền tệ, thuế khoá nhằm đảm bản cho việc thực
hiện giá trị một cách bình thường. Tư tưởng cơ bản là cơ chế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước ở một mức độ nhất định. Khẩu hiệu của họ là thị trường hơn, nhà
nước can thiệp ít hơn. Họ đặc biệt nhấn mạnh yếu tố tâm lý của các cá nhân quyết
định sản xuất và tiêu dùng.
Lthuyết này phái triển mạnh Cộng hoà LB Đức dưới hình thức kinh tế thị trường
xã hội, chủ nghĩa cá nhân mới ở Anh, chủ nghía bảo thủ mới ở Mỹ, CN giới hạn ở
Áo và Thuỵ Điển.
Tư tưởng tự do mới phát triển ở Mỹ dưới tên gọi là CN bảo thủ mới. Một trong số
trào lưu đó là trường phái trọng tiền hiện đại, hay trường phái Chicago, với những
tên tuổi đứng đầu như Milton Friedman, Henry Simons. Các đại biểu phái trọng
tiền hiện đại ủng hộ và bảo vệ quan điểm tự do kinh doanh, ủng hộ chế độ tư hữu,

bảo vệ quyền tự do hoạt động và trách nhiệm của doanh nghiệp. Theo họ, nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa thường xuyên ở trạng thái cân bằng động. Đó là hệ thống tự
điều chính, hoạt động dựa vào các quy luật kinh tế vốn có của nó. Do đó, cần phải
dựa vào thị trường, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế.
Học thuyết về nền KTTT XH ở Choà LB Đức:
Sau Chiến tranh TG2, các nhà kinh tế học ở Đức cho rằng, về lý thuyết cũng như
thực tiễn, sự điều tiết độc tài, phát xít dựa trên cơ sở lý thuyết CNTB có điều tiết
không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế. Họ phê phán chủ nghĩa độc tài dân tộc,
kinh tế chỉ huy và ủng hộ mạnh mẽ quan điểm tự do: sức mạnh tự do, KTTT tự do,
con đường thứ ba, KTTT XH,… Các đại biểu của CN tự do mới ở CH LB Đức
như W.Euskens, W.Ropke, Muller, … đã đưa ra nhiều tư tưởng kinh tế nhằm khôi
phục lại CN tự do. Trong số đó chú ý lý thuyết về nền KTTT XH của Muller –
Armack là rất đáng chú ý.
Quan điiểm của phái này là nền KTTT XH kết hợp nguyên tắc tự do với nguyên
tắc công bằng xã hội trên thị trường. Họ đề nghị nhà nước chỉ can thiệp ở mức độ
tối thiểu, còn chủ yếu là để cho chính nền kinh tế tự thân vận động. Nguyên tắc tự
do và nguyên tắc công bằng xã hội được kết hợp lại một cách chặt chẽ trong khuôn
khổ mục tiêu của nền KTTT XH. Mục tiêu đó thể hiện ở chỗ, một mặt nhằm
khuyến khích và động viên những động lực do sáng kiến cá nhân để đảm bảo lợi
ích của nền kinh tế, mặt khác nó cố gắng loại trừ những hiện tượng tiêu cực, khi
điều kiện cho phép, víi dụ, sự nghèo khổ một số tầng lớp nhân dân, lạm phát và
thất nghiệp.
Nguyên tắc thị trường tự do phải dựa trên quan điểm cho rằng, các quyết định kinh
tế và chính trị phải nhằm phục vụ lợi ích của cá nhân và gia đình họ, vì thế nó phải
do những người tiêu dùng và các công dân đề ra. Tóm lại, nguyên tắc đảm bảo
quyền tự chủ của người tiêu dùng và công dân phải chiếm địa vị thống trị.
2. Mô hình Nhà nước can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế
Mô hình Nhà nước can thiệp chủ yếu vào nền kinh tế
I) Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương
1) Hoàn cảnh ra đời ( 1450 – 1650 )

- Ra đời trong thời kỳ tan rã của phương thức sản xuất phong kiến, phát sinh
phương thức sản xuất TBCN chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang nền kinh tế
thị trường.
- Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của CNTB. Vần đề tích luỹ nguyên thuỷ có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng cho sự ra đời của CNTB.
- Trong điều kiện mới ra đời, còn non yếu CNTB chỉ có thể tồn tại và phát triển
với sự ủng hộ, giúp đỡ của Nhà nước. Tích luỹ tiền tệ chỉ được thực hiện được
dưới sự giúp đỡ của Nhà nước.
2) Nội dung
* Giai đoạn đầu : TK XV - giữa XVI
- Đại biểu : A.Xeria, Staford
- Đồng nhất của cải với tiền tệ, chưa hiểu quan hệ giữa lưu thông hàng hoá và lưu
thông tiền tệ.
- Tác phẩm kinh tế “ Bảng cân đối tiền tệ “
- Vai trò của Nhà nước
+ Sử dụng “ Bảng cân đối tiền tệ “ làm cơ sở cho chính sách làm tăng của cải tiền
tệ giữ gìn cho khối lượng tiền tệ không ra nước ngoài.
+ Tập trung buôn bán vào những vùng có kho tàng để Nhà nước dễ kiểm soát
+ Bắt thương nhân nước ngoài đến buôn bán phải dùng số tiền có được mua hết
hàng hoá mang về nước họ
+ Quy định tỷ suất hối đoái, cấm đổi cho người nước ngoài khối lượng tiền tệ lớn
hơn mức quy định của Nhà nước.
* Giai đoạn sau : giữa TK XVI - XVII
- Đại biểu : Thomas Mun, A. Montchrestien, Colbert
- Ngoài tiền, của cải còn là số sản phẩm dư thừa được sản xuất trong nước sau khi
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước song được chuyển thành tiền thông qua thị
trường nước ngoài
- Tác phẩm : “ Bảng cân đối thương mại “, “ Bảng cân đối xuất siêu “
- Vai trò của Nhà nước
+ Để có xuất siêu họ khuyến khích việc nhập khẩu nguyên liệu thô và xuất khẩu

thành phẩm
+ Thực hiện thương mại trung gian, mang tiền ra nước ngoài để mua rẻ ở nước này
bán đắt ở nước khác
+ Thực hiện chính sách thuế quan, bảo hộ nhằm kiểm soát hàng nhập khẩu, khuyến
khích phát triển sản xuất hàng nhập khẩu
Đóng góp :
- Chính sách kinh tế của Nhà nước tư sản như thuế quan bảo hộ có tác dụng
rút ngắn quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang CNTB
- Tư tưởng Nhà nước can thiệp vào kinh tế được kinh tế học tư sản hiện đại
vận dụng.
II) Học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Đại biểu : Sismondi ( 1773 – 1842 )
1) Hoàn cảnh : Sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ làm cho tệ nạn
của kinh tế thị trường trầm trọng : khủng hoảng, thất nghiệp, nạn đói
2) Nội dung :
- Theo ông, “Đối tượng của kinh tế chính trị là phúc lợi vật chất của con
người do Nhà nước quyết định “
- Yêu cầu Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm bảo vệ trật tự xã hội, bảo
vệ “ người thứ 3 “ không cho phép tập trung sản xuất, tập trung sự giàu có,
duy trì các phân xưởng thủ công, chế độ tư hữu ruộng đất nhỏ, thực hiện
chính sách thuế quan bảo hộ
- Ông coi Nhà nước tư sản biểu hiện lợi ích của tất cả các giai cấp. Ông phủ
nhận tính giai cấp của Nhà nước. Theo ông, Nhà nước tư sản đối lập với sản
xuất lớn. Nó có thể đạt lợi ích chung, sự hài hoà xã hội và phúc lợi chung.
Đóng góp : Là cơ sở và tiền đề cho Mác kế thừa và phát triển.
III) Mac – Lê nin
1)Vai trò của Nhà nước trong giai đoạn CNTB độc quyền Nhà nước
Hoàn cảnh : Các tổ chức độc quyền không chỉ thống trị trong lĩnh vực sản xuất
mà cả lĩnh vực ngân hàng với tư bản lũng đoạn công nghiệp hình thành nên loại
tư bản mới đó là tư bản tài chính

- Các tổ chức độc quyền bành tướng thế lực của mình ra ngoài phạm vi quốc
gia thông qua xuất khẩu tư bản, thông qua sự hình thành các tổ chức độc quyền
quốc tế
Nội dung :
- Theo ông, chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là sự can thiệp trực tiếp
của các nhà nước đế quốc và các quá trình kinh tế nhằm đảm bảo lợi nhuận
độc quyền cao cho các tổ chức độc quyền và cứu nguy sự sụp đổ của CNTB.
- Là sự kết hợp giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy Nhà nước tư sản tạo ra
một tổ chức bộ máy mới có thế lực vạn năng, là sự phụ thuộc của Nhà nước
vào các tổ chức độc quyền. Các tổ chức độc quyền là cơ sở kinh tế của Nhà
nước đế quốc.
2) Vai trò của Nhà nước xây dựng CNXH ở nước Nga – Xô viết
* Chính sách cộng sản thời chiến
- Hoàn cảnh : Năm 1918 nước Nga – Xô viết bước vào thời kỳ nội chiến rất gian
khổ
- Nội dung :
+ Thực hiện chế độ trưng thu lương thực rất chặt chẽ
+ Nhà nước khống chế các mạch máu kinh tế trên phạm vi toàn quốc
+ Thị trường bị xoá bỏ
+ Quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị loại khỏi lĩnh vực hoạt động kinh tế
Đóng góp : Chính sách Cộng sản thời chiến đóng góp vai trò quan trọng trong
thắng lợi của Nhà nước Xô viết. Nhờ đó mà chiến thắng kẻ thù bảo vệ nhà nước xã
hội
* Chính sách kinh tế mới
Hoàn cảnh : Hoà bình lập lại chính sách kinh tế thời chiến không phù hợp
- Hậu quả của chiến tranh đối với nền kinh tế rất nặng nề
Nội dung :
+ Chính sách thuế lương thực
+ Tổ chức thị trường thiết lập quan hệ hàng hoá - tiền tệ
+ Sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, kinh tế quá độ.

3. Nền kinh tế hỗn hợp
Trường phái chính hiện đại ra đời và phát triển từ những năm 60-70 của thế
kỷ XX ở các nước tư bản phát triển, có ảnh hưởng sâu rộng tới chính sách kinh tế
của các nước cũng như hoạt động của các chủ DN trong nền kinh tế thị trường.
Học thuyết Keynes có những tác dụng nhất định trong việc khắc phục tình
trạng khủng hoảng kinh tế nhưng do quá nhấn mạnh vai trò điều tiết của Nhà nước
bỏ qua vai trò của thị trường nên đã làm nảy sinh những vấn đề kinh tế mới không
thể giải quyết được như khủng hoảng kinh tế, đình trệ, suy thoái, thất nghiệp.
Những người thuộc trường phái “tự do mới”, mặc dù đã phê phán lý thuyết
Keynes nhưng do phát triển trên cơ sở chủ nghĩa tự do kinh tế nên đã đề cao quá
sức mạnh điều tiết của thị trường, xem nhẹ vai trò kinh tế của Nhà nước. Có những
thất bại mà bản thân thị trường không thể giải quyết được Đó chính là điều kiện
cho sự ra đời của trường phái chính hiện đại với lý thuyết tiêu biểu về nền “kinh tế
hỗn hợp”.
Mầm mống của lý thuyết nền “kinh tế hỗn hợp” đã xuất hiện từ cuối những
năm 30 của thế kỷ XIX. Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, nó được các nhà kinh tế
học như A. Hasen tiếp tục nghiên cứu và được Samuelson phát triển trong tác
phẩm “kinh tế học” của ông.
Nếu các nhà kinh tế học thuộc trường phái “cổ điển” và “tân cổ điển” say
sưa với “bàn tay vô hình” tức là tuyệt đối hoá vai trò tự điều tiết của cơ chế thị
trường, Keynes với “bàn tay hữu hình” tức là cơ chế điều tiết của Nhà nước thì
Samuelson lại chủ trương phát triển nền kinh tế phải dựa vào cả hai bàn tay tức là
cơ chế thị trường và Nhà nước. Ông cho rằng “cả thị trường và Chính phủ đều cần
thiết cho một nền kinh tế vận hành lành mạnh”.
Để đối phó với những khuyết tật của cơ chế thị trường (CCTT), các nềnkinh
tế hiện đại đã phối hợp giữa bàn tay vô hình của thị trường và bàn tay hữu hình của
Chính phủ. Chính phủ có bốn chức năng trong nền kinh tế thị trường (KTTT) đó
là:
1) Thiết lập khuôn khổ Pháp luật: Chính phủ phải đề ra các nguyên
tắc trò chơi kinh tế mà các DN, người tiêu ding và bản thân chính

phủ cũng phảI tuân thủ. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng những giá
trị và quan điểm được đồng tình rộng rãI vè sự công bằng hơn là sự
phân tích kinh tế được mài dũa cẩn then về chi phí và lợi lộc.
2) Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có
hiệu quả.
 Do ảnh hưởng của độc quyền (các tổ chức độc quyền lợi dụng ưu thế của
mình để quy định giá cả và doanh thu độc quyền cao), do đó phá vỡ ưu thế
của cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy cần chính phủ can thiệp để hạn chế độc
quyền, đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh.
 Ngăn ngừa và khắc phục những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Tác động
bên ngoài làm thị trường hoạt động không có hiệu quả. Chính phủ phải sử
dụng luật lệ để điều hành kinh tế nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực
từ bên ngoài như ô nhiễm nước, không khí, khai thác cạn kiệt khoáng sản,
chất thải gây nguy hiểm cho thức ăn, đồ uống…
 Chính phủ phải đảm nhiệm việc sản xuất các hàng hoá công cộng. Hàng hoá
công cộng là loại hàng hoá mà người đã dùng và đang dùng thì người khác
vẫn dùng được như nước sạch, quốc phòng…
 Chính phủ thực hiện thu thuế để bù đắp chi tiêu.
3) Đảm bảo sự công bằng. Cho dù CCTT có hoạt động hoàn hảo nhất,
lý tưởng nhất vẫn không tránh khỏi sự phân hoá, bất bình đẳng
trong xã hội. Do đó, Chính phủ phảI thông qua chính sách để phân
phối lại thu nhập: thuế luỹ tiến (thuế đánh vào người giàu (thuế thu
nhập), thiết lập hệ thống hỗ trợ thu nhập, giúp đỡ người già, tàn tật,
trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu nhập thấp bằng cáh phát
phiếu thực phẩm, trợ cấp y tế và cho thuê nhà rẻ.
4) Ổn định kinh tế vĩ mô
Từ khi ra đời CNTB đã tong gặp những thời kỳ thăng trầm: chu kỳ của lạm
phát và suy thoái: siêu lạm phát ở Đức trong những năm 1920, đại suy thoái
ở Mỹ những năm 1930. Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá (thuế và chi
tiêu Chính phủ) và chính sách tiền tệ ( mức cung tiền và lãI suất) để tác động

đến sản lượng, việc làm giá cả của nền kinh tế. Tuy vậy, không một nước
nào vừa có tự do kinh doanh, vừa có lạm phát thấp và đầy đủ công ăn việc
làm.
AD= C + I + G + X - IM
Trong đó C: tiêu dùng của các hộ gia đình
I: Đầu tư
G: Chi tiêu của Chính phủ
X: Xuất khẩu
IM: Nhập khẩu
IS: cho biết trạng thái cân bằng của thị trường hàng hoá với các tổ hợp (i,Y)
khác nhau ( Y là thu nhập, I là lãi suát)
LM: cho biết trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ cũng với tổ hợp này.
Tăng chi tiêu của Chính phủ làm thu nhập tăng từ Y1 đến Y2, lãi suất tăng từ i1
đến i2. Tương tự đối với việc Chính phủ giảm thuế.
Chính sách tiền tệ. Cung tiền tăng làm lãi suất giảm, thu nhập tăng
PHẦN 2: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI
1. Trung quốc
Trung Quốc đã tiến hành cải cách kinh tế từ năm 1977. Đây là cuộc cải
cách lớn, toàn diện về kinh tế, từ tư duy lý luận đến hoạt động thực tiễn. Thời
gian trên 20 năm và những diễn biến của tình hình có thể làm căn cứ nhất định
để xem xét kết quả, cũng như những vấn đề cần tiếp tục theo dõi và nghiên cứu
về cuộc cải cách này.
Trong chính sách cải cách kinh tế của Trung Quốc, chúng ta không thể
phủ nhận đóng góp to lớn của Đặng Tiểu Bình.
Cái chết của mao Trạch Đông năm 1976 đã đem lại tự do cho Đặng Tiểu
Bình. Cuối năm 1978 Đặng Tiểu Bình trở thành nhà lãnh đạo tối cao của
Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình “nhặt nhạnh lại các mảnh vỡ”, từ những mảnh
vỡ này, ông tạo dựng nền tảng cho cuộc đại nhảy vọt thực sự của Trung Quốc
từ đó trở đi. Những cố gắng cải cách ban đầu của ông tập trung vào nông

nghiệp. Hệ thống nông nghiệp tập thể của Mao Trạch Đông đã gây ra những
hậu quả thật tồi tệ. Nhưng chỉ sau 16 năm dưới chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình
sản lượng tăng hơn 50%, điều hoàn toàn không có trong hệ thống của Mao
Trạch Đông. Chiến dịch của Đặng Tiểu Bình đã gặt hái được nhiều kết quả
trong Đại hội đảng cộng sản lần thứ 14, mùa thu năm 1992 khi khẳng định lại
cam kết đối với cải cách. Đó là luận điểm sáng suốt cảu Đặng Tiểu Bình rằng
Trung Quốc nên chuyển từ một nền kinh tế hàng hoá kế hoạch XHCN sang nề
kinh tế thị trường XHCN.
Những cải cách kinh tế của Trung Quốc thể hiện tư duy mới trong
thực tiễn quản lý nhà nước về kinh tế.
Cải cách ở Trung Quốc trong hơn 20 năm qua mang một dạng thử
nghiệm kinh tế-xã hội rộng lớn trong khuôn khổ chiến lược “hiện đại hóa”. Cơ
sở lý luận của chiến lược này là: Chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế hàng hóa có
kế hoạch”, áp dụng nhiều hình thức sở hữu và hoạt động kinh doanh, từ bỏ
phương thức quản lý tự cung tự cấp chuyển sang cơ chế “kinh tế mở”. Đồng
thời, áp dụng kinh nghiệm của thế giới, dựa vào sức mình, tránh sự áp đặt từ
bên ngoài (Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cũng như Ngân hàng Thế giới (WB)…)
khi vạch ra chính sách kinh tế vĩ mô của mình.
Cải cách kinh tế được hướng vào những điểm chung nhất như:
1. Loại bỏ sự tập trung hóa quá mức và sự kìm kẹp hành chính, mở rộng
quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp,
2. Giải tán các công xã, áp dụng các hình thức hợp tác xã kiểu mới ở
nông thôn,
3. Cùng với phương thức “khoán gia đình” trong nông nghiệp, hầu hết
các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước đều được chuyển sang hệ thống
“khoán về kinh tế”;
4. Thực hiện chương trình hiện đại hóa khu vực kinh tế nhà nước,
5. Cải cách các chính sách giá và tỷ giá theo cơ chế thị trường.
6. Từ đầu năm 1994, Trung Quốc tiến hành một loạt cải cách chính sách
thuế.

7. Thực hiện nhanh chóng cơ chế kinh tế mở cửa ra thế giới.
8. Từng bước cải cách hệ thống bảo đảm xã hội.
III. Kết quả và những vấn đề tồn tại
1. Những tiến bộ chủ yếu
- Liên tục trong hơn 20 năm cải cách, nền kinh tế của Trung Quốc đã tăng
trưởng với tốc độ nhanh vào loại nhất thế giới, GDP tăng trung bình trên
9%/năm. Trung Quốc đứng đầu thế giới về sản xuất lương thực, bông, than, sắt
thép, xi măng, kính, vải sợi. Năm 1998, mặc dù bị ảnh hưởng lũ lụt nặng nề,
khủng hoảng tiền tệ-tài chính ở các nước trong khu vực và thế giới, song nông
nghiệp Trung Quốc vẫn được mùa, sản xuất công nghiệp vẫn tăng khoảng 9%,
GDP tăng 7,8%
- Trung Quốc có những chuyển biến tích cực trong cơ cấu kinh tế.
- Đạt thành tựu lớn trong kinh tế đối ngoại. năm 1997, kim ngạch xuất
nhập khẩu đạt trên 325 tỷ USD, tăng 8,5 lần so với năm 1980, xuất siêu hơn 40
tỷ USD. Giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chiếm tỷ lệ trong tổng kim
ngạch xuất khẩu tăng từ 50% năm 1980 lên 80% năm 1997.
Thu nhập bằng tiền của nhân dân ở đô thị tăng từ 316 nhân dân tệ năm 1978 lên
5160,3 nhân dân tệ (gần 17 lần) năm 1997.
Trung Quốc đã khẳng định sự thắng lợi trong việc chuyển sang nền kinh tế
thị trường và vai trò quyết định của nhà nước trong quản lý kinh tế thị
trường.
Tăng trưởng GDP (%) của một số nền kinh tế thế giới trong thời kỳ
1998 - 2000
Nước 1998 1999 2000
Trung Quốc 7,8 6,6 7,0
Thái Lan -8,0 1,0 3,0
Việt Nam 3,5 3,5 4,5
Nhật Bản -2,8 -1,4 0,3
Mỹ 3,9 3,3 2,2
Toàn thế giới 2,5 2,3 3,4

2. Nước Anh
Cuối năm 1978, nước Anh gặp khủng hoảng, chiến dịch biểu tình nổi lên, nước
Anh cần giải quyết những khó khăn cam go đó. Và người đã làm thay đổi lớn đó
chính là Margaret Thatcher.
Đảng bảo thủ giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử năm 1979 và Margaret
Thatcher trở thành thủ tướng. Là người lãnh đạo phe đối lập tè năm 1974, bà
không giấu việc của mình cũng là một trong những người ủng hộ thị trường tự do.
Hai vấn đề lớn nhất của nền kinh tế Anh lúc đó là sự độc quyền của các ngành
quốc hữu hoá và sự độc quyền của các nghiệp đoàn, để chế ngự hai vấn đề này, bà
sẽ phải tuyên chiến. Cùng lúc đó chính phủ cũng đang bận bịu với việc cố gắng
thay thế lý thuyết Keynes bằng lý thuyết của trường phái tiền tệ. Thay vì can thiệp
bằng chính sách tài khoá, chính phủ của Đảng bảo thủ tin rằng công việc chính của
mình là đảm bảo một mức tăng tiền ổn định sao cho tương xứng với tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Sự can thiệp quá sâu của nhà nước đã gây nên những hậu quả xấu.
Chính vì vậy Thatcher đã tiếp cận theo hướng mới với sự tập trung vào thị trường
hơn là vào chính phủ.
Thatcher đã ở một vị thế có thể theo đuổi một chương trình xứng đáng gọi là chủ
nghĩa Thatcher. Chương trình bao gồm nhiều vấn đề như: sự loại bỏ trường phái
Keynes, chế ngự nhà nước phúc lợi và chi tiêu chính phủ, cam kết giảm sự can
thiệp trực tiếp của chính phủ vào nền kinh tế.
Trong thời kỳ này nước Anh chỉ áp dụng một phần nhỏ học thuyết kinh tế của
Keynes để điều tiết nền kinh tế như chính sách đầu tư, thu hút đầu tư, tạo việc làm
cho dân thông qua các đơn đặt hàng, giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm tỷ lệ lãi suất.
Chính sách về pháp luật kinh tế, sử dụng các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô để tác
động vào nền kinh tế. Sau một thời gian, nước Anh đã đạt được những thành tựu
kinh tế đáng chú ý.
BẢNG 1. SO SÁNH NĂNG SUẤT
GDP bình quân 1 người lao
động
GDP bình quân 1 giờ làm

việc
1990 1995 2000 2004 199
0
1995 2000 2004
Pháp 131 123 118 111 144 137 134 129
Đức 111 104 97 126 121 112
Nhật 107 97 92 89 93 90 86 83
Anh 100 100 100 100 100 100 100 100
Mỹ 137 130 128 124 130 120 117 114
G7 117 114 109 114 111 106
G7 (trừ Anh) 119 115 110 116 112 107
(Chỉ số của Anh =100)
3. Cộng hoà Liên bang Đức
Ngày 3 tháng 10 năm 1990 nước Đức thống nhất (có tên là Cộng hoà Liên bang
Đức, kể từ đó đến nay, chính quyền Liên Bang Đức đã làm tất cả những gì có thể
làm được để cân bằng chênh lệch trong mức sống giữa hai khối dân Đông và Tây
Đức.
Sau khi tái thống nhất nước Đức tạm thời phải gánh vác thêm nền kinh tế suy tàn
của các tiểu bang mới. Việc này chủ yếu được trang trải bằng cách mượn thêm nợ
mới và chuyển một số khoản phí tổn vào các hệ thống bảo vệ xã hội. Sau mười
năm tái thống nhất Đức, có thể nhận ra được nhiều tiến bộ to lớn trong việc nâng
cao mức sống của người dân Đông Đức, một nền kinh tế thị trường được thiết lập
và hệ thống hạ tầng cơ sở được cải tiến. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Đông Đức
thấp hơn ở Tây Đức, tỷ lệ thất nghiệp cao gấp hai lần, vì thế nhiều lao động có tay
nghề đi tìm việc làm ở Tây Đức. Năng suất lao động ở Đông Đức vẫn ở mức thấp.
Lượng tiêu dùng ở Đông Đức phụ thuộc trực tiếp vào số tiền chi viện từ Tây Đức,
hằng năm vào khoảng 65 tỷ $ hay hơn 4% tổng sản phẩm quốc nội của Tây Đức.
Đức đã cải cách các chính sách phát triển kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tạo việc làm cho Đông Đức để giảm chênh lệch về mức sống và thu nhập.
Mô hình của Đức sau khi thống nhất là mô hình Thị trường xã hội, và theo đó các

chính sách về xã hội được quan tâm nhiều.
Nền kinh tế thị trường xã hội không đồng nhất với cái gọi là ‘nền kinh tế thị trường
tự do’. Nghĩa là nó khác với quan niệm cho rằng chỉ cần tăng cường những điều
kiện pháp lý nhằm thực hiện những chức năng cổ điển của nhà nước.
Vai trò cuả Chính phủ được xây dựng trên cơ sở sáng kiến cá nhân và cạnh tranh
có hiệu quả. Sự can thiệp của nhà nước chỉ cần thiết ở những nơi không có cạnh
tranh hiệu quả.
Nhà nước có những chính sách xã hội rất điển hình như: chính sách hỗ trợ, cạnh
tranh hiệu quả, ổn định kinh tế, an ninh công bằng xã hội, chính sách tăng trưởng.
Chính sách trợ cấp thất nghiệp tạm thời, chính sách thuế thu nhập, thu thuế của
những người giàu để phân phối lại cho những người nghèo, người có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, không nơi nương tựa.
Các số liệu chính của toàn nền kinh tế
Tên Đơn vị 2002 2003 2004
Tổng sản phẩm quốc nội Tỷ EUR 2.107,30 2.128,20 2.177,00
Xuất khẩu Tỷ EUR 761,59 769,29 834,82
Nhập khẩu Tỷ EUR 666,78 677,11 720,75
Tổng sản lượng quốc gia Tỷ EUR 2.088,08 2.114,18 2.171,22
Thu nhập quốc dân Tỷ EUR 1.551,88 1.569,26 1.615,58
Tỷ lệ thay đổi GDP theo giá 1995 % 0,1 -0,1 1,6
Nguồn: Tổng cục thống kê liên bang Đức
PHẦN 3: VAI TRÒ KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI
KỲ PHÁT TRIỂN
Kinh tế Việt Nam từ sau khi đất nước giành độc lập (30/4/1975) đến trước Đại hội
Đảng VI có nhiều diễn biến phức tạp.
Vào cuối những năm 70, Việt Nam là một nền kinh tế đầy khó khăn sau chiến
tranh. Viện trợ của Trung Quốc, trước đó là trụ cột cho nền kinh tế thời chiến ở
miền Bắc đã chấm dứt. Viện trợ từ Liên xô bị giảm. Hoa Kỳ áp đặt cấm vận kinh
tế. Những cố gắng mở rộng hợp tác hoá nông nghiệp không mang lại hiệu quả như
mong đợi. Không giống như hệ thống kế hoạch hoá tập trung cao độ tại Liên bang

Xô Viết, chính phủ Việt Nam không kiểm soát nhiều nền kinh tế.
Nền kinh tế bộc lộ dần dần những bất cập.
Giai đoạn này chỉ tồn tại hai loại hình sở hữu là sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước.
Các doanh nghiệp trong nền kinh tế là các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, hoạt
động theo kế hoạch và chỉ đạo của nhà nước. Với cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp, các doanh nghiệp này không tự độc lập hoạt động, không năng động sáng
tạo phát triển thị trường, nghiên cứu phát triển sản phẩm, hàng hoá đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng.
Giai đoạn này cũng là giai đoạn Nhà nước áp đặt giá cho các hàng hoá, sản phẩm,
quy luật giá cả, quy luật cung cầu không được áp dụng, không được tôn trọng.
Chính vì vậy nên cũng rất khó cho các doanh nghiệp xác định những mục tiêu phát
triển do không tồn tại những tín hiệu của thị trường.
Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này thực sự trì trệ và kém phát triển. Đời sống
nhân dân khó khăn, cơ cực. Với chế độ tem phiếu đã không đảm bảo cho nhân dân
lao động đủ nhu cầu thực phẩm cần thiểt. Và chính chế độ này cũng tạo ra một thị
trường chợ đen mà trên đó hàng hoá được trao đổi với sự sai khác rất lớn về giá cả,
do cung không đủ đáp ứng cầu.
Kế hoạch hoá tập trung về danh nghĩa đã che dấu sự mâu thuẫn và những quyền lợi
khác nhau của các cơ quan nhà nước, sử dụng những công ty nhà nước và tài sản
nhà nước cho nhiều hoạt động khác nhau mà không bị xử phạt. Kết quả là tài sản
nhà nước bị thất thoát tràn lan, thâm hụt ngân sách ở mọi nơi và tình trạng bất ổn
định về kinh tế vĩ mô ngày càng gia tăng. Lạm phát sảy ra thường xuyên và với tốc
độ phi mã. Một cuộc khủng hoảng về cán cân thanh toán treo lơ lửng kết hợp với
những thiếu thốn kinh niên và nạn đói cận kề ở nhiều vùng khiến cải cách trở nên
cấp bách.
Đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về đường lối phát triển kinh tế, về quan điểm quản
lý của Nhà nước trong hoạch định chính sách.
Đại hội Đảng VI đã chỉ ra: “chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp
sang phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý và điều tiết vĩ mô
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”

Ngay trong nhận định này đã bao hàm phương hướng phát triển kinh tế và vai trò
quản lý của Nhà nước về kinh tế. Đó là phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường, có nghĩa là chấp nhận sự tồn tại khách quan của thị trường, sự tồn tại và
hoạt động của các quy luật (quy luật cung cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh
tranh ); bên cạnh đó, Nhà nước đóng vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế một
cách vĩ mô, chỉ can thiệp khi có những tác động, biến động lớn có thể gây tổn hại
đến thị trường, tổn hại đến đại bộ phận lợi ích của nhân dân lao động. Không
những thế, Nhà nước cũng đóng vai trò là một chủ thể tham gia thị trường, tham
gia vào các hoạt động của nền kinh tế.
Giai đoạn sau ĐỔI MỚI
Năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của kinh tế
Việt Nam. Theo đó, nền kinh tế chuyển đổi theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đứng trước tình hình suy thoái kinh tế, chính phủ đã tiến hành những cải cách ban
đầu chủ yếu nhằm chế ngự siêu lạm phát và ổn định những vấn đề mất cân đối
trong kinh tế vĩ mô. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và những yếu tố kế hoạch
hoá đã bị bãi bỏ, bước đầu công nhận vai trò của kinh tế tư nhân, giai đoạn đầu tuy
vẫn còn hạn chế. Tuy nhiên, nhà nước vẫn tham gia chủ đạo vào nền kinh tế.
Nhưng thực sự những thành công từ công cuộc đổi mới này phải đến những năm
90 mới thấy rõ kết quả của nó.
Các số liệu về phát triển kinh tế của việt nam giai đoạn này:
- tốc độ tăng trưởng kinh tế
- giá trị GDP qua các năm
- thu nhập bình quân đầu người
- các hệ số phản ánh sự phát triển như: về giáo dục, về y tế, sức khoẻ của
người dân
- chỉ số phát triển con người
-
Từ kết quả đạt được trong quá trình đổi mới có thể đưa ra một số nhận định sau:
- Vai trò của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế được thể hiện trước hết

chính là vai trò “bà đỡ” cho thị trường hình thành và phát triển. Điều này
được thể hiện rõ qua các nhiệm vụ sau:
+ Thứ nhất, Nhà nước sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật để cho thị trường
phát triển, xoá bỏ các luật lệ gây cản trở hoạt động của thị trường, xây dựng hệ
thống pháp luật phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường.
+ Thứ hai, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước phù hợp với yêu
cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đưa hệ thống pháp
luật vào cuộc sống; quản lý xã hội, quản lý kinh tế bằng pháp luật.
+ Thứ ba, với tư cách là một chủ thể kinh tế lớn, là một nhà đầu tư và là hộ tiêu
dùng lớn nhất trong xã hội, các hoạt động đầu tư, chi tiêu của Nhà nước nếu
tuân thủ các quy luật của thị trường sẽ góp phần làm lành mạnh, minh bạch các
hoạt động kinh tế.
+ Thứ tư, với tư cách là người quản lý toàn bộ đất đai, Nhà nước cần phải quản
lý, phân bổ nguồn lực này một cách hợp lý theo nguyên tắc thị trường; hình
thành và hoàn thiện thị trường đất đai, một yếu tố không thể thiếu được trong
nền kinh tế thị trường.
- Vai trò thứ hai của Nhà nước là định hướng, hỗ trợ quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế: Định hướng bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội. Điều tiết, định hướng các hoạt động của các chủ thể kinh tế
thông qua các chính sách thuế, chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư… Hỗ
trợ các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận thông tin, phân tích xu hướng, nhu
cầu của thị trường; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế như hệ thống giao
thông thuỷ lợi, cung cấp điện, nước sạch… đây là những hoạt động đầu tư
đòi hỏi nguồn vốn lớn, nhưng lại rất khó thu lợi nhuận trực tiếp, do vậy mặc
dù đã có nhiều giải pháp thu hút vồn đầu tư tư nhân, nhưng cho đến nay
Nhà nước vẫn là người đầu tư chính trong các lĩnh vực này.
- Vai trò thứ ba là Nhà nước kiểm soát, hạn chế những mặt trái của cơ chế thị
trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Thể hiện qua một số
nhiệm vụ:
+ Thứ nhất, đó là bảo vệ môi trường sinh thái. Các chủ thể kinh tế trong nền

kinh tế đều tìm cách tối đa hoá lợi nhuận của mình. Do vậy trong chi phí của họ
không bao gồm hoặc có thì cũng rất ít chi phí bù đắp những thiệt hại về môi
trường mà các hoạt động sản xuất của họ gây ra cho xã hội. Bởi vậy, Nhà nước
cần có những biện pháp phù hợp đề bảo vệ môi trường sinh thái như: Nhà nước
đặt ra các tiêu chuẩn về môi trường, đặt ra các mức thuế áp dụng cho các hoạt
động sản xuất gây ô nhiễm…
+ Thứ hai, là thực hiện các chính sách xã hội, phát triển kinh tế ở những vùng
khó khăn. Cơ chế thị trường bao giờ cũng khuyến khích các chủ thể kinh tế đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh ở những khu vực thành thị có điều kiện thuận
lợi. Điều này tất yếu sẽ dẫn tới sự phát triển không đồng đều giữa các vùng
trong nước, nới rộng khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, đặc
biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Sự bất bình đẳng này về lâu dài sẽ ảnh
hưởng không tốt tới sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Để giải quyết vấn
đề này, Nhà nước ngoài các công cụ chính sách khuyến khích đầu tư, thu hút
các thành phần kinh tế đầu tư vào những địa bàn khó khăn, thì bên cạnh đó,
Nhà nước bằng thực lực kinh tế của mình tiến hành đầu tư, phát triển kinh tế xã
hội, nâng cao đời sống của người dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam không coi cơ chế thị trường là liều thuốc vạn năng và
vì vậy không phát triển nó về mọi phương diện. Kinh tế thị trường tuy có nhiều
điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật. Hơn
nữa, quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực
và tệ nạn xã hội. Thực tiễn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy, bên
cạnh những tác động tích cực cơ bản, những tác động tiêu cực do mặt trái của
kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt trên phương diện
tư tưởng, đạo đức, lối sống… những hiện tượng tiêu cực như do làm ăn thuần
tuý chạy theo lợi nhuận đã dẫn đến các hình thức lừa đảo, hối lộ, trốn thuế…
thương mại hoá tràn lan xâm nhập cả vào các lĩnh vực dễ tổn thương như y tế,
giáo dục, văn hoá… đã làm cho các giá trị đạo đức tinh thần bị băng hoại và
xuống cấp, đồng tiền đã chi phối nhiều quan hệ giữa người với người, sự phân
hoá giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng lên, lối sống ích kỷ thực

dụng có nguy cơ gia tăng… Bởi vậy, Đảng ta chỉ rõ: vận dụng các hình thức và
phương pháp quản lý kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó, phục
vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa.

×