Tải bản đầy đủ (.docx) (131 trang)

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI CỦA SÂU VẼ BÙA Phyllocnistis citrella Stainton HẠI CÂY CAM VÀ LOÀI ONG KÝ SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

HỒ THỊ QUỲNH TRANG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI
CỦA SÂU VẼ BÙA Phyllocnistis citrella Stainton HẠI
CÂY CAM VÀ LOÀI ONG KÝ SINH Cirrospilus sp.
NĂM 2009 - 2010 TẠI GIA LÂM, HÀ NỘI.
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Bảo vệ thực vật
Mã số: 60.62.10
Người hướng dẫn khoa học: PSG.TS. HỒ THỊ THU GIANG
HÀ NỘI - 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong bản
luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề được sử dụng cho việc
bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn tốt nghiệp đều đã
được cảm ơn. Các thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn này đã
được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả
Hồ Thị Quỳnh Trang
Lêi c¶m ¬n

 !"!#$!%&'( 
'!&)*!+,
/0 1234.056/
789,-9
,
:+-;-8!"<=> ?@
<A$!%!BC .D'.&E


!=,
- 1F>G5/'( 'BG 
H .IJK -( 'L!)!)M
>)N :NB!"$!%)!=3
# !=,
- 1G5$!%"!)!;5'B
 <!")G!=3=>!;!G 
!=,
HI 1F>G5/!&)*
!+!"!BC$!% ,
OB(P 1..G5Q
:NBNRS'STGUSVS
-'
:+-;WX 
MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thành phần ong ký sinh sâu vẽ bùa ở phía đông Địa Trung Hải 22
Bảng 4.1. Diễn biến sâu vẽ bùa trên các giống cam tại 46
Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội năm 2009 - 2010 46
Bảng 4.2. Ảnh hưởng của các đợt lộc đến diễn biến sâu vẽ bùa tại Văn
Đức, Gia Lâm, Hà Nội năm 2009 - 2010 48
Bảng 4.3. So sánh diễn biến sâu vẽ bùa trên các vườn cam Đường canh
khác nhau tại Gia Lâm, Hà Nội năm 2009 - 2010 50
Bảng 4.4. Ảnh hưởng của lượng mưa đến mật độ sâu vẽ bùa trên cam
đường canh tại Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội 52
Bảng 4.5. Kích thước các pha phát dục của sâu vẽ bùa hại cây cam
Đường canh tại Gia Lâm, Hà Nội 42
Bảng 4.6. Tỷ lệ trưởng thành sâu vẽ bùa vũ hoá trong ngày tại Gia Lâm,
Hà Nội 60

Bảng 4.7. Tỷ lệ nhộng đực và nhộng cái sâu vẽ bùa P. Citrella tại 62
Gia Lâm, Hà Nội 62
Bảng 4.8. Vòng đời của sâu vẽ bùa trên cam Đường canh qua các tháng
khác nhau tại Gia Lâm, Hà Nội 65
Bảng 4.9. Ảnh hưởng của cây ký chủ đến vòng đời của sâu vẽ bùa tại Gia
Lâm, Hà Nội 68
Bảng 4.10. Ảnh hưởng của cây ký chủ đến tỷ lệ sống sót của sâu vẽ bùa
tại Gia Lâm, Hà Nội 69
Bảng 4.11. Nhịp điệu sinh sản của sâu vẽ bùa trên cây cam đường canh
tại Gia Lâm, Hà Nội 70
Bảng 4.12. Tỷ lệ trứng sâu vẽ bùa nở sau các ngày đẻ trứng trên cam Đường
canh tại Gia Lâm, Hà Nội 72
Bảng 4.13. Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến thời gian sống
của trưởng thành sâu vẽ bùa tại Gia Lâm, Hà Nội 73
Bảng 4.14. Hiệu lực một số loại thuốc trừ sâu vẽ bùa ngoài đồng ruộng tại
Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội 61
Bảng 4.15. Thành phần các loài ong ký sinh trên sâu vẽ bùa tại Gia Lâm,
Hà Nội 63
Bảng 4.16. Tỷ lệ các loài ong ký sinh sâu vẽ bùa hại cây có múi tại Gia
Lâm, Hà Nội 81
Bảng 4.17. Tỷ lệ đực/ cái của trưởng thành ong Cirrospilus sp. tại Gia
Lâm, Hà Nội 86
Bảng 4.18. Sựa chọn vật chủ của ong Cirrospilus sp 71
Bảng 4.19. Thời gian phát dục trước pha trưởng thành ong ký sinh Cirrospilus sp.
88
Bảng 4.20. Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến thời gian sống
của trưởng thành ong ký sinh Cirropilus sp 73
DANH MỤC HÌNH ẢNH, SƠ ĐỒ
Hình 3.1. Cam Đường canh 24
Hình 3.2. Cam Vinh 34

Hình 3.3. Một số hình ảnh thí nghiệm 37
Hình 3.4. Thu nguồn ong ký sinh và TT sâu vẽ bùa từ đồng ruộng 38
Hình 3.5. Nhân nuôi nguồn ký 38
chủ sâu vẽ bùa 38
Hình 4.1. Diễn biến mật độ sâu vẽ bùa trên 2 giống cam Đường canh và
cam Vinh tại Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội năm 2009 - 2010 46
Hình 4.2. Ảnh hưởng của các đợt lộc đến diễn biến mật độ sâu vẽ bùa ở
Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội năm 2009 - 2010 48
Hình 4.3. Diễn biến mật độ sâu vẽ bùa trên các vườn cam Đường canh
khác nhau tại Gia Lâm, Hà Nội năm 2009 - 2010 50
Hình 4.4. Trứng mới đẻ 54
Hình 4.5. Trứng sắp nở 54
Hình 4.6. Sâu non tuổi 1 55
Hình 4.7. Sâu non tuổi 2 55
Hình 4.8. Sâu non tuổi 3 56
Hình 4.9. Sâu non tuổi 4 56
Hình 4.10. Nhộng đực và nhộng cái 57
Hình 4.11. Trưởng thành cái 58
Hình 4.12. Trưởng thành đực 58
Hình 4.13. Tỷ lệ trưởng thành sâu vẽ bùa vũ hóa trong ngày tại Gia Lâm,
Hà Nội 61
Hình 4.14. Triệu chứng trên cam Đường canh 64
Hình 4.15. Triệu chứng trên bưởi Diễn 64
Hình 4.16. Triệu chứng trên thân non 64
Hình 4.17. Móc miệng của sâu non tuổi 4 64
Hình 4.18. Sâu non tuổi cuối chuẩn bị vào nhộng 64
Hình 4.19. Nhộng của sâu vẽ bùa ở trong lá 64
Hình 4.20. Hiện tượng giao phối 65
Hình 4.21. TT ẩn nấp sau mặt lá 65
Hình 4.22. Nhịp điệu sinh sản của sâu vẽ bùa trên cây cam đường canh

tại Gia Lâm, Hà Nội 71
Hình 4.23. Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến thời gian sống
của trưởng thành sâu vẽ bùa tại Gia Lâm, Hà Nội 74
Hình 4.24. Hiệu lực của một số loại thuốc đối với sâu vẽ bùa ngoài đồng ruộng
tại Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội 76
Hình 4.25. Một số hình ảnh về thành phần ong ký sinh trên sâu vẽ bùa 79
Hình 4.26. Tỷ lệ các loài ong ký sinh sâu vẽ bùa hại cây có múi tại Gia
Lâm, Hà Nội 80
Hình 4.27. Ấu trùng của ong ký sinh Cirrospilus sp 84
Hình 4.28. Nhộng của ong ký sinh Cirrospilus sp 84
Hình 4.32. Thời gian sống của trưởng thành ong ký sinh qua các loại thức
ăn khác nhau 90
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVTV Bảo vệ thực vật
KTCB Kiến thiết cơ bản
KS Ký sinh
STT Số thứ tự
NĐ Nước đường
NSM Ngày sau mưa
NSP Ngày sau phun
MONC Mật ong nguyên chất
SN Sâu non
SVB Sâu vẽ bùa
TB Trung bình
TT Trưởng thành
TM Trước mưa
1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Ngày nay, nông nghiệp đóng góp một phần quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế thế giới. Trong đó nghề trồng cây ăn quả đã mang lại giá

trị kinh tế to lớn, nhiều nước đã giàu lên nhờ phát triển cây ăn quả. Và
cây ăn quả có múi trở thành loại quả quan trọng, có sản lượng cao nhất
trong tổng số các loài cây ăn quả trên thế giới (theo FAO, 1991) [10]. Với
nguồn gốc từ các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Đông Nam Á, cây có
múi (thuộc họ Rutaceae, bộ Citrera) đã và đang được phát triển rộng rãi
trên thế giới.
Cây ăn quả có múi mang lại giá trị dinh dưỡng cao nên nó là loại quả
được nhiều người ưa chuộng. Trong thành phần thịt quả có chứa 6 - 12%
đường (chủ yếu là đường Saccaroza), hàm lượng vitamin C có từ 40 - 90
mg/100g quả tươi và các axit hữu cơ từ 0,4 - 1,2% trong đó có nhiều chất
có hoạt tính sinh học cao cùng với các chất khoáng và dầu thơm (Hoàng
Ngọc Thuận 2005, [15]). Vì cây ăn quả có múi mang lại giá trị dinh
dưỡng cao nên được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau như dùng để
ăn, vắt lấy nước uống, chế biến thức ăn, làm mứt, chế biến nước giải
khát, ….và trong công nghiệp người ta sử dụng vỏ và hạt của cây có múi
để tách chiết tinh dầu, bã tép để sản xuất pectin có tác dụng tốt trong việc
chữa các bệnh về tim mạch, đường ruột cũng như chống ung thư [4].
Việt Nam với khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới nên trồng cây ăn quả
có múi vốn có từ lâu đời. Đặc biệt trong những năm gần đây do hiệu quả
kinh tế cao hơn các cây khác nên diện tích cây có múi tăng nhanh. Số liệu
thống kê cho thấy năm 1985 diện tích trồng cây có múi đạt 12.720 ha với
sản lượng 99.302 tấn quả, đến năm 1999 con số này đã lên đến 63.400 ha
tương ứng 400.100 tấn quả (Đường Hồng Giật 2004, [9]).
Các tỉnh miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng là những địa
phương có nhiều tiềm năng cho việc phát triển cây có múi. Bởi khí hậu ở
miền Bắc với mùa đông lạnh, nhiệt độ và ẩm độ giảm thấp gần vụ thu
hoạch nên cây có múi có phẩm chất tốt và vỏ quả đẹp [15]. Trong khu
vực đồng bằng sông Hồng thì huyện Gia Lâm là một huyện xa trung tâm
với đặc tính có đất rộng và đất được bồi đắp hàng năm nên rất thích hợp
cho việc trồng cây ăn quả có múi. Người dân ở đây tập trung vào trồng

cam Đường Canh, cam Vinh và bưởi Diễn, hàng năm cho năng suất và
chất lượng cao.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về sản lượng cây có múi phục vụ
tiêu thụ và xuất khẩu, người dân đã thâm canh để tăng diện tích. Chính
điều này cũng tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển mạnh mẽ và có diễn
biến phức tạp. Thành phần sâu bệnh hại ghi nhận được trên cây có múi
rất phong phú và đa dạng. Theo Phạm Văn Lầm, 2005 [13] có 169 loài
sâu hại thuộc 45 họ, 9 bộ côn trùng và nhện nhỏ gây hại trên cây có múi.
Trong số các loài gây hại trên cam quýt thì sâu vẽ bùa là loài nguy hiểm
nhất. Sâu vẽ bùa có mặt trên cây có múi quanh năm và gây hại trên các
đợt lộc. Hoàng Lâm, đại học Cần Thơ (199) [51], đã ghi nhận vẽ bùa là
đối tượng gây hại nghiêm trọng. Thời kỳ cao điểm tỷ lệ lá bị vẽ bùa hại có
thể lên đến 100% trên cây quất 2 năm tuổi. Với sự gây hại đặc trưng là
sâu đục bên trong lớp biểu bì lá nên việc phòng trừ sâu vẽ bùa trở nên
khó khăn.
Để bảo vệ năng suất và làm giảm thiệt hại do sâu bệnh vẽ bùa gây ra
người dân đã thường xuyên phun thuốc hóa học với liều lương và số lần
tăng cao. Tuy nhiên với sâu vẽ bùa việc phun thuốc hóa học hiệu lực có
thể bị giảm do sâu ở trong lớp biểu bì lá. Sự lạm dụng thuốc trừ sâu
không những không tiêu diệt được sâu vẽ bùa mà còn làm ảnh hưởng đến
con người, môi trường và làm giảm nghiêm trọng số lượng thiên địch
trên sâu vẽ bùa.
Trên thế giới đã ghi nhận khá nhiều loài ong ký sinh trên sâu vẽ bùa.
Ở Việt Nam, năm 1996 - 1998 Huỳnh Đức Trí, Nguyễn Dương Tuyến đã
xác định có 7 loài ong ký sinh thuộc các họ Eulophidae và Eurytomidae
ký sinh trên sâu vẽ bùa trong đó loài Ageniapis citricola và Citrostichus
phyllocnistoides có tỷ lệ ký sinh cao. Loài Ageniapis citricola có nguồn
gốc châu Á và phát hiện đầu tiên ở Việt Nam [16].
Nhằm mục đích góp phần tìm hiểu về sâu vẽ bùa và ong ký sinh trên
sâu vẽ bùa giúp tìm ra được biện pháp phòng chống sâu vẽ bùa một cách

có hiệu quả, được sự phân công của Viện đào tạo sau đại học và Bộ môn
Côn trùng trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái của sâu vẽ
bùa (Phyllocnistis citrella Stainton) hại cây cam và loài ong ký sinh
Cirropilus sp. năm 2009 - 2010 tại Gia Lâm, Hà Nội”.
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm sinh học, sinh thái của sâu vẽ
bùa hại cây cam (Phyllocnistis citrella Stainton) và loài ong ký sinh có
triển vọng trên sâu vẽ bùa từ đó đề xuất biện pháp phòng chống chúng
một cách có hiệu quả trên đồng ruộng.
1.2.2. Yêu cầu
* Điều tra diễn biến mật độ, tỷ lệ hại, chỉ số hại sâu vẽ bùa trên cây
cam dưới ảnh hưởng của các điều kiện sinh thái khác nhau tại Gia Lâm, Hà
Nội.
* Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái của sâu vẽ bùa
hại cây cam.
* Điều tra thành phần, tần suất xuất hiện, tỷ lệ ký sinh của ong ký
sinh sâu vẽ bùa và nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái của
loài ong ký sinh Cirropilus sp.
* Đánh giá hiệu lực một số loại thuốc trừ sâu vẽ bùa ngoài đồng
ruộng.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Kết quả đìều tra cho biết sự xuất hiện gây hại của sâu vẽ bùa trên
hai giống cam Vinh và cam Đường Canh ở Gia Lâm, Hà Nội.
- Bổ sung một số dẫn liệu về đặc điểm hình thái, đặc điểm sinh học
của loài sâu vẽ bùa và loài ong ký sinh.
- Trên cơ sở nghiên cứu đưa ra biện pháp bước đầu khích lệ và bảo
vệ các loài ong ký sinh trên sâu vẽ bùa.
- Trên thực tiễn, những kết quả nghiên cứu giúp người dân nhận biết

được sâu vẽ bùa cũng như mức độ gây hại của nó trên cây cam. Mặc
khác người dân có thể nhận biết được vai trò của ong ký sinh trên sâu vẽ
bùa.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
2.1.1. Tình hình nghiên cứu về sâu vẽ bùa
* Lịch sử phát hiện và vùng phân bố của sâu vẽ bùa
+ Lịch sử phát hiện: Sâu vẽ bùa Phyllocnistis citrella Stainton thuộc
họ Ngài đục lá Gracilaridae, bộ cánh vảy Lepidoptera. Sâu vẽ bùa có
nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Á từ Afghanistan tới Trung Quốc và
được Stainton mô tả chính thức trên giống Citrus ở Calcuta, Ấn Độ vào
năm 1986 [47].
+ Sự phấn bố của sâu vẽ bùa: Trong khu vực châu Á sâu vẽ bùa
nhanh chóng phát tán sang các nước khác nhau. Sau đó chúng thông qua
miền nam châu Á từ Saudi Arabia cho đến Ấn Độ (Fletcher 1920),
Indonesia (Kalshoven 1981), Philippines (Sasscer 1915), Đài Loan (Chiu
1985, Lo và Chiu 1988) và vào phía Nam Nhật Bản (Clausen 1927) [45].
Ở Trung Quốc, sự gây hại của sâu vẽ bùa được ghi nhận từ năm 1933, khi
điều tra sâu hại cam ở vùng Hà Châu và vùng Tây Nam Quảng Đông.
Cho đến thập kỷ gần đây, sâu vẽ bùa trở thành loài sâu hại quan trọng
trong tất cả các vườn cam chanh ở Trung Quốc (Trần Thị Bình, 2002) [2].
Xuyên qua khu vực châu Á, sâu vẽ bùa đã xuất hiện ở phía Đông châu
Phi năm 1980 [47]. Từ đó chúng xuất hiện ở các nước phía nam châu Phi,
vùng Địa Trung Hải và gây hại sang khu vực châu Âu [45]. Tháng 5 năm
1993 sâu vẽ bùa được phát hiện trong vườn ươm cây quả có múi ở
Florida (Jesusa Crisostomo, 2000 [27]). Trong thời gian 3 tháng, sâu vẽ
bùa đã gây hại trong các khu vực trồng cây có múi của ở Florida và
nhanh chóng trở thành một loài dịch hại lớn [27]. Sau đó chúng tiếp tục
gây hại ở Mexico, vùng Caribean, vùng Địa Trung Hải, Trung Mỹ và Cận
Đông (Ai Cập năm 1994, Iran 1961, Irac 1992 , Thỗ Nhĩ Kỳ, 1994…) và

gần đây là các nước Nam Mỹ [46].
* Phạm vi ký chủ của sâu vẽ bùa
Kết quả nghiên cứu của các tác giả đều chỉ ra rằng sự gây hại của
sâu vẽ bùa chủ yếu là trên chi Citrus thuộc họ Rutaceae [44].
Sâu vẽ bùa thường phát sinh gây hại trên các lá non của các cây
thuộc chi Citrus và các chi khác thuộc họ Rutaceae như bưởi chùm Citri
paradisi Macfad, bưởi pommelo Citrus maxima (Burm) Merr, ngoài chi
Citrus còn có các cây thuộc họ Rutaceae đã được ghi nhận như: Aegle
marmelos (L.) Corr., Atalantia sp., Poncitrus trifoliata (L.) Raf (ở Ấn Độ),
Murraya paniculata (L.) Jack (ở Philippin). Một số cây ký chủ phụ khác
như: Jasmimum sambac (L.) Aiton, Pongamia pinnata Pierre,
Alseodaphne semecarpifolia Nees (ở ấn Độ), Lranthus sp. (ở Philippin)
[21]. Ở Thái Lan, Oriaphan Kern (2005) [33] đã ghi nhận sự gây hại của
sâu vẽ bùa chủ yếu trên các ký chủ như: bưởi Citrus grandis Osbeck,
quýt hồng Citrus reticulata Blanco, Citrus sinensis Osbeck, Citrus
aurantifolia Swingle, Citrus paradisi Macf.
Một vài cây được ghi nhận là ký chủ của sâu vẽ bùa nhưng chúng
lại không hoàn thành vòng đời trên những cây đó, như: Murraya koenigii L.
Sprengel thuộc họ Rutaceae, Jasminum sp. và Jasminum cinnamomum
Kobuski thuộc họ Oleaceae, Dalbergia sissoo Roxb. ex DC thuộc họ
Leguminosae, Salix sp., Grewia asiatica L. thuộc họ Tiliaceae (ở Ấn Độ)
[44].
* Mức độ gây hại của sâu vẽ bùa
Sâu vẽ bùa là một dịch hại nghiêm trọng ở hầu hết các vùng trồng
cam quýt trên toàn thế giới (Josep Anton, et al. [28]). Sự gây hại của sâu
vẽ bùa tập trung trên các lá non của các cây thuộc chi Citrus. Sâu non các
tuổi đục bên trong biểu bì của lá, tạo nên đường ngoằn ngoèo trên lá làm
cho cây chậm phát triển ảnh hưởng đến năng suất của cây trồng [43].
Một ấu trùng của sâu vẽ bùa có thể tiêu thụ 1 - 7 cm
2

diện tích lá và
nếu xuất hiện 2 - 3 ấu trùng/lá thì có thể làm giảm 50 % diện tích quang
hợp của lá cây. Bên cạnh đó sâu vẽ bùa thường gây hại trên cây 3 năm
tuổi hoặc nhỏ hơn làm cho cây phát triển chậm 1 - 2 năm so với bình
thường [42]. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng trong phòng trừ sâu vẽ bùa
chi phí ở vườn ươm cao hơn vườn kinh doanh [27]. Tại Trung Quốc, sâu
vẽ bùa là một đối tượng gây hại quan trọng trên Citrtus aurantium, tỷ lệ
lá bị nhiễm lên đến 52,1 - 84,9 % vào mùa thu ở Jianyang [7].
Ngoài tác động do chính sâu vẽ bùa gây ra cho cây ký chủ thì các lá
cam quýt bị co rúm, quăn queo là nơi ẩn nấp qua đông của nhiều loài sâu
hại cam quýt khác như câu cấu, rệp bột tua ngắn, nhện đỏ Chính do đặc
điểm này mà sự gây hại của sâu vẽ bùa nhiều đối với các đợt lộc và các
chồi ghép ở vườn ươm. Đối với cây làm gốc ghép sâu vẽ bùa làm cho cằn
cỗi, không đạt tiêu chuẩn làm gốc ghép [3]. Mặt khác mối quan hệ giữa
sâu vẽ bùa và bệnh loét cam cũng được nghiên cứu một cách rõ ràng. Tác
giả J. Belasque, 2005 đã nghiên cứu ảnh hưởng của sâu vẽ bùa đến sự gây
hại của bệnh loét Xanthomonas citri, kết quả cho thấy trong tổng số 3.119
mẫu đưa ra thí nghiệm thì có 2.384 mẫu có xuất hiện sự gây hại sâu non
sâu vẽ bùa nhưng không thấy có mẫu nào có xuất hiện sự có mặt của
bệnh loét trên những mẫu được thí nghiệm bằng nguồn sâu sạch và cây
sạch. Như vậy trưởng thành của sâu vẽ bùa không phải là vector truyền
bệnh vi khuẩn Xanthomonas citri gây bệnh loét cam [25]. Tuy nhiên chính
các vết thương mà sâu non của sâu vẽ bùa tạo ra trên bề mặt lá, chồi non
tạo điều kiện cho bệnh phát triển mạnh, cuối cùng làm cho các chồi cam
bị tiêu diệt [3].
Để đánh giá được tỷ lệ gây hại của sâu vẽ bùa có ảnh hưởng đến
năng suất hay không Ahmed Lekhchiri và ctv. ở Mỹ đã đánh giá ước
lượng sự thiệt hại do sâu vẽ bùa gây ra 10 % thì không làm ảnh hưởng
đến năng suất. Huang và Li cho rằng ngưỡng gây hại kinh tế của sâu vẽ
bùa là 0,74 sâu non /lá non mẫn cảm. Do vậy trong điều kiện thuận lợi

cho sâu vẽ bùa phát triển thì có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
năng suất [7].
* Một số đặc điểm hình thái sinh học của sâu vẽ bùa Phyllocnistis citrella
Stainton
Sâu vẽ bùa trải qua các giai đoạn phát triển là: trứng, sâu non,
nhộng và trưởng thành. Trứng của sâu vẽ bùa có hình ô van trong mờ
như giọt nước. Sâu non không chân có hình trụ và trải qua 4 tuổi [33].
Theo nghiên cứu của trường đại học Arizona, năm 1999 ở thành phố
Tucson, thuộc tiểu bang Arizona, phía Tây Nam Hoa Kỳ thì những sâu
non mới nở có màu xanh lục và rất khó phát hiện, sâu non tuổi 2 và 3 có
màu vàng hơn nhưng cũng khó phát hiện, sâu non tuổi cuối dễ dàng nhận
thấy hơn do kích thước tăng lên và sự xuất hiện màu phân bên trong
đường đục [42]. Nhộng đực và nhộng cái có một số đặc điểm có thể phân
biệt được đó là đốt bụng cuối của nhộng cái (khoảng 0,5 mm) dài hơn
nhộng đực và trên đốt cuối đó có một đôi lông mà không thấy có ở nhộng
đực [28]. Trưởng thành là một loại ngài nhỏ, lúc đậu cánh úp ở trên lưng
dọc theo chiều dài thân, dài khoảng 2mm. Khi bay, cánh dang rộng ra
khoảng 4 - 5 mm. Đôi cánh trước nhỏ và hẹp, cánh sau có viền lông mép
dài, màu trắng bạc, có những vết vàng và chấm đen ở đỉnh cánh trước
(Waterhouse D. F., 1998) [38].
Sâu vẽ bùa qua đông ở dạng ngài, chúng ngừng đẻ ở nhiệt độ thấp.
Chúng không qua đông ở vùng ấm mà chỉ qua đông ở vùng lạnh, những
nơi không có lộc đông. Trưởng thành giao phối một lần, thường vào lúc
sẩm tối hoặc rạng sáng. Trưởng thành cái đẻ trứng thành từng quả một
trên các lá cam chanh non, thường đẻ gần gân chính của lá, đôi khi
chúng đẻ trên cả những quả non và phần thân cây còn non. Sâu non nở
ra đục ngay vào lá, hình thành các đường hầm dưới lớp biểu bì, ở giữa
các đường này thường có một đường chỉ màu đen sẫm do phân của
chúng đùn ra, các đường đục này không bao giờ cắt nhau, sâu non cuối
cùng thường gọi là tiền nhộng. Chúng cũng có thể ăn qua gân chính của

lá cây. Sâu tuổi 4 có chiều dài khoảng 3 mm, bộ phận miệng thay đổi để
kéo sợi tạo thành buồng nhộng ở cuối đường hầm, chúng gấp mép lá lại
và hóa nhộng bên trong. Trước khi vũ hóa nhộng khoét một lỗ ra ở đầu
trước của buồng nhộng và từ đó trưởng thành sẽ bay ra ngoài. Chúng
thường vũ hóa vào sáng sớm, giao phối được tiến hành trong một thời
gian ngắn sau khi vũ hóa [1].
Có nhiều kết quả nghiên cứu về vòng đời của sâu vẽ bùa ở các nước
khác nhau trên thế giới. Dawna Kuhn, MG, 2008 tại Hoa Kỳ thì trưởng
thành thường đẻ trứng vào chập tối và trứng được đẻ đơn lẻ ở cả 2 mặt
của lá. Giai đoạn trứng kéo dài 2 - 10 ngày, ấu trùng có 4 tuổi và mất 5 -
20 ngày, nhộng kéo dài 6 - 22 ngày và giai đoạn trưởng thành kéo dài từ
2 - 7 ngày tùy thuộc vào điều kiện thời tiết [22]. Kết quả nghiên cứu của
Elizabeth ở Florida thì mỗi con cái có thể đẻ 50 trứng và giai đoạn trứng
kéo dài 2 - 12 ngày tùy thuộc vào nhiệt độ, sâu non kéo dài 10 - 19 ngày
và nhộng 8 - 20 ngày phụ thuộc vào nhiệt độ. Trong khí đó ở Úc ở điều
kiện nhiệt độ cao và sự xuất hiện thường xuyên của các lá và chồi non thì
vòng đời của sâu vẽ bùa kéo dài 17 ngày trong đó mỗi một con cái cũng
có thể đẻ 50 trứng nhưng cao điểm là 20 - 30 trong một đêm. Tại Arizona,
Hoa Kỳ vòng đời của sâu vẽ bùa từ 14 - 50 ngày tùy thuộc theo nhiệt độ
[42]. Kết quả nghiên cứu của Oriaphan Kern, Thái Lan (2005) [33] cho
thấy ở nhiệt độ cao 32,14±1,4
o
C và ẩm độ 61,18±1,2 %, vòng đời trung
bình của sâu vẽ bùa đạt 17,15±1,85 ngày.
* Sự phát sinh gây hại của sâu vẽ bùa
Sự phát sinh của sâu vẽ bùa rất có quy luật. Ở Quảng Đông, sâu
thường phát sinh từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 khi lộc xuân xuất hiện
với mật độ thấp và mức độ gây hại nhẹ. Quần thể phát triển nhanh vào
tháng 5 đến tháng 6 và gây thiệt hại nếu có nhiều lộc non. Tình hình này
thường xảy ra khi lộc hè phát triển. Tháng 7 quần thể thấp do điều kiện

nhiệt độ và ký sinh, cao điểm ở trung tuần tháng 8 đến đầu tháng 9 gây
nhiều tác hại có ý nghĩa kinh tế vì đây là thời gian đợt lộc thu phát triển
[24].
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng có quan hệ chặt chẽ đến sự gia tăng
quần thể của sâu vẽ bùa. Nhiệt độ thích hợp cho tất cả các giai đoạn sinh
trưởng của sâu là từ 24 - 28
o
C. Trong mùa đông, nhiệt độ thấp nên tỷ lệ
sâu chết cao. Hàm lượng nước trong lá non cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ
chết của sâu non và nhộng. Sâu non bị chết với tỷ lệ cao hơn 75% nếu
hàm lượng nước trong lá non dưới 75%, ngược lại nếu tỷ lệ nước cao thì
tỷ lệ sâu chết dưới 45% [2].
Sâu vẽ bùa có nhiều thế hệ trong một năm và với mỗi vùng sinh
thái khác nhau thì số thế hệ cũng khác nhau. Ở Nhật Bản, sâu vẽ bùa có 6
thế hệ/năm, ở Bắc Ấn Độ có khoảng 9 đến 13 thế hệ/năm, ở Nam Ấn Độ
có khoảng 10 thế hệ/năm, ở Trung Quốc có khoảng 8 đến 15 thế hệ/năm
và các thế hệ chồng gối lên nhau rất khó phân biệt [47]. Tại Úc sâu vẽ
bùa có 15 thế hệ /năm [22]. Ở bang Florida và vùng Cận Đông sâu vẽ bùa
có đến 6 - 13 thế hệ / năm [46].
2.1.2. Tình hình nghiên cứu về ong ký sinh
* Thành phần ong ký sinh
Thiên địch là yếu tố quan trọng có thể khống chế sự bùng phát số
lượng của sâu vẽ bùa trong điều kiện tự nhiên thuận lợi. Trong đó các
loài ong ký sinh có vai trò rất lớn trong việc hạn chế số lượng sâu vẽ bùa.
Schauff et al. (1998) đã ghi nhận được 80 loài ký sinh sâu vẽ bùa và trong
đó có một số loài có khả năng làm giảm mật độ sâu vẽ bùa. Hầu hết các
loài ký sinh sâu vẽ bùa thuộc họ Eulophidae ngoài ra còn có các loài ong
ký sinh thuộc các họ Encirtidae, Elasmidae, Eurytomidae, và
Pteromalidae [19]. Ở châu Á, đã có một số nghiên cứu về thành phần
ong ký sinh sâu vẽ bùa tại một số nước. Tại Kyushu và Wakayama, Nhật

Bản có 13 loài ong ký sinh thu thập được trên sâu non và nhộng của sâu
vẽ bùa trong đó nhóm Eulophidae là phổ biến nhất [7]. Tại Thái Lan , kết
quả nghiên cứu của Oriaphan Kern cho thấy trên sâu vẽ bùa có các loài
ong ký sinh như Quadrastichus sp. (họ Eulophidae), Teleopterus sp. (họ
Eulophidae), Citrostichus phyllocnistoides Narayanan (họ Eulophidae ),
Microbracon sp. (họ Braconidae ), Ageniaspis citricola Logvinovskaya
(họ Encyrtidae), Cirrospilus ingenuus Gahan (họ Eulophidae), Sympiesis
striatipes Ashmead (họ Eulophidae), Closterocerus trifasciatus Westwood
(họ Eulophidae), Eurytoma sp. (họ Eurytomidae), Tetrastichus sp. (họ
Eulophidae), Zaommomentedon brevipetolatus Kamijo (họ Eulophidae)
[33]. Các loài ong ký sinh này đã được khảo sát hiệu quả phòng trừ sinh
học đối với sâu vẽ bùa, kết quả cho thấy loài Ageniaspis citricola
Logvinovskaya chiếm ưu thế và là tác nhân sinh học quan trọng nhất
[Morakote R, Ujiye T., 1992) [37]. Theo báo cáo về thành phần thiên địch
của sâu vẽ bùa ở vùng Yezin (Mianma), Htar Naing [24] đã phát hiện
được 6 loài ong thuộc họ Eulophidae và 6 loài nữa chưa phân loại được,
chúng đều ký sinh trên sâu vẽ bùa. Loài Citrostichus phyllocnistoides và
loài Citrospilus quadristriatus là hai loài có tỷ lệ ký sinh cao.
Ở Trung Quốc, theo Huang Minh Du và Li Shuxin [13] cho biết: đã
phát hiện được 6 loài ong ký sinh thuộc họ Eulophidae và một số loài
khác trong đó loài Citrostichus phyllocnistoides có tỷ lệ ký sinh cao.
Thành phần ong ký sinh sâu vẽ bùa ghi nhận được ở phía đông
Australia là các loài chủ yếu sau: Cirrospilus ingenuius Gahan.,
Setnielucher petiolatus (Girault) và Svtiipiesis sp.[21]. Một cuộc khảo sát
các loài ong ký sinh trên sâu vẽ bùa được thực hiện tại vườn cây ăn quả ở
khu vực phía đông Địa Trung Hải ở Thỗ Nhĩ Kỳ trong suốt thời gian năm
1995 đến năm 2001 đã xác định được thành phần ong ký sinh sâu vẽ bùa
được thể hiện ở bảng 2.1
Bảng 2.1. Thành phần ong ký sinh sâu vẽ bùa ở phía đông Địa Trung Hải
STT Loài Họ

Đặc điểm
ký sinh
1 Cirrospilus ingenuus Gahan Eulophidae Ngoại ký sinh
2 Cirrospilus pictus Nees Eulophidae Ngoại ký sinh
3 Cirrospilus variegatus Masi Eulophidae Ngoại ký sinh
4 Cirrospilus vittatus Walker Eulophidae Ngoại ký sinh
5 Cirrospilus sp. nr. lyncus Walker Eulophidae Ngoại ký sinh
6 Ratzeburgiola incompleta Bouce Eulophidae Ngoại ký sinh
7 Citrostichus phyllocnistoides Narayanan Eulophidae Ngoại ký sinh
8 Semielacher petiolatus Girault Eulophidae Ngoại ký sinh
9 Diglyphus isaea (Walker) Eulophidae Ngoại ký sinh
10 Pnigalio sp. Eulophidae Ngoại ký sinh
11 Baryscapus sp. Eulophidae Ngoại ký sinh
12 Citrostichus phyllocnistoides Narayanan Eulophidae Nội ký sinh
13 Neochrysocharis sp. Eulophidae Nội ký sinh
14 Chrysocharis sp. Eulophidae Nội ký sinh
15 Pteromalus sp. Pteromalidae Nội ký sinh
(Dẫn theo Naime Z.lal Elekuoulu
[41])
Trong 15 loài thuộc họ Eulophidae thì có 5 loài thuộc giống
Cirrospilus và 2 loài thuộc giống Neochrysocharis còn 7 loài còn lại thuộc
các giống khác nhau. Hầu hết các loài ong ký sinh đều ký sinh giai đoạn
sâu non tuổi 2, tuổi 3, tuổi 4 hoặc giai đoạn đoạn nhộng và không tìm
thấy ký sinh trên giai đoạn trứng [31]. Trong tất cả các loài ký sinh thì 3
loài C. ingenuus, Semielacher petiolatus và Citrostichus phllocnistoides là
những loài phổ biến trên sâu vẽ bùa. Các nghiên cứu chỉ ra rằng điều
kiện sinh thái khác nhau, các loài ký chủ khác nhau và ở trong các khu
vực khác nhau ảnh hưởng đến sự có mặt của các loài ký sinh sâu vẽ bùa.
Loài Ageniaspis citricola Logvinovskaya được biết là loài ký sinh hiệu
quả nhất của sâu vẽ bùa trên toàn thế giới nhưng không thấy xuất hiện ở

phía đông Địa Trung Hải. Điều này có thể giải thích bằng sự thích nghi ở
khí hậu ẩm ở vùng nhiệt đới của loài ong Ageniaspis citricola
Logvinovskaya và tỷ lệ tử vong cao ở 25 - 30
o
C nên loài ong ký sinh này
không phù hợp trong sử dụng phòng trừ sâu vẽ bùa ở Địa Trung Hải
(Naime Z., et al 2006) [31].
Theo kết quả điều tra năm 1995 và 1996 loài ong ký sinh sâu vẽ bùa
chiếm ưu thế là R. incompleta (50%). Sang năm 1997, Cirrospilus sp. nr.
lyncus là loài thường xuyên nhất (69%), trong khi R. incompleta giảm
xuống còn 15%. Năm 1998, loài chiếm ưu thế là C. phyllocnistoides và
tăng nhiều hơn trong những năm tiếp theo đạt 61% vào năm 2001. Trong
khi đó tỷ lệ của C. sp. nr. lyncus giảm còn 25 % vào năm 2001 [31].
Sâu vẽ bùa xâm nhập và gây hại ở Florida năm 1994, từ đó các
nghiên cứu về các loài ong ký sinh cũng được thực hiện tại đây. Kết quả
nghiên cứu của Pena et al. (1996) cho biết có 8 loài ong ký sinh bản địa,
phần lớn trong số này là ngoại ký sinh thuộc họ Eulophidae và loài
Pnigalio minio chiếm ưu thế [36]. Và 2 loài ong ký sinh Ageniaspis
citricola Logvinovskaya và Cirrospilus quadristriatus được nhập từ
Australia, Thái Lan và Đài Loan vào Florida, sau một thời gian nhân
nuôi và đánh giá hiệu quả ký sinh thì loài ong Ageniaspis citricola
Logvinovskaya thực sự đã có thể chi phối sâu vẽ bùa ở Florida [29].
* Một số nghiên cứu về loài ong ký sinh Cirrospilus sp.
Cirrospilus sp. là một trong những loài ký sinh phổ biến trên sâu vẽ
bùa ở một số nước trên thế giới. Các loài thuộc giống Cirrospilus sp. ký
sinh chủ yếu trên sâu vẽ bùa là Cirrospilus ingenuus Gahan, Cirrospilus
vittatus Walker, và Cirrospilus quadristriatus [21],[20]. Tuy nhiên đã có
những nghiên cứu bước đầu về những loài này. Cirrospilus ingenuus
Gahan là ngoại ký sinh đơn của ấu trùng sâu vẽ bùa. Phạm vi tự nhiên
của Cirrospilus ingenuus bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật

Bản, Malaysia, Đài Loan và Thái Lan (Schauff et al 1998) [32]. Trưởng
thành của ong có thể đẻ 1 quả trứng hoặc nhiều hơn nhưng chỉ có một
qủa trứng phát triển thành trưởng thành. Trưởng thành của ong có màu
vàng và có đôi mắt màu đỏ [37]. Ujiye và Adachi (1995), [37] ghi nhận có
khoảng 60% ong ký sinh là con cái. Một vòng đời của ong đòi hỏi phải 2 -
3 tuần phụ thuộc vào nhiệt độ (Smith và Hoy, 1995, [34]). Subba Rao và
Ramamani (1966), [35] mô tả trưởng thành cái của ong dài 1,17 mm,
trưởng thành đực dài khoảng 1,15mm và có màu sắc giống hệt nhau. Cơ
thể trưởng thành hơi vàng, râu đầu màu nâu vàng, phần ngực gần như
màu vàng, phần bụng màu vàng nâu có 5 vân ngang bụng, đôi cánh trong
pha phê và các đôi chân có màu vàng nhạt.
Cirrospilus ingenuus (hiện nay là đồng nghĩa với C. quadristriatus)
được nhập khẩu từ châu Á và đánh giá tại Florida để xác định xem hiệu
quả ký sinh của nó trên sâu vẽ bùa (Neale, et al. 1995, [30]). Năm 1994,
Ageniaspis citricola Logvinovskaya và Cirrospilus ingenuus Gahan đã
được giới thiệu từ Australia, C. ingenuus đã được gọi là C. quadristriatus
vào thời gian đó (Hoy và Nguyễn, 1997, [23]).
2.1.3. Các kết quả về biện pháp phòng trừ sâu vẽ bùa Phyllocnistis citrella
Stainton
Sự gây hại của sâu vẽ bùa đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến
năng suất của cây có múi nên các biện pháp phòng trừ là rất cần thiết.
Đối với việc chăm sóc cây có múi lúc cây ra các đợt lộc tránh bón nhiều
Nitơ vì như vậy sẽ làm tăng tỷ lệ lá bị hại do sâu vẽ bùa [22]. Phần lớn
người dân trên thế giới sử dụng biện pháp hóa học để phòng trừ sâu vẽ
bùa. Tuy nhiên, vì sâu non của sâu vẽ bùa sống trong biểu bì của lá nên
các thuốc hóa học thường trở nên kém hiệu quả và chỉ có tác dụng phòng
trừ trong vòng 2 - 3 tuần [22]. Ngày nay trên thế giới thường dùng một số
thuốc có chứa hoạt chất: Abamectin, Spinosad, Imidacloprid để phòng
trừ sâu vẽ bùa. Và để đề phòng sự kháng thuốc của sâu vẽ bùa nên sử
dụng thay đổi các loại thuốc và sử dụng nhiều các loại thuốc nội hấp và

lưu dẫn [27], [46].
Bên cạnh các loại thuốc hóa học thì hiệu quả của dầu khoáng đối
với sâu vẽ bùa đã được khẳng định tại nhiều nơi trên thế giới [7], [27].
Theo Samuen Vallese, 1996, các loại dầu khoáng tỏ ra có hiệu quả cao và
trên 10 năm qua, dầu khoáng đã được sử dụng và đem lại hiệu quả tại
nhiều nước như Hoa Kỳ, Úc, Tây Ban Nha, Bởi vì dầu khoáng ít độc với
động vật có xương sống và không gây hại cho con người, phân hủy nhanh
không để lại dư lượng trong môi trường. Tác động chủ yếu của dầu
khoáng là lúc phun lên lá dầu khoáng sẽ ngăn cản sự đẻ trứng của trưởng
thành. Mặt khác dầu khoáng có tính tồn lưu kém phải phun nhiều lần
nên trong quá trình sử dụng phải chú ý đến hiệu quả kinh tế [7].
Qua điều tra và nghiên cứu về kẻ thù tự nhiên của sâu vẽ bùa cho
thấy các loài ong ký sinh có tỷ lệ ký sinh cao và có sự đa dạng về loài nên
tăng cường bảo vệ và sử dụng các loài ong ký sinh là biện pháp hiệu quả
nhất trong việc quản lý sâu vẽ bùa [32]. Tại Florida đã có chương trình
nhập khẩu 3 loài ong ký sinh chủ yếu trong việc khống chế số lượng của
sâu vẽ bùa là Ageniaspis citricola, Cirrospilus quadristriatus và
Citrostichus phyllocnistoides Narayanan [26], [36]. Những loài được nhập
từ các nước Thái Lan, Trung Quốc và Úc, sau một thời gian thử nghiệm
hiệu quả ký sinh cho thấy loài Ageniaspis citricola đã mang lại hiệu quả
ký sinh cao, có thể lên tới 86%. Ageniaspis citricola nhanh chóng trở
thành loài ong ký sinh có vai trò quan trọng trong việc điều hòa số lượng
sâu vẽ bùa [36], [46]. Hai loài còn lại là Cirrospilus quadristriatus và
Citrostichus phyllocnistoides Narayanan cũng bước đầu mang lại hiệu quả

×