BÀI SOẠN ÔN TẬP TRIẾT HỌC
Câu 1: Phân tích định nghĩa của Lê nin, ý nghĩa khoa học của định
nghĩa?
* Định nghĩa của Lê nin:
- Phạm trù vật chất và phạm trù ý thức là những phạm trù cơ bản của triết học.
Phạm trù vật chất là nền tảng của chủ nghĩa duy vật. Nó chứa đựng nội dung thế giới
quan và phương pháp luận rất khái quát và sâu sắc.
- Xung quanh phạm trù vật chất đã có nhiều cách lí giải khác. Điều đó lệ thuộc vào
trình độ nhận thức của loài người. Chính vì vậy mà trong lịch sử triết học xung quanh
phạm trù này đã có nhiều cách hiểu khác:
+ Trong triết học Hy Lạp cổ đại người ta thường quy vật chất vào những dạng cụ
thể nào đó, tức là những dạng vật thể hữu hình mà người ta có thể nhận biết nó bởi cơ
quan cảm giác, chẳng hạn Talét cho rằng: “Thế giới này là do nước tạo thành. Nước là
khởi nguyên của mọi vật”.
Cũng trong thời kì cổ đại 1 số nhà triết học nhận thức phạm trù vật chất ở mức độ khái
quát hơn, trừu tượng hóa hơn, chẳng hạn Hêra clít cho rằng: “Thế giới này do lửa tạo nên
(lửa vũ trụ)”. Đê mô crít lại cho rằng: “Thế giới này là do nguyên tử tạo nên”.Ông nói:
“Sở dĩ sự vật tồn tại đa dạng, phong phú nhiều vẻ là do nguyên tử khác, và hình dạng, vị
trí, thứ tự sắp xếp, kích thước khác”.
+ Bước sang thời kì Phục hưng thế kỉ XV, XVI Khoa học tự nhiên phát triển vượt
bậc đạt được những thành tựu hết sức to lớn, một số ngành như thiên văn học đã có
những bước tiến đáng kể, nó tiếp tục củng cố thế giới quan duy vật. sự sáng tạo ra kính
viễn vọng. Vì thế mà nói thế giới này là thế giới vật chất.
+ Bước sang thế kỉ XVII, XVIII Khoa học tiếp tục phát triển, đặc biệt là khoa học
thực nghiệm. Trong thời kì này chủ nghĩa duy vật phát triển mạng ỏ Anh (TK XVII),
Pháp (TK XVIII). Chủ nghĩa duy vật thời kì này đã dựa trên những thành tựu khoa học tự
nhiên nhất là cơ học, sinh học, thiên văn học. Do đó trong thời kì này sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật đã có cơ sở khoa học của nó chính là khoa học tự nhiên, chứ không
phải là “phỏng đoán thiên tài như trước đây”.
Nhưng nhược điểm lớn nhất của của CNDV thời kì này là tính chất máy móc siêu hình
của nó. Người ta thường quy vật chất vào một thuộc tính nào đó của phạm trù vật chất,
chẳng hạn khối lượng, trọng lượng. Ngoài ra CNDV trong thời kì này không thấy được
mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng khác. Mà nhìn chúng tách biệt cô lập, điều mà như
Ăng ghen nói: “Chỉ thấy cây mà không thấy rừng”. Hơn nữa CNDV trong thời kì TK
XVII, XVIII nhìn chung thiếu triệt để nghĩa là họ chỉ duy vật trong tự nhiên và trong xã
hội phần lớn rơi vào quan điểm duy tâm.
+ Sang TK 19 nửa đầu tk 20 khoa học tự nhiên đạt được những thành tựu mới mà
đặc biệt là vật lí học, sinh học . Chính những thành tựu này là cơ sở tự nhiên để củng cố
thế giới quan duy vật.
Năm 1895 người ta phát hiện ra tia x quang.
Năm 1896 người ta phát hiện ra hiện tượng phóng xạ điều này chứng tỏ nguyên tử
không phải là hạt vật chất nhỏ nhất mà nó vẫn có thể phân chia được.
Năm 1897 người ta phát hiện ra điện tử và chứng minh được rằng điện tử là 1
trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử.
Những thành tựu đó của vật lí học hiện đại đã trực tiếp đến quan điểm triết học, 1
số nhà khoa học tỏ ra dao động và họ chuyển từ lập trường duy vật sang lập
trường duy tâm.
+ Đứng trước cuộc “khủng hoảng vật lí họcđó Lê nin đã khái quát những thành tựu
của khoa học tự nhiên, kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa duy vật và đưa ra những kết luận có
tính chất phương pháp luận, để củng cố thế giới quan cho các nhà khoa học. Lê nin viết
rằng: “điện tử cũng vô cùng như nguyên tử, tự nhiên là vô tận”. Luận điểm này có 1 ý
nghĩa cực kì sâu sắc trong việc củng cố thế giới quan duy vật cho các nhà khoa học tự
nhiên. Kế thừa những thành tựu của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, kế thừa tư tưởng
Mác và Ăng ghen, dựa trên cơ sở của những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời. Lê
nin đã đưa ra định nghĩa có tính chất kinh điển về phạm trù vật chất như sau:
Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Định nghĩa này bao gồm những nội dung
cơ bản sau:
Vật chất là một phạm trù triết học điều này để phân biệt phạm trù vật chất theo
nghĩa triết học với các khoa học khác.
Vật chất - cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không thuộc vào ý thức. Ví
dụ: Đọc tn của 1 người khác, mình ko biết được mà chỉ chủ máy mới biết được.
Vật chất - cái gây lên cảm giác của con người khi nó tác động vào các giác quan
của chúng ta, do đó vật chất là cái có thể nhận thức được.
Vật chất - cái mà tư duy ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó mà thôi. Nói
cách khác ý thức là sản phẩm của vật chất có kết cấu tổ chức cao đó chính là bộ óc
của con người.
* Ý nghĩa khoa học của định nghĩa:
- Định nghĩa vật chất của Lê nin có vai trò định hướng cho sự phát triển của khoa học:
- Định nghĩa này giúp cho chúng ta xác định được trong đời sống xã hội đâu là vật
chất, đâu là ý thức tinh thần tư tưởng.
- Định nghĩa này là cơ sở lí luận giúp chúng ta giải thích được sự vận động biến đổi
phát triển của xã hội loài người. Nhất là sự vận động phát triển phương thức sản xuất.
- Định nghĩa này khắc phục được tính chất siêu hình trực quan trong các quan niệm
vật chất của CNDV trước đó.
- Định nghĩa này nó giải quyết 1 cách triệt để các vấn đề cơ bản của triết học: “Tức là
mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và khả năng nhận thức thế giới của con người”.
- Định nghĩa này chống lại thuyết không thể biết, quan điểm siêu hình, bệnh chủ quan,
duy ý chí
Câu 2: Nguồn gốc, bản chất ý thức:
- Vấn đề nguồn gốc của ý thức cho đến nay có nhiều cách hiểu khác. CN duy tâm,
CN duy vật xuất phát từ quan điểm triết học của mình đã giải thích vấn đề này 1 cách
khác:
- Triết học Mác xuất phát từ việc kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được trước đó trên cơ sở khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học
thần kinh đã giải thích 1 cách khoa học nguồn gốc cũng như bản chất của ý thức.
- Triết học Mác cho rằng ý thức ra đời từ 2 nguồn gốc đó là nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc tự nhiên: Khi nói đến nguồn gốc tự nhiên chúng ta phải nói đến
bộ óc con người, và sự phản ánh thế giới khách quan của thế giới con người.
+ Triết học Mác cho rằng, ý thức là 1 thuộc tính của 1 dạng vật chất sống có tổ
chức cao đó là óc con người. Ý thức là chức năng của bộ óc con người.
+ Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh
của bộ óc người, do đó chúng ta không thể tách ý thức ra khỏi hoạt động sinh lý thần kinh
của bộ óc người.
+ Trong bộ óc người quá trình ý thức luôn luôn phải gắn với quá trình sinh lý vì
đây là 2 mặt của 1 quá trình, nó luôn phải thống nhất, gắn bó với nhau.
+ Ngoài ra khi nói đến nguồn gốc tự nhiên chúng ta phải nói đến quá trình phản
ánh hiện thực khách quan của bộ óc con người. Nếu không có quá trình này thì ý thức
không thể hình thành được. Phản ánh là 1 đặc tính của vật chất và đặc tính phản ánh này
nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của các hình thức hoạt động của vật chất. Hệ thống
vật chất có tổ chức càng phức tạp thì năng lực phản ánh càng cao. Ở mức độ khái quát
nhất, chúng ta có thể phân chia phản ánh của thế giới vật chất thành 2 loại:
Loại thứ nhất: Phản ánh trong giới tự nhiên vô sinh, phản ánh vật lý, phản ánh hoá
học.
Loại thứ hai: Phản ánh trong giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học.
* Nguồn gốc xã hội có người lao động và ngôn ngữ: Đây là 2 sức kích thích chủ
yếu làm bộ óc con vượn thành bộ óc con người.
Lao động có vai trò hết sức quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của
con người trong đó có ý thức.
Cũng nhờ lao động mà ngôn ngữ hình thành và phát triển. Không có 2 quá
trình này thì ý thức không thể xuất hiện được, chính ngôn ngữ đã giúp cho con
người có khả năng khái quát hoá, trừu tượng hoá những sự vật, hiện tượng
riêng lẻ để hình thành nên các khái niệm, các phạm trù, chính vì vậy mà Mác
nói rằng: “Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực tiếp của tư
duy”.
* Bản chất ý thức:
Chủ nghĩa duy tâm cường điêuh tính năng động, săng tạo của ý thức đến mức
họ cho rằng ý thức sinh ra vật chất, ý thức quyết định vật chất.
Các nhà duy vật trước Mác tuy không tuyệt đối hoá vai trò ý thức như các nhà
duy vật này cho rằng ý thức là sản phẩm của vật chất có kết cấu tổ chức cao đó
là bộ óc của con người Nhưng nhược điểm của họ ở chỗ họ không thấy được
vai trò tích cực chủ động, sáng tạo của ý thức mà cho rằng sự phản ánh ý thức
là sự phán ánh thụ động, giản đơn, máy móc.
CNDV biện chứng, hay triết học duy vật Mác, khác với những quan điểm trên
đây, triết học Mác cho rằng: “Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc con người 1 cách tích cực, chủ động, sáng tạo”.
Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là phải thừa nhận ý thức là cái
phản ánh còn vật chất là cái được phản ánh. Cái được phản ánh tồn tai khách
quan, độc lập với cái phản ánh.
Ý thức con người phản ánh hiện thực khách quan tuân theo những quy luật của
nó chứ đây không phải là sự sao chép giản đơn, thụ động thế giới khách quan.
Ý thức là 1 hiện tượng xã hội, nó bắt nguồn từ thực tiễn xã hội loài người, nó
phản ánh những quan hệ xã hội khách quan về mặt kết cấu của ý thức có thể có
cách tiếp cận khác:
+ Cách thứ nhất: Tiếp cận theo chiều ngang. Ý thức nó bao gồm: Tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý trí trong đó tri thức là quan trọng nhất.
+ Cách thứ hai: Tiếp cận theo chiều dọc. Cao nhất từ ý thức đến tiềm thức, từ
tiềm thức, vô thức đến ý thức là cái quan trọng nhất.
Câu 3: Quan hệ giữa vật chất, ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của việc
nắm vững mối quan hệ này?
* Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
- Đây là 1 trong những mối quan hệ phức tạp mà lịch sử triết học đã có những cách lí
giải khác. Đó là quan điểm của CNDV , quan điểm của CN duy tâm, quan điểm của
những người trong trường phái nhị nguyên luận.
+ Các nhà triết học duy vật cho rằng vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật
chất quyết định ý thức.
+ Ngược lại những người theo quan điểm duy tâm thì lại cho rằng ý thức là cái có
trước, ý thức quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái:
Những nhà triết học duy tâm khách quan cho rằng: Thế giới vật chất này là do “ý
niệm” (Platôn) hay là do “ý niệm tuyệt đối”(Hê ghen) sinh ra.
Trong khi đó các nhà duy tâm chủ quan cho rằng: Sự vật hiện do cảm giác chúng
ta tạo thành hay sự phức hợp của cảm giác (Bec cơ li).
+ Những người theo trường phái nhị nguyên luận thì cho rằng: Vật chất sinh ra vật
chất, ý thức sinh ra ý thức, giữa chúng không có liên hệ gì với nhau, nếu có thì chỉ là mối
liên hệ bề ngoài mà thôi.
+ Triết học Mác khẳng định rằng vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất
quyết định ý thức (đưa qđiểm phạm trù vchất, bản chất ý thức đã nêu ở trên).
Khác với CNDV TK 17, 18 triết học Mác chỉ ra tính độc lập tương đối của ý thức, tính
năng động, sáng tạo của ý thức. Đây là sự khác nhau căn bản, khác nhau về vật chất giữa
CNDV biện chứng với các quan niệm duy vật khác.
Tính độc lập tương đối ý thức, sự tác động ý thức thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Ý thức của con người có tác dụng tích cực làm biến đổi hiện thực theo ý muốn của
con người. Ý thức chỉ đạo thực tiễn của con người hình thành mục tiêu kế hoạch cho hoạt
động của con người.
Trong những điều kiện và những giới hạn nhất định ý thức sẽ nhân sức mạnh vật chất lên
nhiều lần.
Ví dụ: Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ: So về sức mạnh vật chất thì chúng
ta thua địch nhưng về ý thức , tinh thần tư tưởng nhân lên gấp bội mà chúng ta đã thắng
địch. Nhưng bản thân ý thức tinh thần tư tưởng không thôi thì không thể thực hiện được.
Ý thức tinh thần tư tưởng muốn thực hiện được thì nhất định phải sử dụng lực lượng vật
chất, nghĩa là nó phải thâm nhập vào những con người thực hiện thực tiễn. Chính vậy
Mác nói rằng: “Mỗi khi lí luận xâm nhập vào quần chúng nó sẽ trở thành vật chất”. Còn
Lê nin nói rằng: “Không có lí luận CM sẽ không có phong trào CM”.
Khi nghiên cứu mqhệ vật chất - ý thức chúng ta thấy rằng ý thức có tính độc lập tương
đối, có tính năng động, tích cực, sáng tạo. Nhưng chúng ta không được tuyệt đối hoá vai
trò ý thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Xuất hiện từ chỗ vật chất là cái có trước, vật chất quyết định ý thức cho nên
trong nhận thức và hoạt động mọi việc phải xuất phát từ thực tế khách quan, không được
lấy ý muốn chủ quan thay thế ý muốn khách quan.
- Tại Đại hôi lần 6 của Đảng tháng 12/1986 Đảng ta đã chỉ ra 1 số khuyết điểm, sai
lầm trong đó chúng ta đã vi phạm quy luật khách quan, không tôn trọng khách quan, đã
chủ quan duy ý chí, những chủ quan này đã để nặng nề cho xã hội. từ chỗ nhận thức được
những khuyết điểm, những sai lầm đã rút ra 1 số bài học kinh nghiệm. 1 trong những bài
học đó là: Mọi việc đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải tôn trọng khách quan.
- Đến cương lĩnh ĐH 7 năm 1991 cho dù chúng ta đã có những cố gắng nỗ lực
trong việc khắc phục những quan điểm sai lầmmà ĐH 6 đã đề ra nhưng sự khắc phục ấy
vẫn chưa triệt để. Cương lĩnh ĐH 7 chỉ rõ Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan. Từ đó đến nay vấn đề này từng bước đã được khắc phục.
- Do ý thức có tính độc lập tương đối, năng động, sáng tạo, chính vì vậy trong
nhận thức chúng ta phải phát huy sức mạnh, tinh thần, tư tưởng, phải biết đề ra cương
lĩnh, đường lối khoa học phù hợp với thực tiễn và phải đưa đường lối thâm nhập vào cuộc
sống, biến nó trở thành hiện thực.
- Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của việc vận dụng mqhệ này là chỗ Đảng
ta lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững.
ngoài ra Đảng ta còn chủ trương xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Trong văn hoá thì văn hoá phi
vật thể thuộc về lĩnh vực tinh thần, tư tưởng, đòi hỏi chúng ta phải phát huy nó.
- Tuy ý thức có tính độc lập tương đối nhưng chúng ta không được tuyệt đối hoá
nó, nếu tuyệt đối hoá sẽ rơi vào quan điểm duy tâm. Đồng thời không để tuyệt đối hoá vai
trò của vật chất vì nếu như vậy trong đời sống xã hội dễ dẫn đến chủ nghĩa duy kinh tế
(chỉ biết về kinh tế).
Câu 4: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận
của mối liên hệ này:
* Nội dung về mối liên hệ phổ biến:
Nhìn vào thế giới chúng ta thấy các sự vật, hiện tượng tồn tại 1 cách đa dạng,
phong phú, nhiều vẻ vậy giữa chúng có mối liên hệ gì với nhau hay không?
Trong lịch sử triết học về cơ bản có 2 cách trả lời khác nhau về vấn đề này:
+ Các nhà siêu hình học thì cho rằng: Các sự vật, hiện tượng không có gì liên
hệ với nhau và nếu có thì cũng chỉ là mối liên hệ bề ngoài mà thôi. Đó là 1
phương pháp tư duy như Ăng ghen nói “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
+ Những người theo quan điểm biện chứng thì cho rằng tuy các sự vật, hiện
tượng tồn tại 1 cách đa dạng, nhiều vẻ nhưng giữa chúng có mối liên hệ với
nhau, tác động qua lại. Tuy nhiên, giữa những nhà triết học duy vật và những
nhà triết học duy tâm giải quyết vấn đề này cũng khác.
Nhà biện chứng duy tâm khách quan người Đức (Hê ghen) cho rằng: Cơ sở của
mối liên hệ này là do “ý niệm tuyệt đối” quy định.
Ngược lại, các nhà biện chứng duy vật cho rằng: Cơ sở của mối liên hệ phổ
biến là tính thống nhất vật chất của thế giới là cái vốn có của thế giới vật chất.
Chính vì thế mà mối liên hệ này khách quan chứ không phải là ??? chủ quan
của con người.
* Đặc điểm cơ bản của mối liên hệ phổ biến:
Thứ nhất: Tính khách quan của mối liên hệ phổ biến.
Điều này muốn nói rằng mối liên hệ của sự vật, hiện tượng là cái vốn có
của sự vật hiện tượng. Nó được quy định bởi tính thống nhất, vật chất của
thế giới không phải là sản phẩm của tư duy con người tạo ra hay ý niệm
tuyệt đối chi phối như cách lý giải của Hê ghen.
Thứ hai: Tính phổ biến của mối liên hệ.
+ Nó diễn ra ở nhiều sự vật, hiện tượng có cả trong tự nhiên, trong xã hội
và trong cả tư duy.
+ Trong tự nhiên đó là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, đó
là quá trình phát triển của giống loài.
+ Trong xã hội đó là mối liên hệ kinh tế - chính trị, quan hệ giữa các giai
cấp
+ Trong tư duy đó là mối liên hệ giữa các khái niệm, phán đoán, phạm trù,
là mối liên hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Thứ ba: Tính đa dạng của mối liên hệ.
+ Sở dĩ như vậy vì sự vật, hiện tượng tồn tại 1 cách đa dạng, phong phú,
nhiều vẻ cho nên mối liên hệ này cũng đa dạng, phong phú, nhiều vẻ như
chính bản thân của sự vật, hiện tượng, do đó có mối liên hệ bên trong, bên
ngoài, có mối liên hệ chủ yếu, thiết yếu, bản chất, không bản chất.
+ Những hình thức riêng biệt cụ thể của từng mối liên hệ là đối tượng
nghiên cứu của từng nhành khoa học cụ thể. Còn phép biện chứng duy vật
thì nghiên cứu mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới. Chính vì
vậy, Ăng ghen nói rằng: “phép biện chứng là khoa học của mối liên hệ phổ
biến”.
* Ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ này:
Từ sự nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến cho phép chúng ta rút ra quan điểm toàn
diện trong việc xem xét nhận thức các sự vật, hiện tượng cũng như trong hoạt
động thực tiễn. Quan điểm này có mấy yêu cầu sau đây:
Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ với sự vật, hiện tượng
khác, không được tách sự vật hiện tượng này ra khỏi sự vật hiện tượng
khác. Điều này sẽ giúp cho chúng ta tránh dược những sai lầm cứng nhắc
trong việc xem xét, nhận thức các sự vật, hiện tượng. Quan điểm này đòi
hỏi chúng ta khi xem xét 1 sự vật, hiện tượng nào đó thì phải bao quát tất cả
các mặt, các thuộc tính của sự vật, hiện tượng đó, không được phiếm diện
trong việc đánh giá sự vật, hiện tượng.
Khi xem xét sự vật, hiện tượng với tất cả mối liên hệ chúng đòi hỏi chúng
ta phải phát hiện được đâu là mối liên hệ bản chất, mối liên hệ ý nghĩ quyết
định đến sự vận động và phát triển, đâu là mối liên hệ ảnh hưởng đến sự vật
đó trên cơ sở đó tìm cách giải quyết. Điều này sẽ tránh được tư tư tưởng
dàn đều, dàn trải, biết chú ý đến trọng tâm, trọng điểm.
Câu 5: Nội dung và ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập.
* Vị trí của quy luật này : Đây là 1 trong 3 quy luật của phép biện chứng duy
vật. Quy luật này nói lên nguồn gốc, động lực bên trong của mọi sự biến đổi. Lê
nin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng.
* Nội dung của quy luật này:
- Nội dung của quy luật mâu thuẫn thống nhất và đấu tranh giưã các mặt đối
lập được thể hiện thông qua việc nghiên cứu các phạm trù cuả nó.
+ Mâu thuẫn là 1 hiện tượng khách quan phổ biến, điều này muốn nói rằng:
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng mâu thuẫn. Mỗi sự vật, hiện tượng đều
là 1 thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính đối lập nhau nhưng lại liên hệ,
ràng buộc nhau tạo thành mâu thuẫn. Các mâu thuẫn này là cái vốn có của sự
vật, hiện tượng chứ không phải là sáng tạo thuần tuý của tư duy cho nên nó là
cái khách quan.
+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
Mặt đối lập: Là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm,
những thuộc tính, những khuynh hướng, biến đổi trái ngược nhau, tồn
tại 1 cách khách quan trong cùng 1 sự vật hay trong cùng 1 hệ thống sự
vật tác động qua lại với nhau gây nên sự vận động, biến đổi. Chăng
hạn: Đồng hoá và dị hoá, biến dị và di truyền, đấu tranh giai cấp
Mâu thuẫn: Chính các mặt đối lập nằm trong 1 chỉnh thể có liên hệ
khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau mặt này lấy mặt kia làm
tiền đề tồn tại cho mình đã tạo nên mâu thuẫn.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối còn sự đấu tranh của các
mặt đối lập là tuyệt đối bởi vì các mặt đối lập này luôn luôn có khuynh
hướng đối lập nhau, bài trừ, phủ định lẫn nhau cho nên đấu tranh là tuyệt
đối. Nhưng mặt khác, các mặt đối lập cũng phải nương tựa vào nhau, mặt
này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình, cho nên nó phải thống nhất
với nhau nhưng thống nhất này là tương đối, tạm thời, thoáng qua.
– Phân loại mâu thuẫn: Do hiện tượng, sự vật tồn tại 1 cách đa dạng,
phong phú, do các mâu thuẫn phong phú nhiều vẻ cho nên có mâu
thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không
cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu, có mâu thuẫn đối
kháng và không đối kháng Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn riêng,
có đặc trưng của xã hội loài người, là mâu thuẫn giai cấp, tập đoàn
người, khuynh hướng xã hội có lợi ích đối lập nhau.
Ví dụ: Nô lệ - địa chủ; nông nô với chủ nghĩa phong kiến
Nội dung thực chất của quy luật này là: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng
những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản
thân mình. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành ??? nội tại
của sự vận động và phát triển, dẫn đến sự mất đi của cái cũ, sự ra đời của cái
mới.
* Ý nghĩa của quy luật:
- Nghiên cứu quy luật mâu thuẫn chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận
sau:
Thứ nhất: Quy luật mâu thuẫn vạch ra ngồn gốc, động lực bên trong
của mọi vận động, phát triển, quy luật này cho chúng ta biết sự vận
động phát triển do đâu? từ đâu mà có?
Thứ hai: Khi phân tích quy luật phải xem xét toàn quá trình phát
sinh, phát triển của các mặt đối lập trên cơ sở đó chúng ta tìm biện
pháp để chúng ta giải quyết đồng thời chính là phát hiện mâu thuẫn
để tìm biện pháp giải quyết.
Thứ ba: Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có điều kiện chín muồi,
vì vậy không dược giải quyết vội vàng chủ quan, cục bộ.
Thứ tư: Mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng con đường đấu tranh
giữa các mặt đối lập chứ khống phải bằng con đường điều hoà giữa
chúng. Đây là khác nhau về nguyên tắc giữa những người cách mạng
và những người cải lương.
- Nghiên cứu các quy luật mâu thuẫn chúng ta thấy các mâu thuẫn khác nhau
đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Chính vì vậy chúng ta phải
chống quan điểm dàn trải, đồng đều khi xem xét giải quyết các mâu thuẫn.
Câu 6: Nội dung, ý nghĩa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến những
sự thay đổi về chất và ngược lại:
* Nội dung của quy luật lượng, chất:
* Khái niệm chất: Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất của các thuộc tính, làm cho nó là nó và
phân biệt nó với những cái khác.
* Khái niệm lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy luật vốn có của
sự vật biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của
sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
- Như vậy: Chất và lượng đều chỉ tính quyết định vốn có của sự vật, hiện tượng nhưng
chất khác lượng ở chỗ: Chất nói lên nó là nó, nó khác với cái khác như thế nào?,
lượng thì chưa. Lượng chỉ là những thông số giúp cho chúng ta hiểu được quy mô
trình độ phát triển của sự vận động phát triển cua sự vật hiện tượng.Biểu thị của lượng
có thể là những con số chính xác và mang tính rời rạc. ví dụ: 5 người, 5 cái bàn, 7 cái
ghế nhung cũng có khi nó biểu thị dưới dạng đại lượng mang tính liên tục ví dụ:
Bình 50 lít nước, 1 phòng có 50m
3
Ngoài ra lượng vẫn còn tồn tại ở dạng trừu
tượng, khái quát ví dụ: Năng lực công tác của cán bộ
- Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất:
+ Mỗi 1 sự vật hiện tượng có chất và lượng, trong quá trình vận động 2 mặt này
không tách rời nhau và chúng dược giới hạn trong 1 phạm vi nhất định, phạm vi ấy
chính là độ.
+ Độ là phạm trù triết học dùng chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, nó là khoảng
giới hạn trong đó sự thay về lượng ??? làm thay đổi căn bản về chất và sự vật. Ví dụ:
Nước ở thể lỏng từ 1 – 90
0
c
nếu 100
0
c nước ở trạng thái hơi, nhưng nếu < 1
0
c nước
trở thành thể rắn do sự thay đổi về nguyêntử gọi là độ.
+ Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã làm cho sự thay đổi về chất
được gọi là điểm nút.
+ Bước nhảy là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự
vật do những thay đổi về độ trước đó gây ra. Ví dụ: Sự ra đời của CNTB là 1 chất
mới so với xã hội phong kiến. CNTB tạo ra được 1 khối lượng sản phẩm lớn hơn
nhiều so với xã hội phong kiến. Vậy điểm nút ở đây là chủ nghĩa phong kiến chuyển
sang CNTB. Cụ thể là cuộc cách mạng tư sản.
+ Khi nghiên cứu bước nhảy người ta thấy rằng có những bước nhảy diễn ra 1 cách
nhanh chóng, nhung cũng có những bước nhảy diễn ra 1 cách từ từ. Ví dụ: Các cuộc
cách mạng tư sản đột biến, quá trình tiến hoá loài người là bước nhảy từ từ, dần dần
+ Còn về quy có những bước nhảy toàn bộ, có những bước nhảy cục bộ. Bước nhảy
toàn bộ làm thay đổi về chất, thay đổi các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự
vật ví dụ như hình thái kinh tế xã hội này – hình thái kinh tế xã hội khác: Trong 1
hình thái kinh tế xã hội có sự thay đổi về kinh tế, nhưng xã hội thì không hoặc trong
kinh tế có thể thay đổi 1 ngành Từ sự phân tích trên chúng ta có thể rút ra nội dung
cơ bản của quy luật này là bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng.
Sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng, nếu vượt quá giới hạn độ làm cho
sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật hiện tượng mới ra đời. Chất với lượng tác động
qua lại với nhau làm cho sự vật tiếp tục vận động biến đổi. Sự biến đổi của chất và
lượng mới làm cho sự vật hiện tượng thay đổi, sẽ tạo ra sự thay đổi, biến đổi mới cứ
như vậy sự vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng.
+ Trong phép biện chứng duy vật quy luật này nói nên cách thức sự vận động biến
đổi.
* Ý nghĩa từ sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng.
- Thứ nhất: Để có tri thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng đòi hỏi chúng ta
phải ??? cả mặt chất và mặt lượng bởi vì đây là 2 yếu tố cấu thành. Điều
này có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc đánh giá tiến bộ xã hội.
- Thứ hai: Giữa thay đổi và sự thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng
với nhau, điều đó đòi hỏi chúng ta phải hiểu đúng đắn vị trí, vai trò của
từng mặt, trong sự phát triển phải biết kịp thời chuyển ??? .Sự thay đổi về
lượng sang sự thay đổi về chất, từ tiến hoá sang CM. Trong cuộc sống hàng
ngày, chúng ta muốn có sự thay đổi về chất nhất thiết chúng ta phải có sự
thay đổi về lượng. Nếu không có sự thay đổi về lượng khó có sự thay đổi về
chất.
- Thứ ba: Nghiên cứu các bước nhảy đòi hỏi chúng ta phải chống tư tưởng tả
khuynh, chủ quan nóng vội muốn có sự thay đổi về chất ngay khi chưa có
đủ sự thay đổi về lượng. Chống tư tưởng tả khuynh, bảo thủ
- Thứ tư: Công nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay có ý nghĩa như 1 quá trình
mang tính cách mạng, việc thay đổi trên từng lĩnh vực sẽ góp phần tạo bước
nhảy về chất trong toàn bộ xã hội nói chung. Đảng ta đã khẳng định những
thành công chúng ta đạt được sau 20 năm đổi mới có ý nghĩa to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Điều đó chúng ta đã có được những sự thay đổi rất cơ bản về
lượng, chuẩn bị cho sự thay đổi về chất.
Câu 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
* Định nghĩa thực tiễn: Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục
đích mang tính lịch sử và xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội. Trong định nghĩa này chúng ta cần lưu ý 3 điểm sau đây:
Thực tiễn là những hoạt động vật chất cảm tính, nghĩa là: hoạt động
này nó phải sử dụng lực lượng vật chất và chúng ta có thể nhận biết
hoạt động thực tiễn bởi các cơ quan cảm giác của chúng ta.
Hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội. Điều này khẳng định
trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau thì hình thức hoạt động thực
tiễn có những biểu hiện khác nhau. Ví dụ: Cùng là lao động sản
xuất vật chất trong xã hội chiếm hữu nô lệ khác với lao động vật
chất trong phong kiến tư bản
Hoạt động thực tiễn mang tính xã hội, là của tập đoàn người chứ
không phải của 1 cá nhân riêng lẻ nào.
- Có 3 hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức hoạt động
thực tiễn cơ bản nhất, chủ yếu nhất. Không có hình thức hoạt động
này thì con người không thể tồn tại, phát triển được. Chính vì vậy
Mác và Ăng ghen nói rằng: “Một dân tộc sẽ chết đói nếu ngừng lao
động, tôi không nói trong 1 năm mà chỉ trong 1 vài tuần thôi”.
Thứ hai: Hoạt động chính trị xã hội cải tạo cách mạng. Hình thức
hoạt động này sẽ thúc đẩy xã hội phát triển, chuyển xã hội từ hình
thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác.
Thứ ba: Hình thức thực nghiệm khoa học. Hình thức hoạt động này
giúp cho con người khám phá đối tượng tự nhiên, phục vụ cho lợi
ích của con người.
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Nghiên cứu bản chất của nhận thức chúng ta thấy rằng thực tiễn có vai trò
hết sức to lớn đối với quá trình nhận thức của con người, vai trò đó thể hiện
ở những nội dung cơ bản sau:
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, suy cho cùng nhận thức bắt nguồn
từ thực tiễn, không có thực tiễn sẽ không có nhận thức. Thực tiễn đề
ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức.
Ăng ghen từng viết rằng: “Khi xã hội có nhu cầu về kĩ thuật thì nhu
cầu này thúc đẩy khoa học hơn 10 trường Đại học”. Ngoài ra thực
tiễn còn cung cấp vật liệu cho nhận
thức. Không có những vật liệu do thực tiễn cung cấp thì chúng ta sẽ
không nhận thức về đối tượng.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, điều này muốn nói rằng nhận
thức của con người là phải hướng vào thực tiễn, quay trở lại thực
tiễn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Chứ nhận thức không phải chỉ để
nhận thức 1 cách đơn thuần. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa khi
được áp dụng vào thực tiễn nếu lý luận những phát minh không
được áp dụng vào thực tiễn góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển thì
nó cũng trở nên thường.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chất lượng. Nhận thức của con
người muốn biết đúng sai thì phải quay về thực tiễn, chính trong
thực tiễn con người phải chứng minh chân lý.Tiêu chuẩn chân lý vừa
có tình tương đối vừa có tính tuyệt đối bởi vì nó là tiêu chuẩn khách
quan có thể xác nhận chân lý. Nó là tương đối bởi vì thực tiễn luôn
luôn vận động biến đổi làm cho nhận thức vận động và biến đổi
theo. Một điều đáng lưu ý khi chúng ta nói thực tiễn của chân lý
không có nghĩa là nó là tiêu chuẩn duy nhất bởi vì còn có những quy
luật logic của quá trình nhận thức. Tuy nhiên tiêu chuẩn logic này
không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tế được. Xét cho đến cùng
tiêu chuẩn logic này vẫn thuộc thực tiễn.
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu phạm trù thực tiễn: Nghiên cứu phạm trù thực
tiễn và vai trò của nó đối với quá trình nhận thức cho phép chúng ta rút ra
quan điểm thực tiễn:
Yêu cầu của quan điểm thực tiễn là trong nhận thức và hoạt động
chúng ta phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu
vào thực tiễn.
Những sai lầm mà ĐH 6 đã chỉ ra nhất là tư tưởng chủ quan duy ý
chí, nhũng giáo điều có nguyên nhân không xuất phát từ tình hình
thực tiễn của đất nước để đưa ra đường lối, chính sách của đất nước,
không nắm vững quan điểm của thực tiễn
Câu 8: Biện chứng của quy luật nhận thức.
* Khái niệm nhận thức:
- Nhận thức của con người là 1 quá trình, trong đó có nhiều trình độ, nhiều
vòng khâu, nhiều hình thức khác nhau. Điều này được Lê nin diễn tả 1 cách
khái quát như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của nhận thức
chân lý, của nhận thức khách quan”.
- Trực quan sinh động hay còn gọi là nhận thức cảm tính, đậy là giai đoạn
đầu của quá trình nhận thức. Giai đoạn này được thể hiện dưới 3 hình thức
sau:
Cảm giác: Là hình thức đầu tiên đơn giản nhất của quá trình nhận
thức, là nguồn gốc của mọi sự việc. Sự vật, hiện tượng trực tiếp tác
động vào các giác quan của chúng ta gây nên cảm giác về chúng đó
là màu sắc, âm thanh, mùi vị, độ rắn mềm của vật thể
Tri giác: Là sự tổng hợp nhiều cảm giác phản ánh nhiều thuộc tính
trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh
hơn về sự vật. So với cảm giác tri giác là hình thức cao hơn của cảm
tính nhưng nó vẫn mang tính trực tiếp.
Biểu tượng: Là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ do
tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với đối tượng, những hình ảnh này nó có
thể tái hiện lại trong chúng ta mỗi khi có 1 tác động nào đó liên
quan.
- Tư duy trừu tượng hay còn gọi là nhận thức lý tính: Đây là giai đoạn tiếp
theo cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận
thức lý tính. Tư duy trừu tượng cũng phản ánh trừu tượng nhưng đây là sự
phản ánh gián tiếp và khái quát do đó phản ánh sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.
Những biểu hiện của tư duy trừu tượng đó là khái niệm – phán đoán – suy
lý.
Khái niệm:
+ Là 1 hình thức của tư duy trừu tượng. Nó phản ánh những mối liên
hệ và thuộc tính, bản chất, phổ biến của 1 nhóm sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan.
+ Nói 1 cách ngắn gọn khái niệm là tên gọi do con người đặt ra,
phản ánh mối liên hệ những thuộc tính, bản chất, phổ biến của 1
nhóm các sự vật, hiện tượng.
+ Khái niệm gắn liền với sự phát triển của khoa học, nó như là các
viên gạch để xây nên toà nhà khoa học, nghĩa là mọi khoa học đều
có hệ thống khái niệm.
Phán đoán:
+ Là hình thức của tư duy trừu tượng, vận dụng các khái niệm đã có
để khẳng định hoặc phủ định 1 thuộc tính, 1 mối liên hệ nào đó của
hiện thực khách quan.
+ Các phán đoán khẳng định như là ma sát sinh ra nhiệt, muối ăn tan
ra nước, Ví dụ: Phán đoán phủ định cá voi không phải là cá voi.
Suy lý: Là 1 hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, trong đó xuất
phát từ 1 hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới
làm kết luận.
Ví dụ:
Phán đoán 1: mọi kim loại đều dẫn điện.
Phán đoán 2: đồng là 1 kim loại.
Phán đoán 3: đồng dẫn điện.
* Quan hệ biện chứng giữa trực quan sinh động và tư duy trừu
tượng.
Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là 2 giai đoạn của quá
trình nhận thức. 2 giai đoạn này tuy khác nhau về vị trí, vai trò, mức
độ phản ánh nhưng giữa chúng có quan hệ mật thiết với nhau, liên
hệ tác động qua lại với nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Cả 2 đều
phản ánh thế giới vật chất, có cùng 1 cơ sở sinh lý duy nhất là hệ
thần kinh của con người, và đều chịu sự chi phối thực tiễn lịch sử xã
hội.
Nhận thức lý tính phải được hình thành trên cơ sở của nhận thức
cảm tính, nhận thức cảm tính dựa vào nhận thức lý tính để nắm được
bản chất sự vật.
Tư duy trừu tượng là sự phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan,
nên ở giai đoạn này nó có nguy cơ phản ánh sai lệch hiện thực vì vậy
mà hiện thực lý tính phải quay trở về thực tiễn để kiểm nghiệm kết
quả của mình, để nhận biết đâu là chân lí, đâu là sai lệch.
Quán triệt sự thống nhất biện chứng của quá trình biện chứng có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn trước hết nó giúp đỡ chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm
(đề cao nhận thức cảm tính) cũng như chủ nghĩa giáo điều đề cao
quá mức tư duy lý luận, tư duy trừu tượng.
Câu 9: Quy luật quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất (LLSX). Ý nghĩa đối với nước ta?
* Khái niệm QHSX:
- Trong quá trình sản xuất con người phải thiết lập hai mqhệ, qhệ giữa con người
với con người và qhệ giữa con người và giới tự nhiên. Mác và Ăng ghen gọi đây là mqhệ
“song trùng”. QHSX là mqhệ giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất.
- Mác có viết rằng: “Trong Sx, người ta không chỉ qhệ với giới tự nhiên. Người ta
không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo 1 cách nào đó để hoạt động
chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có mối liên
hệ và quan hệ nhất định với nhau, và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản
xuất”
- QHSX do con người tạo ra trong quá trình sản xuất nhưng nó là cái khách quan
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Nó là những quan hệ mang tính
vật chất thuộc đời sống xã hội.
- QHSX được thể hiện trên 3 mqhệ cơ bản sau đây:
Thứ nhất: QH sở hữu tư liệu sản xuất, là quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất, chi
phối tất cả các quan hệ khác
Thứ hai: QH tổ chức và quản lý xã hội.
Thứ ba: QH trong phân phối sản phẩm.
- Ba mối quan hệ này gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành hệ thống mang tính ổn định
tương đối.
- Tính chất của QHSX: Trước hết nó được quy định bởi quan hệ sở hữu, biểu hiện của
nó là chế độ tư hữu, hay chế độ công hữu. Trong các quan hệ xã hội này thì QHSX giữ
vai trò hết sức quan trong trọng, thậm chí nó đóng vai trò quyết định các quan hệ xã hội
khác.
* Khái niệm LLSX:
- LLSX biểu thị mqhệ giữa con người với giới tự nhiểntong quá trình sản xuất các vật
chất, thể hiện năng lực của con người trong quá trình chinh phục giới tự nhiên.
- Về mặt kết cấu thì LLSX bao gồm:
Người lao động (sức khoẻ, trí tuệ, đạo đức, kinh nghiệm, kĩ năng, kĩ sảo ).Người
lao động giữ vai trò quan trọng nhất của LLSX. Lê nin gọi: “Người lao động là
LLSX hàng đầu”.
Tư liệu sản xuất: Là những đối tượng tự nhiên được con người biến đổi và những
tư liệu lao động mà con người dùng để cải tạo chúng. Như vậy, TLSX là toàn bộ
tư liệu được con người sử dụng trong quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Xét về mặt kết cấu thì TLSX bao gồm Tư liệu lao động và đối tượng
lao động:
TLLĐ: Công cụ lao động giữ vai trò hết sức quan trọng. Sự phát triển của xã hội
phụ thuộc rất lớn rất lớn vào việc cải tiến công cụ lao động. Công cụ lao động
không được cải tiến thì năng suất SXLĐ không thể cao. Đây là 1 yếu tố động nhất,
CM nhất.
ĐTLĐ có 2 loại: Có sẵn trong tự nhiên và loại do con người tạo ra.
Khoa học: Là 1 LLSX trực tiếp bởi vì nó là nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến
đổi trong sản xuất, nó ngày càng được áp dụng rộng rãi trong sản xuất, nó xâm
nhập vào yếu tố của LLSX, nó tạo ra những vật liệu mới. Khái niệm khoa học mà
chúng ta bàn ở đây là nói về tri thức khoa học, đó là lĩnh vực hoạt động nghiên
cứu nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức mới và áp dụng những tri thức đó
vào trong đời sống xã hội.
* Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
- Sự tác động lẫn nhau của QHSX và LLSX biểu hiện mqhệ biện chứng giữa
chúng. Mqhệ này được lặp đi lặp lảitong tiến trình xã hội, biểu hiện thành quy luật cơ
bản nhất của sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Đây chính là quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
- LLSX suy cho cùng nó quy định QHSX. Khuynh hướng của xã hội không ngừng
biến đổi theo chiều tiến bộ, sự biến đổi này được bắt đầu từ sự biến đổi của LLSX.
Trong đó công cụ lao động là yếu tố thường xuyên biến đổi , thường xuyên cải tiến.
Mỗi khi công cụ lao động được cải tiến nó đòi hỏi phải có 1 cách thức tổ chức, quản lí
phù hợp. Đồng thời nó quyết định luôn cả quan hệ sở hữu đối với nó do đó quyết định
luôn cả quan hệ phân phối sản phẩm xã hội làm ra. Chính vì vậy mà Mác nói rằng:
“Cái cối xay quay bằng tay thì đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng máy
hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”.Trong phương thức sản xuất thì
LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức. Nội dung bao giờ cũng quy định hình
thức, ở đây LLSX quyết định QHSX.
- QHSX có tính độc lập tương đối, nó tác động trở lại LLSX. Quy mô, tốc đọ hiệu
quả, xu hướng, nhịp điệu sản xuất, khuynh hướng phát triển của công nghiệp, kích
thích người lao động làm việc QHSx phù hợp với trình độ LLSX lúc đó nó thúc đẩy
LLSX phát triển, ngược lại QHSX không phù hợp, mâu thuẫn với LLSX lúc đó nó sẽ
kìm hãm sự phát triển của LLSX.
- Khi chúng ta nói đến trình độ của LLSX là muốn nói đến trình độ cải tiến công
cụ lao động, đến trình độ tổ chức lao động, đến việc ứng dụng khoa học vào sản xuất,
kinh nghiệm, kí năng, kĩ sảo của người lao động, trình độ phân công lao động
- Khi nói về tính chất của LLSX là chúng ta nói đến tính chất cá nhân, cá thể trong tổ
chức xã hội hoá của LLSX.
- Trạng thái không phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX thể hiện ở
những nội dung sau:
Một là: QHSX lạc hậu hơn so với trình độ phát triển của LLSX.
Hai là: QHSX phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ
phát triển của LLSX.
- Quan hệ biện chứng giữa QHSX và LLSX: Được biểu hiện thành mâu thuẫn biện
chứng của sự phù hợp và không phù hợp, tức là sự phù hợp biện chứng - phù hợp
trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn. Phù hợp - không phù hợp - phù hợp. Đây là
biểu hiện khách quan giữa quá trình tương tác giữa LLSX với QHSX và quá trình này
diễn ra ở mọi phương thức sản xuất.
* Ý nghĩa đối với nước ta:
- Nhận thức là một quá trình, hơn nữa nhận thức của con người vừa có hạn vừa vô
hạn chính vì vậy mà bên cạnh những nhận thức đúng đắn thì tất yếu có những nhận
thức sai lầm.
- Trong việc nhận thức quy luật QHSX - LLSX bên cạnh những nhận thức đúng
đắn cũng có lúc Đảng ta nhận thức chưa đầy đủ về quy luật này, tại ĐH 6 tháng
12/1986 Đảng ta đã chỉ ra những khuyết điểm sai lầm trong việc nhận thức quy luật
này như: Còn biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi
XHCN, nhanh chóng biến kinh tế Tư bản tư nhân thành quốc doanh, có xu hướng
muốn tổ chức các HTX có quy mô lớn, không tính đến trang bị kĩ thuật, trình độ quản
lí về năng lực căn bản
- Từ thực tiễn của CM Việt Nam Đảng ta nhận thức 1 cách sâu sắc rằng: “LLSX bị
kìm hãm không chỉ QHSX lạc hậu mà cả khi QHSX phát triển không đồng bộ, có
những yếu tố đi quá xa với trình độ phát triển của LLSX”.
- Từ những nhận thức trên Đảng ta đã có những sự điều chỉnh trong quá trình vận
dụng quy luật này. Một trong những biểu hiện của sự điều chỉnh đó là chúng ta
chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế, chủ truong đa dạng về hình thức sở hữu, sử dụng
nhiều thành phần kinh tế theo định hướng XHCN, sử dụng cơ chế thị trường có sự
quản lí của nhà nước. Tại ĐH 9 năm 2001 Đảng ta khẳng định: “Phát triển LLSX hiện
đại gắn liền với QHSX và QHSX mới trên cả 3 mặt sở hữu, quản lí, phân phối Tại
ĐH 11 năm 2011 Đảng ta chỉ rõ XHCN mà chúng ta xây dựng là 1 xã hội “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh ” có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
LLSX hiện đại và QHSX phù hợp.
Câu 10. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng.
Ý nghĩa phương pháp luận.
* Khái niệm Cơ sở hạ tầng:
- CSHT là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những QHSX của 1 xã hội, trong
sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
- Hay nói cách khác: CSHT là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội trong 1 giai đoạn lịch sử nhất định.
- Trong 1 xã hội thì thường có các kiểu QHSX sau đây:
Thứ nhất: QHSX thống trị nó tiêu biểu cho xã hội đó. Ví dụ: trong
xã hội phong kiến
Thứ hai: QHSX quá độ, bao gồm: QHSX tàn dư để lại, QHSX mầm
mống của xã hội tương lai, QHSX đan xen hỗn hợp.
- Xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì QHSX hợp thành cơ sở kinh tế xã
hội tức là các cơ sở hiện thực trên đó người ta dựng nên KTTT tương ứng
với nó.Trong các QHSX ấy thì QHSX thống trị quyết định đặc trưng của
CSHT ở thời tương ứng đó.
* Khái niệm Kiến trúc thượng tầng.
- KTTT là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần xã hội như đạo
đức, thẩm mỹ, tôn giáo, hệ tư tưởng, chính trị, ý thức pháp quyền, triết học,
khoa học cùng với những thiết chế tương ứng được hình thành trên nền
tảng của CSHT nhất định.
- Trong KTTT thì hệ tư tưởng chính trị và thiết chế tương ứng như nhà nước,
Đảng, ý thức, pháp quyền là cơ quan tư pháp giữ vai trò quan trọng, nó tác
động trực tiếp đến CSHT. Trong xã hội có giai cấp thì KTTT mang tính
giai cấp.
* Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT. Vai trò quyết định của CSHT
đối với KTTT.
- CSHT sinh ra KTTT, KTTT chỉ là sự phản ánh của CSHT mà thôi. Quan hệ
sản xuất, quan hệ kinh tế suy cho cùng quyết định các quan hệ chính trị,
pháp quyền. Chính vì vậy CSHT nào thì KTTT ấy. Mỗi khi CSHT thay đổi
thì sớm muộn gì KTTT cũng thay đổi theo.
- Nguyên nhân của sự biến đổi CSHT đó là do lực lượng sản xuất thay đổi,
làm cho QHSX cung thay đổi theo. QHSX thay đổi có nghĩa là CSHT thay
đổi. Trong đó sự thay đổi LLSX trước hết là cải tiến công cụ lao động.
* Sự tác động qua lại của KTTT đối với CSHT.
- KTTT được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhưng KTTT có tính độc lập
tương đối, nó tác động trở lại CSHT với nhiều hình thức khác nhau, cơ chế,
khuynh hướng khác nhau.
- Trong KTTT thì hệ tư tưởng chính trị, ý thức pháp quyền nó tác động trực
tiếp mạnh mẽ nhất đến CSHT. Trong những giới hạn điều kiện nhất định
nào đó thì nó làm thay đổi CSHT thông qua cách mạng xã hội.
- Hạt nhân của quan hệ CSHT và KTTT đó là quan hệ kinh tế với chính trị,
đây là mối quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất. Thực ra chính trị là sự
biểu hiện tập trung của kinh tế, “Là kinh tế cô đọng lại” (Lê nin).
- Tuy KTTT có tính độc lập tương đối , tác động qua lại CSHT nhưng chúng
ta không được tuyệt đối hoá nó, nếu tuyệt đối hoá sẽ rơi vào chủ nghĩa duy
tâm.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Xuất phát từ chỗ CSHT quyết định KTTT cho nê chúng ta phải củng cố và
hoàn thiện QHSX XHCN, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể phải trở thành nền kinh tế quốc dân.
- Tại ĐH 11 năm 2011 Đẩng ta có chỉ rõ XHCN mà chúng ta đang xây dựng
hiện nay là 1 xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX phù hợp.
- Do KTTT có tính độc lập tương đối tác động qua lại CSHT cho nên chúng
ta phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường
công tác giáo dục tư tưởng, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp quyền
và đưa hệ thống pháp luật đó vào thực tiễn.
- Chúng ta phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị. Lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị.
- Quan điểm của đổi mới đó là không được xa rời mục tiêu, lý tưởng XHCN,
đổi mới để có nền XHCN phát triển hơn, đổi mới phải trên cơ sở kế thừa và
kế thừa trên cơ sở đổi mới.
Câu 11: Nguồn gốc, bản chất Nhà nước:
* Nguồn gốc nhà nước:
- Xã hội loài người đã có lúc ??? phân chia giai cấp Nhà nước cũng chưa ra
đời. Tổ chức xã hội đầu tiên của con người đó là bộ lạc, thị tộc
- Do sự vận động nội tại của nền sản xuất xã hội trước hết do cải tiến công cụ
lao động, công cụ lao động được cải tiến dẫn đến năng suất lao động cao,
năng suất lao động cao dẫn đến xã hội dư thừa. Những người trước đây do
xã hội bầu ra chủ yếu là chấp hành chức năng xã hội như tộc trưởng thì
giờ đâyhọ liên kết với nhau chiếm lấy sản phẩm dư thừa đó, họ trở thành
những người lao động giàu có từ đây xã hội có sự phân biệt kẻ giàu người
nghèo, xã hội có giai cấp từng bước hình thành. Nguyên nhân xuất hiện của
giai cấp dẫn đến sự xuất hiện của nhà nước là do:
Thứ nhất: Sự phát triển của LLSX.
Thứ hai: Sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng và khát vọng
muốn chiếm đoạt sản phẩm dư thừa đó của những người có thẩm
quyền trong xa hội.
Thứ ba: Chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc (trước đây tù binh bắt về
người ta giết đi nhưng nay do LLSX phát triển, nhu cầu lao động
tăng cho nên số tù binh được bổ sung vào LLLĐ)
Thứ tư: Các tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần tách khỏi gốc rễ của
nó trong ??? trở thành tổ chức độc lập, và tổ chức đó chính là nhà
nước. Hê ghen có viết rằng: Nhà nước là 1 sản phẩm của xã hội đã
phát triển tới 1 giai đoạn nhất định, nó là sự thừa nhận rằng xã hội
đó bị lúng túng trong 1 mối mâu thuẫn với bản thân mà không sao
quyết định được rằng xã hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập
không thể điều hoà mà xã hội đó bất lực không sao loại bỏ được.
Nhưng muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp đó có lợi ích
kinh tế mâu thuẫn nhau đó không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và
tiêu diệt luôn cả xã hội trong 1 cuộc đấu tranh vô ích thì cần phải có
1 lực lượng cần thiết, 1 lực lượng rõ ràng và đứng trên xã hội đó
chính là nhà nước.
* Định nghĩa Nhà nước: Mác và Ăng ghen nói: “Nhà nước chẳng qua chỉ là 1
bộ máy của 1 giai cấp này dùng để trấn áp 1 giai cấp khác”.
* Bản chất của Nhà nước:
- Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ
trật tự hiện hình và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác.
- Quyền lực của nhà nước về
bản chất là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về mặt kinh tế.
- Bản chất giai cấp của nhà nước do cơ sở kinh tế trên đó nhà nước tồn tại
quy định.
- Tóm lại: Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của 1 giai cấp, là quyền lực
chính trị của 1 giai cấp, là bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với giai cấp
khác. Mác và Ăng ghen viết rằng: Nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế
lực nhất của các giai cấp thống trị về mặt kinh tế, và nhờ có nhà nước mà