Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Du Lịch Cộng Đồng Ở Vùng Núi Phía Bắc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.65 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ HƯỜNG



DU LỊCH CỘNG ĐỒNG Ở VÙNG NÚI PHÍA
BẮC VIỆT NAM
(Nghiên cứu trường hợp bản Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, Lào Cai và
bản Lác, Chiềng Châu, Mai Châu, Hoà Bình)



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ




Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ HƯỜNG




DU LỊCH CỘNG ĐỒNG Ở VÙNG NÚI PHÍA
BẮC VIỆT NAM
(Nghiên cứu trường hợp bản Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, Lào Cai và
bản Lác, Chiềng Châu, Mai Châu, Hoà Bình)


Chuyên ngành: Dân tộc học


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS NGUYỄN VĂN CHÍNH



Hà Nội - 2011

1

MỤC LỤC

Lời cảm ơn.
Dẫn luận 3
1. Cơ sở khoa học của đề tài . 3
2. Lịch sử vấn đề. 6
3. Vấn đề và địa bàn nghiên cứu . 12
4. Phương pháp nghiên cứu 13
5. Bố cục luận văn 15
Chương I. Tài nguyên du lịch ở vùng núi phía Bắc Việt Nam và loại hình du
lịch cộng đồng . 16
1.1. Cảnh quan sinh thái với tư cách là một nguồn tài nguyên du lịch của vùng núi

Tây Bắc 16
1.2. Văn hóa tộc người với tư cách là một nguồn tài nguyên nhân văn của du lịch
cộng đồng 24
1.3. Sự hình thành loại hình du lịch cộng đồng ở Bản Lác (Hòa Bình) và Sả Séng
(Lào Cai) 43
Chương II. Du lịch cộng đồng và tác động kinh tế - môi trường ở địa phương.
. 54
2.1. Dịch vụ du lịch tại cộng đồng . 54
2.1.1. Dịch vụ nhà nghỉ và loại hình du lịch tại gia (homestay) 54
2.1.2. Sản xuất và tiêu thụ sản vật địa phương 58
2.1.3. Dịch vụ ẩm thực trong du lịch cộng đồng. 67
2.1.4. Quảng bá, môi giới và hướng dẫn viên du lịch . 69
2.2. Tác động kinh tế 72
2.2.1. Du lịch cộng đồng và kinh tế hộ gia đình . 72
2.2.2. Du lịch cộng đồng và dịch chuyển cơ cấu kinh tế địa phương . 77
2.2.3. Du lịch cộng đồng và quá trình đô thị hoá ở miền núi 81
2.3. Tác động lên môi trường sinh thái 86
2.3.1. Nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của địa phương . 86
2.3.2. Nguy cơ rác thải và ô nhiễm môi trường 88
2

Chương III. Du lịch cộng đồng và tác động lên đời sống văn hoá - xã hội ở địa
phương 9 0
3.1. Văn hoá tộc người trong du lịch cộng đồng. 9 0
3.1.1. Lễ hội cổ truyền và du lịch . 9 0
3.1.2. Lối sống của tộc người và du lịch 9 2
3.1.3. Văn nghệ địa phương và du lịch 9 4
3.2. Tác động của du lịch lên đời sống văn hoá - xã hội địa phương 96
3.2.1. Bản sắc văn hoá tộc người . 96
3.2.2. Tình hình an ninh, chính trị 119

3.2.3. Quá trình thương mại hoá văn hoá 121
3.3. Sex và nghiện hút trong du lịch cộng đồng và tác động của nó . 125
3.3.1. Dịch vụ sextour trong du lịch ở cộng đồng . 125
3.3.2. Quan niệm và hành vi văn hoá tình dục ở địa phương 128
3.3.3. Du lịch và tình trạng nghiện hút ở địa phương 130
3.3.4. Người dân địa phương trước các tệ nạn xã hội du nhập vào cộng đồng qua
hoạt động du lịch. 135
Kết luận . 137
Tài liệu tham khảo
Phụ lục ảnh












3
LUẬN

Vùng núi phía Bắc Việt Nam vốn giàu tiềm năng du lịch để phát triển du lịch
cộng đồng:
+ Môi trường sinh thái còn hoang sơ, giàu bản sắc, nhiều cảnh quan thiên
nhiên tươi đẹp.
+ Người dân địa phương còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hoá truyền thống đa

dạng sắc màu văn hoá.
Chính vì thế, nhiều năm qua lượng khách du lịch trong và ngoài nước đến tham
quan, nghỉ dưỡng tại các điểm du lịch ở các tỉnh miền núi phía Bắc ngày càng tăng
Nhưng một thực tế là, bên cạnh đem lại lợi ích cho các công ty du lịch, góp phần
tăng trưởng kinh tế cho các địa phương, thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ, đẩy
nhanh quá trình đô thị hoá…, sự phát triển du lịch miền núi cũng đã và đang đặt ra
nhiều bất đề bất cập. Đó là các tác động tiêu cực đến môi trường, sự mai một của các
yếu tố văn hoá truyền thống, an ninh, chính trị, tệ nạn nghiệt hút, mại dâm… Đặc biệt
sự hưởng lợi từ hoạt động du lịch của người dân địa phương không được là bao.
Trước đây mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến mảng đề
tài này. Có thể khái quát thành bốn nhóm chính:
- Các công trình nghiên cứu sâu về các khái niệm và lý luận về loại hình du
lịch cộng đồng;
- Các nguồn tài liệu quảng bá du lịch cộng đồng thông qua lăng kính của
truyền thông đại chúng và quảng cáo du lịch;
- Các nghiên cứu định hướng chính sách phát triển du lịch bền vững;
- Các nghiên cứu học thuật về mối liên hệ giữa văn hóa tộc người địa phương
và du lịch cộng đồng.
Tuy nhiên, khuynh hướng chủ đạo của các công trình đã có là hướng đến đề
xuất chính sách phát triển du lịch bền vững hoặc xem xét lịch sử hình thành và phát
triển văn hóa vùng núi trong một viễn cảnh lịch sử và ở tầm vĩ mô. Có thể nhận thấy
hai khiếm khuyết phổ biến của các nghiên cứu đã có là:

4
- Nặng về thiên kiến chủ quan của người nghiên cứu trong khi tiếng nói của chủ
thể du lịch cộng đồng là người dân địa phương lại ít được quan tâm xem xét;
- Còn thiếu các nghiên cứu sâu ở từng trường hợp cụ thể và đặc biệt là những phân
tích tác động kinh tế - xã hội của loại hình du lịch cộng đồng còn thiên về lý thuyết hơn là
được phát triển từ những tư liệu thực địa được thu thập một cách có hệ thống.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Du lịch cộng đồng ở vùng núi phía Bắc Việt

Nam” trên cơ sở tập trung nghiên cứu sâu hai mô hình du lịch cộng đồng ở Bản Lác
và Sả Séng để mang lại một cái nhìn cận cảnh về tình hình du lịch cộng đồng và tác
động của nó qua con mắt của người dân địa phương.
Trên cơ sở đó, Luận văn tập trung giải quyết 4 vấn đề cốt lõi:
1. Nhận diện, phân tích hiện trạng hoạt động du lịch cộng đồng tại địa bàn
nghiên cứu
2. Phân tích các hoạt động du lịch tại cộng đồng và sự tham gia của người dân
địa phương vào hoạt động du lịch.
3. Phân tích, so sánh các tác động của hoạt động du lịch cộng đồng lên hoạt
động kinh tế, môi trường, văn hoá, xã hội tại địa bàn nghiên cứu. Đặc biệt quan tâm
đến vấn đề lợi ích của người dân địa phương trong quá trình tham gia hoạt động du
lịch và đánh giá hiệu quả của mô hình du lịch cộng đồng.
4. Tìm hiểu phản ứng của người dân địa phương và sự thích ứng trước trào
lưu du lịch cộng đồng. Mối quan hệ lưỡng nan giữa phát triển du lịch và bảo tồn văn
hoá địa phương được coi là một vấn đề mở trong nghiên cứu này để cùng phân tích
và bình luận.
Địa bàn được chọn nghiên cứu trường hợp là hai bản Sả Séng, Lào Cai và bản
Lác, Hoà Bình. Đây là hai trong những điểm du lịch khá nổi tiếng, vốn hoạt động
khá hiệu quả của mô hình du lịch cộng đồng ở vùng núi phía Bắc hiện nay.
Các phương pháp mà tác giả sử dụng trong quá trình triển khai và hoàn thành
luận văn gồm: điền dã dân tộc học, phiếu hỏi, phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm
Đặc biệt, Luận văn chú trọng đưa tiếng nói của người dân, chủ thể văn hoá trong quá
trình phân tích, lý giải nội dung của đề tài nhằm bổ khuyết và làm tăng tính thuyết
phục của tư liệu thu thập được tại địa bàn nghiên cứu.

5
Ngoài chương mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, thư mục, phụ lục, nội
dung chính của luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 2: Tài nguyên du lịch của vùng núi phía Bắc Việt Nam và sự hình
thành loại hình du lịch cộng đồng ở bản Lác, Hoà Bình và Sả Séng, Lào Cai.

Chương 3: Du lịch cộng đồng và tác động kinh tế - môi trường ở địa phương
Chương 4: Du lịch cộng đồng và tác động lên đời sống văn hoá - xã hội ở địa
phương


Chương 1
TÀI NGUYÊN DU LỊCH CỦA VÙNG NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM VÀ
SỰ HÌNH THÀNH LOẠI HÌNH DU LỊCH CỘNG ĐỒNG Ở SẢ SÉNG (TẢ PHÌN, SAPA,
LÀO CAI) VÀ BẢN LÁC (CHIÈNG CHÂU, MAI CHÂU, HOÀ BÌNH)

1.1. Cảnh quan sinh thái với tư cách là một nguồn tài nguyên du lịch
của vùng núi Tây Bắc

Nội dung Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, Lào Cai

Bản Lác, Chiềng Châu,
Mai Châu, Hoà Bình
Vị trí địa lý,
địa hình
- Lào Cai cách Thủ đô Hà N
ội
338km, có cửa khẩu thông th
ương
với Trung Quốc. Sapa là m
ột trong
nh
ững điểm du lịch nổi tiếng, hấp
dẫn của Lào Cai v
ới nhiều điểm du
lịch cộng đồng hấp dẫn, giàu b

ản
sắc, trong đó có tuyến du lịch l
àng
bản Tả Phìn.
- Hoà Bình tiếp giáp với thủ đô H
à
N
ội về phía Tây Bắc. Có cửa ng
õ
thông sang thượng L
ào. Mai Châu
là m
ột trong những vẻ đẹp chính
của Hoà Bình v
ới điểm du lịch
c
ộng đồng nổi tiếng, có lịch sử
phát tri
ển khá lâu đời đó là b
ản
Lác, bản Pom Coọng…

6
Cảnh quan
sinh thái
- Các bản làng du lịch nằm rải
rác
ở thung lũng. Với t
ầng tầng lớp lớp
những ruộng bậc thang ôm lấy thâ

n
núi và nhiều dòng thác bạc b
ọt
tung trắng xoá.
- Các bản làng du lịch nằm ở
thung
lũng với những vạt nương định
canh,
những cánh đồng lúa nư
ớc hai vụ
cho năng suất cao nhờ kỹ thuật đi
ều
khiển nguồn nước suối n
ơi chân núi
làm nên một phong cảnh hữu t
ình
của non nước.
Khí hậu
- Khí h
ậu ôn đới với sự hội tụ của 4
mùa trong ngày. Đặc biệt, v
ào
những ngày đông l
ạnh giá, du
khách còn đư
ợc ngắm cảnh tuyết
rơi.
- Chịu ảnh hưởng của chế độ
gió
mùa tây bắc, chia th

ành hai mùa:
mùa mưa và mùa khô, biên đ

trong ngày cao, có ngày rét, sương
muối hoặc mưa phùn giá rét.
H
ệ động, thực
vật
- H
ệ động thực vật phong phú, đa
d
ạng. Nhiều rừng tái sinh có độ
tuổi từ 60-70 tuổi, là nơi sinh s
ống
của nhi
ều loại động, thực vật quý
như: cây gỗ Zổi, Xoan Tr
à,
Trâm;Báo, Gà Lôi, R
ắn Hổ Mang
Chúa, đ
ặc biệt, trong rừng có nhiều
thảo quả và nhi
ều loại cây thuốc có
giá trị.
Hệ sinh thái rừng đã hầu như c
ạn
kiệt, trở thành nh
ững cánh rừng
trồng và những vạt nương đ

ịnh
canh đem đ
ến cho du khách thấy
một nét đẹp khác của tự nhiên đã b

chinh phục và phá vỡ ở n
ơi đây.
Đây chính là nguồn cung
ứng thực
ph
ẩm dồi dào cho du khách lưu l
ại
nơi này trong đó cá suối là m
ột sản
vật địa phương không th
ể thiếu
trong mỗi bữa ăn đãi khách.

Như vậy, xét về điều kiện tự nhiên, bản Lác, Chiềng Châu, Mai Châu dường như
không thật phong phú, hấp dẫn như ở Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, nhưng trên thực tế, du
lịch ở bản Lác lại phát triển không thua kém gì Sả Séng, phải chăng, sức hút du lịch của
bản Lác lại chính là nguồn tài nguyên văn hoá nhân văn rất phong phú và đa dạng mà
người Thái vẫn lưu giữ được gần như nguyên vẹn.

7
1 2. Văn hóa tộc người với tư cách là một nguồn tài nguyên nhân văn của
du lịch cộng đồng

Nội dung


Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, Lào Cai Bản Lác, Chiềng Châu, Mai Châu,
Hoà Bình
Lịch sử
định cư
Sả Séng là nơi tụ cư của ngư
ời Dao
đỏ, có nguồn gốc từ v
ùng Vân Nam,
Trung Quốc, di cư vào Vi
ệt Nam từ
th
ế kỷ 18 (Bế Viết Đẳng, 2006, tr.
160)
Bản Lác là nơi tụ cư của ngư
ời Thái
trắng, có nguồn gốc từ v
ùng Đông
Nam Trung Qu
ốc, di cư vào Vi
ệt Nam
từ thế kỷ XI-XII và họ là m
ột trong
những cư dân c
ổ của nền văn minh Âu
Lạc, là m
ột trong những chủ nhân
khai phá n
ền văn minh, văn hiến Đại
Việt.
Đời sống

văn hoá
Nhà có tư
ờng đất, dựng ở sườn núi.
Trang phục có gam màu nóng n
ổi trội,
màu đỏ kết hợp màu vàng, màu tr
ắng
nổi bật lên màu chàm, s
ử dụng kỹ
thuật thêu và ghép vải màu để tạo n
ên
trang phục.

Ngư
ời Dao ăn gạo tẻ, uống rư
ợu ngô,
rượu thóc là chính. Ngư
ời Dao ít quan
tâm đến kỹ thuật, chất lượng món ăn.

Nhà sàn, d
ựng ven thung lũng
Trang ph
ục của phụ nữ Thái trắng
gồm áo sửa cỏm v
à váy đen bó sát
người cùng với chiếc khăn piêu t
ạo
nên vẻ thanh nhã, duyên dáng c
ủa

ngư
ời phụ nữ Thái. Sử dụng kỹ thuật
dệt vải tạo trang phục.
Ngư
ời Thái ăn gạo nếp, uống rư
ợu
cần là chính. Ngư
ời Thái có nhiều kỹ
thu
ật chế biến món ăn rất độc đáo, hấp
dẫn, đảm bảo dinh dưỡng

Văn hoá
ứng xử
Xã hội phụ quyền, đề cao vai tr
ò
người đàn ông trong gia đ
ình và ngoài
xã hội
Hôn nhân do cha mẹ áp đặt.
Xã hội phụ quyền, đề cao vai tr
ò
người đàn ông trong gia đ
ình và ngoài
xã hội
Hôn nhân do trai gái tự nguyện

8
Rất mến khách và có tính c
ộng đồng

cao
Lễ tết nhảy, tết cơm mới và t
ục cấp
sắc là nh
ững lễ, tục có ý nghĩa quan
trọng đối với người Dao đỏ…

Rất mến khách và có tính c
ộng đồng
cao
Hội Chá chiêng, hội xên bản x
ên
mường, tết cơm mới… là nh
ững sinh
hoạt cộng đồng nổi bật của ngư
ời Thái
trắng…

1.3. Sự hình thành loại hình du lịch cộng đồng ở Bản Lác (Hòa Bình) và Sả Séng
(Lào Cai)

Nội dung

Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, Lào Cai Bản Lác, Chiềng Châu,
Mai Châu, Hoà Bình
Sự hình
thành
DLCĐ
Sả Séng, Tả Phìn nằm trên tuy
ến du

lịch làng b
ản của Sapa, có lịch sử phát
tri
ển du lịch lâu đời song du lịch cộng
dồng mới thực sự được xây dựng v
à
phát tri
ển từ năm 2005.
DLCĐ ở bản Lác b
ắt đầu manh nha từ
năm 1964 nh
ằm phục vụ nhiệm vụ
chính trị của đất nước, ngư
ời đặt nền
móng đầu tiên là ông Hà Công Nh
ấm,
một cán bộ xã khi đó.
Đầu tư
phát
triển du
lịch
Sả Séng, Tả Phìn nhận đư
ợc nhiều
nguồn đầu tư t
ừ chính quyền địa
phương và các t
ổ ch
ức phi chính phủ,
cả về tài chính và l
ập kế hoạch, đề án,

hướng dẫn nghiệp vụ…
Chính quyền huyện, tỉnh có đầu t
ư
phát tri
ển DLCĐ bản Lác song c
òn
khiêm tốn. Nguồn vốn đầu tư c
ủa các
tổ chức phi chính phủ thì gần nh
ư
không có. S
ự phát triển DLCĐ ở bản
Lác chủ yếu từ vốn tự đầu tư và s

năng động của người dân địa phương
Qua những nghiên cứu, đánh giá trên, ta có thể rút ra một vài nhận xét so sánh về
tình hình, hiện trạng phát triển du lịch tại Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, Lào Cai và bản Lác,
Chiềng Châu, Mai Châu, Hoà Bình như sau:
1- Về chính sách phát triển du lịch, cả Lào Cai và Hoà Bình đều được xác định là
một trong những điểm du lịch lớn của đất nước, có nhiều tiềm năng để khai thác, phát triển

9
loại hình du lịch sinh thái văn hoá hay du lịch cộng đồng. Sả Séng, Tả Phìn, Sapa và bản
Lác, Chiềng Châu, Mai Châu là một trong những điểm du lịch làng bản, du lịch cộng đồng
nổi tiếng của hai tỉnh, có nền tảng phát triển du lịch khá lâu đời. Song xét về mức độ quan
tâm đầu tư cho phát triển du lịch thì Tả Phìn, Sapa, Lào Cai có nhiều chính sách ưu tiên và
quan tâm tới phát triển du lịch sớm hơn, toàn diện hơn Mai Châu, Hoà Bình. Các cấp chính
quyền ở Mai Châu, Hoà Bình dường như thụ động, không tham gia tích cực vào hoạt động
du lịch của bản. Ở Tả Phìn, Sapa, chính quyền địa phương rất năng động và giữ vi trí thiết
yếu trong sự phát triển du lịch của cộng đồng. Thành viên Hội chữ thập đỏ và Trung tâm

Thông tin du lịch Sapa đóng vai trò chính trong việc hỗ trợ bản.
2- Về nguồn lực đầu tư cho hoạt động du lịch: bản Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, Lào Cai
đón nhận được nhiều chính sách ưu tiên cũng như nhiều nguồn lực đầu tư trong và ngoài
nước cho hoạt động du lịch, đặc biệt là du lịch cộng đồng. Các tổ chức phi chính phủ SNV,
SIDA đã giúp đỡ một cách tích cực trong sự phát triển du lịch cộng đồng tại bản thông qua
việc đào tạo và nâng cao nhận thức, tổ chức cộng đồng, phát triển cơ cấu và sản phẩm du
lịch cũng như khâu tiếp cận thị trường. Ngược lại, ở bản Lác, dường như không có một tổ
chức phi chính phủ hay một cơ sở đào tạo năng lực nào tại địa phương tham gia vào hoạt
động du lịch của bản Lác. Có tình trạng trên một phần là do Sả Séng, Tả Phìn được hưởng
những lợi thế nằm trong vùng ảnh hưởng của trung tâm du lịch Sapa, trong khi đó, du lịch
Mai Châu lại rất mờ nhạt và không có nhiều tác động đến các vùng phụ cận của vùng. Nếu
sự hình thành và phát triển của du lịch cộng đồng Sả Séng, Tả Phìn là hệ quả của những tác
động từ trung tâm du lịch Sapa thì ngược lại, du lịch cộng đồng ở bản Lác lại hình thành và
phát triển mang tính chất tự phát từ chính bản thân nó, do cộng đồng địa phương tự đứng lên
vay vốn đầu tư làm du lịch, không trông chờ, ỉ lại vào các nguồn đầu tư của nhà nước, địa
phương và các tổ chức phi chính phủ. Phải chăng, nhờ vậy nên du lịch cộng đồng ở bản Lác,
Chiềng Châu, Mai Châu có nội lực phát triển bền vững hơn, có khả năng chủ động kiểm soát
được tác động của du lịch hơn bản Sả Séng, Tả Phìn, Sapa. Để làm rõ điều này, chúng ta sẽ
cùng phân tích quá trình tham gia của người dân địa phương vào hoạt động du lịch và đánh
giá tác động của du lịch lên đời sống kinh tê - văn hoá - môi trường cộng đồng.

Tiểu kết
Du lịch cộng đồng, với tư cách là một loại hình du lịch ăn khách hiện nay, thực ra chỉ
mới được phát triển từ những thập niên giữa thế kỷ hai mươi ở khu vực Âu Mỹ. Khái niệm
10
này dần được truyền bá ra thế giới và ở Việt Nam, du lịch cộng đồng giờ đây được thwcaf
nhận là một loại hình có nhiều triển vọng, đã được phát triển khá rộng, không chỉ ở vùng núi,
vùng biển mà cả ở vùng đồng bằng miệt vườn Nam bộ.
Tài nguyên của du lịch cộng đồng chủ yếu bao gồm hai dạng chính là tài nguyên sinh
thái tự nhiên địa phương và bản sắc đa dạng của văn hóa các tộc người bản địa.

Vùng núi Tây Bắc Việt Nam được xem là địa bàn giàu có về cả hai loại hình tài nguyên
du lịch nói trên. Chính sự đa dạng và phong phú của hệ sinh thái tự nhiên và nhân văn đã góp
phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của loại hình du lịch sinh thái tại khu vực này. Bản
Lác của người Thái Mai Châu và bản Sả Séng của người Dao Đỏ Sapa có thể được xem là
những mô hình du lịch dựa vào cộng đồng được phát triển tương đối sớm ở Việt Nam và vẫn
đang là những điểm đến của du khách trong và ngoài nước. Chính sự tương tác giữa con người
với hệ sinh thái đã tạo nên cảnh quan du lịch và nét đặc sắc của văn hóa tộc người do đó đã trở
thành một thứ hàng hóa đặc biệt trong hoạt động du lịch cộng đồng.

Chương 2
DU LỊCH CỘNG ĐỒNG VÀ TÁC ĐỘNG KINH TẾ - MÔI TRƯỜNG
Ở ĐỊA PHƯƠNG

2.1. Dịch vụ du lịch tại cộng đồng

Dịch vụ Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, Lào Cai Bản Lác, Chiềng Châu,
Mai Châu, Hoà Bình
Nhà nghỉ tại gia

06/99 hộ dân làm ngh
ỉ nghỉ tại gia
(chiếm 06%). Công năng nhà ngh
ỉ:
10-15 khách/nhà. Giá d
ịch vụ trung
bình: 40.000 đồng/người/đ
êm. Gia
đình không ph
ải đóng thuế do khách
về bản đã ph

ải đóng phí tham quan
20.000/đoàn khách do UBND x
ã thu.
Doanh thu trung bình: 1,5-2 tri
ệu
đồng/gia đình/năm
24/110 hộ gia đình làm ngh
ỉ tại gia
(chiếm 21,8%). Công năng nh
à
nghỉ: 20-25 khách/nhà. Giá d
ịch vụ
trung bình: 40.000
đồng/người/đêm. Gia đình ph
ải
đóng thuế cho chính quyền xã v
ới
mức phí 5000 đồng/ngư
ời. Doanh
thu trung bình: 10-15 tri
ệu
đồng/gia đình/năm.
11
Sản xuất v
à tiêu
thụ sản vật địa
phương
- Bán hàng thổ cẩm dưới nhiều h
ình
thức: bán hàng rong và thành l

ập
CLB, sản xuất tập trung, tiêu th
ụ qua
các cơ sở đầu mối tại các địa ph
ương,
trong đó Craflink tại Hà Nội là m
ột
trong những đầu mối chính.
- Sản xuất và tiêu th
ụ thuốc tắm cổ
truyền dưới nhiều hình thức: t
ư nhân
(3 gia đình) và thành l
ập công ty cổ
ph
ần Sapa Napro.
- Trồng và bán thảo quả dưới h
ình
thức nhỏ lẻ gia đình
- Mở gian trưng bày bán s
ản phẩm
tại chính ngôi nhà của mình (chi
ếm
80% các gia đình trong b
ản).
Thành l
ập CLB sản xuất thổ cẩm,
Cơ sở bảo trợ xã h
ội nhân đạo
Thuận Hoà do m

ột cá nhân đứng ra
xây dựng và phát tri
ển. Khôi phục
nghề trồng dâu nuôi tằm, có 35 h

gia đình tham gia
- Vi
ệc lấy thuốc chủ yếu phục vụ
nhu cầu của bản thân, chưa h
ình
thành thị trường bán - mua s
ản
ph
ẩm thuốc dân tộc ở bản Lác
Dịch vụ ẩm thực

- Số lượng khách ăn và ngh
ỉ lại qua
đêm tại bản không nhiều. Giá d
ịch vụ
trung bình 40.000 đồng/ngư
ời/bữa ăn,
doanh thu ư
ớc đạt 300.000 đồng/hộ
gia đình/tháng.

- Món ăn gồm:
các món ăn Tây:
khoai tây chiên, xúc xích rán… và
các món ăn truy

ền thống của dân tộc
như: thịt sấy khô trên gác bếp, thịt g
à
đen, lợn cắp nách và đặc biệt là rư
ợu
thóc Tả Phìn
- Ở bản Lác, loại hình dịch vụ n
ày
phát tri
ển sôi động hơn. Giá dịch
vụ trung bình 50 -
80.000
đồng/bữa/người, doanh thu ước đ
ạt
15-20 triệu đồng/tháng

Món ăn gồm: thịt thú rừng (ho
ẵng,
cầy, lợn rừng…); các loại thú nuôi
(cá dầm xanh, gà đồi ) và các lo
ại
rau: su su, cải mèo, khoai sọ
, măng
rừng; Cơm lam, sôi đồ; Rư
ợu cần,
rượu Mai Hạ
Quảng bá,
hướng dẫn du
lịch
- Ngư

ời dân ít quan tâm đến công tác
quảng bá hình ảnh của mình mà ch

y
ếu đư
ợc thực hiện bởi các công ty
du lịch

- Ngư
ời dân rất chủ động, linh hoạt
trong công tác qu
ảng bá bản thân
thông qua nhiều hình thức nh
ư: qua
ngư
ời thân, qua khách du lịch, qua
các phương tiện thông tin như đi
ện
12



Toàn xã có 15 thi
ếu nữ Dao, H’mông
làm HDV du l
ịch cho các công ty du
lịch tại Sapa
thoại, fa
x, internet… và qua các
d

ịch vụ môi giới với lái xe ôm,
HDV du lịch…
- Bản Lác ch
ưa có ai làm HDV du
lịch mà chỉ có một số gia đ
ình cung
cấp dịch vụ chỉ đư
ờng khi khách có
nhu cầu

2.2. Tác động kinh tế.
2.2.1. Tác động lên kinh tế hộ gia đình
- Bảng so sánh lực lượng lao động tham gia vào hoạt động du lịch tại Bản Lác
và bản Sả Séng

STT Loại hình
Tỷ lệ người tham gia
Bản Lác Bản Sả Séng
1 Sản xuất và bán hàng thổ cẩm

80% dân số
70% dân số
2 Dịch vụ nhà nghỉ homestay

21,8% hộ gia đình
6% hộ gia đình
3 Tham gia đi tour du lịch
Trên 5% dân số
1,8% dân số
4 Chở xe ôm 1,2% dân số 2,7% dân số

4 Dịch vụ tắm lá thuốc
0%
03 hộ gia đình (3%)
(Nguồn: Điều tra thực địa 2009)
-
Bảng so sánh thu nhập của các hộ gia đình tham gia hoạt động du lịch

STT

Mức thu nhập/năm
(triệu đồng)
Bản Sả Séng Bản Lác
Số hộ Tỷ lệ (%)

Số hộ Tỷ lệ (%)
1
Không có thu nhập từ du
lịch
0 0
0 0
13
2 Từ 1-2 triệu 4 20 0 0
3 Từ 3-3,5 triệu 9 45 2 10
4 Từ 5-10 triệu 6 30 7 35
5 Trên 10 triệu 1 5
11 55
Tổng số hộ điều tra 20 hộ 100
20 hộ 100
(Nguồn: Điều tra thực địa 2009)
- Bảng so sánh tác động của du lịch lên cơ cấu kinh tế và thu nhập của hộ gia

đình tại bản Lác và Sả Séng
Bản Lác Bản Sả Séng
Thu nhập
Từ du lịch
Thu nhập từ nông, lâm
nghiệp
Thu nhập
từ du lịch
Thu nhập từ
nông, lâm nghiệp
Tỷ suất (%) Số hộ
gia đình
Tỷ suất
(%)
Số hộ
Gia đình
Tỷ suất
(%)
Số hộ
gia đình

Tỷ suất
(%)
Số hộ
gia đình

90-100 3 80-100

2 90-100 1 80-100 4
70-90 4 60-80 3 70-90 6 60-80 6

50-70 7 50-60 5 50-70 5 50-60 3
<50 6 <50 10 <50 8 <50 7
Tổng số hộ 20 20 20 20
(Nguồn: Điều tra thực địa 2009)
- Bảng so sánh mục đích sử dụng tiền kiếm được từ du lịch ở hai bản
Mục đích sử dụng Bản Lác Bản Sả Séng
Mua phân bón ruộng 20% 90%
Mua thóc giống 20% 30%
Mua sắm trang thiết bị gia đình 50% 10%
Mua thức ăn hàng hàng 45% 70%
Đầu tư trở lại cho du lịch: sửa chữa,
nâng cấp nhà cửa
80% 10%
Đầu tư cho con cái 40% 5%
(Nguồn: Điều tra thực địa 2009)
14
Như vậy, hoạt động kinh tế của các hộ gia đình ở bản Lác, Sả Séng bước đầu
đã có sự thay đổi theo hướng sản xuất hàng hoá. Thay vì trước kia, mọi sản phẩm
sản xuất ra từ nông nghiệp đến thủ công nghiệp đều chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của gia đình theo hình thức tự sản tự tiêu, thì nay, các sản phẩm do gia đình làm ra
đã xuất hiện trên thị trường, được đem ra để trao đổi, mua bán, tăng lợi nhuận và
doanh thu. Song một điều dễ nhận ra trong kinh tế hộ gia đình ở Sả Séng đó là sự
bấp bênh, không bền vững. Người Dao chỉ tham gia vào du lịch một cách gián tiếp
và quy mô nhỏ hẹp. Chủ yếu là sản xuất các sản phẩm đem đi bán rong ở trung tâm
xã hoặc trên chợ Sapa. Người Thái ở bản Lác tham gia một cách chủ động, có kế
hoạch, nên kinh tế hộ gia đình phát triển bền vững và hiệu quả hơn.

2.2.2. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương và quá trình đô thị hoá miền núi.

Tác động


Sả Séng, Tả Phìn, Sapa, Lào Cai Bản Lác, Chiềng Châu, Mai
Châu, Hoà Bình
Chuyển
dịch cơ
c
ấu kinh
tế địa
phương

Nông nghi
ệp được đầu tư phát tri
ển
theo hướng sản xuất hàng hoá
Nhiều nghề thủ công truyền thống
được khôi phục. Xuất hiện hiìh th
ức
sản xuất dư
ới dạng tập thể, công ty cổ
ph
ần
Ho
ạt động dịch vụ vu lịch phát triển
và chiếm ưu thế trong thu nhập
S
ản xuất nông nghiệp phát triển, trở
thành ngu
ồn cung cấp LTTP chính
cho du lịch
Nhi

ều nghề thủ công truyền th
ống
được khôi phục, đặc biệt là s
ản xuất
thổ cẩm
Ho
ạt động dịch vụ du lịch phát triển
và chiếm ưu thế trong thu nhập
Quá
trình đô
thị hoá
miền núi

Hoạt động mua bán diễn ra thư
ờng
xuyên. Xuất hiện nhiều quán hàng t
ạp
hoá, quán ăn uống, nhà nghỉ tại gia…

Xuất hiện nhiều gian h
àn g trưng
bày thổ cẩm, nhiều nhà ngh
ỉ tại gia
cung c
ấp dịch vụ ăn uống, nghỉ
ngơi cho khách du lịch

15
2.3. Tác động lên môi trường sinh thái


Du lịch phát triển một mặt đã góp phần nâng cao nhận thức của người dân về
bảo vệ môi trường, giữ gìn môi trường sinh thái xanh sạch đẹp, nhà cửa gọn gàng,
ngăn nắp. Ngược lại, sự tăng nhanh lượng khách về bản cũng kéo theo nhiều vấn đề
về môi trường nảy sinh, đặc biệt đó là sự quá tải của hệ thống cơ sở hạ tầng, nhu cầu
lương thực thực phẩm… gây ra nhiều bất cập với môi trường.
Tác động Bản Sả Séng Bản Lác
Nguy cơ cạn kiệt
tài nguyên thiên
nhiên
- C
ạn kiệt nguồn thuốc
quý. Suy giảm các lo
ài
đ
ộng, thực vật trong tự
nhiên như phong lan, n
ấm
hương, lợn rừng…
- Cạn kiệt các loài đ
ộng, thực
vật trong tự nhiên như: l
ợn
rừng, gà đ
ồi, chim cút, lửng,
gấu đất, măng rừng
Nguy cơ ô nhiễm
môi trường
- Tình tr
ạng xả thải bừa
bãi gây mất mỹ quan l

àng
bản.
- Hệ thống nư
ớc sạch,
công trình vệ sinh ch
ưa
đảm bảo tiêu chuẩn
- Những “hố vàng” trở th
ành
h
ố rác, gây ô nhiễm môi
trường, nguồn nước
- Hệ thống nư
ớc sạch, công
trình vệ sinh chưa đ
ảm bảo
tiêu chuẩn

Tiểu kết
Trong chương này tôi đã tập trung phân tích và đưa ra cái nhìn so sánh về
hiện trạng phát triển du lịch cộng đồng và tác động của nó lên hoạt động kinh tế -
môi trường tại địa phương ở hai điểm du lịch bản Sả Séng (Lào Cai) và bản Lác
(Hoà Bình). Thông tin thu thập được cho thấy du lịch cộng đồng tại bản Lác (Hoà
Bình) có tốc độ phát triển nhanh hơn, thu nhập từ du lịch chiếm tỷ trọng lớn hơn
trong cơ cấu thu nhập của cộng đồng. Người Thái ở bản Lác làm du lịch chủ động
hơn nhờ tính đoàn kết cộng đồng rất cao nên kiểm soát được nhiều tác động tiêu cực
của du lịch lên cộng đồng. Ngược lại, trường hợp bản Sả Séng cho thấy các hộ trực
16
tiếp làm du lịch hoặc tham gia vào quá trình du lịch chưa tạo ra sự đồng thuận về
cách làm và phương thức tổ chức. Xu hướng áp đặt và thiếu vai trò tự tổ chức của

cộng đồng đã làm hạn chế đế thu nhập của người tham gia dịch vụ du lịch và làm
cho thu nhập của họ trở nên bấp bênh hơn.

Chương 3
DU LỊCH CỘNG ĐỒNG VÀ TÁC ĐỘNG LÊN ĐỜI SỐNG
VĂN HOÁ - XÃ HỘI Ở ĐỊA PHƯƠNG

3.1. Văn hoá tộc người trong du lịch cộng đồng
Văn hoá tộc người là một trong những nguồn tài nguyên quý giá, tạo nên sức
hấp dẫn kỳ lạ đối với du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng. Người Dao
đỏ ở Sả Séng và người Thái ở bản Lác còn bảo lưu nhiều vốn văn hoá có giá trị thể
hiện ở các yếu tố:
- Lễ hội cổ truyền
- Lối sống tộc người
- Văn nghệ địa phương và kho tàng văn học dân gian
Tất cả những giá trị đó đã được người dân địa phương khai thác phục vụ khách du
lịch và tạo ra những thay đổi rõ rệt lên toàn bộ đời sống văn hoá tộc người
3.2. Tác động của du lịch lên đời sống văn hoá - xã hội địa phương
* Bản sắc văn hóa tộc người thay đổi:
- Nhà ở: Từ không gian riêng của gia đình đến không gian của một nhà khách
cho người lạ.
- Trang phục truyền thống dần bị mai một trước làn sóng Âu hoá, Kinh hoá.
- Văn hoá ẩm thực có nhiều thay đổi, hướng đến phục vụ nhu cầu của khách
du lịch.
- Từ các hình thức diễn xướng dân gian của cộng đồng đến các hoạt động văn
hoá văn nghệ có tính thương mại phục vụ khách du lịch.
- Ngôn ngữ dân tộc và xu hướng sử dụng song ngữ và đa ngữ. Tiếng Việt và
tiếng Anh được người dân sử dụng thành thạo hơn, đặc biệt là người Dao đỏ.
17
- Quan hệ xã hội truyền thống, cả quan hệ gia đình, dòng họ, quan hệ cộng

đồng, quan hệ chủ - khách đều có sự thay đổi sâu sắc. Đặc biệt, vai trò của người
phụ nữ trong gia đình và xã hội được nâng cao. Quan hệ người dân bản địa và người
nhập cư (chủ yếu là người Kinh) có nhiều điểm đáng chú ý. Người Kinh ở Sả Séng
được quyền mua đất và làm ăn kinh doanh tại bản, họ có quyền chi phối nhất định
đến hoạt động du lịch tại cộng đồng. Ở bản Lác thì ngược lại, dân của bản khác
không được phép mua đất xây nhà trong bản. Không phải dân bản địa không được
phép đầu tư. Toàn bộ đất trong bản được truyền từ đời này sang đời khác. Do đó, sự
xuất hiện của người Kinh ở bản Lác không nhiều.
* Tình hình an ninh chính trị có nhiều phức tạp:
- Xuất hiện hiện tượng chơi lô đề, bi-a ở Sả Séng. Đây đều là một trong những
hình thức chơi cờ bạc.
- Xuất hiện một vài trường hợp lừa bán trẻ em gái ở Sả Séng, Tả Phìn đi bán ở
Trung Quốc
Trái lại, tình hình an ninh chính trị ở bản Lác rất nghiêm ngặt. Không có hiện
tượng cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút diễn ra tại bản Lác
* Quá trình thương mại hoá văn hoá
Nhiều giá trị văn hoá được khai thác phục vụ nhu cầu của du khách và nó
đang dần bị mai một. Đó là sự mất dần bản sắc trong các hàng thổ cẩm, là sự mua
bán lòng hiếu khách…
3.3. Sex và nghiện hút trong du lịch cộng đồng và tác động của nó
- Sextour (du lịch tình dục) là một loại hình du lịch lấy việc theo đuổi mối
quan hệ tình dục có tính thương mại làm động cơ chủ yếu. Có thể phân chia sextour
thành 2 nhóm:
+ Sextour trong nhóm du lịch
+ Sextour ngoài nhóm du lịch.
- Theo phong tục truyền thống, người Thái, người Dao đều không cho phép
khách lạ quan hệ tình dục trong nhà, và đặc biệt lên án và xử phạt nặng việc loạn
luân, chửa hoang+ Trong kinh doanh du lịch cộng đồng tại hai bản đều không có
hiện tượng cung cấp dịch vụ gái đẹp, Song vấn đề khách lạ quan hệ tình dục trong
18

nhà đã được mở rộng hơn nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách.+ Do sự lên án
gay gắt của cộng đồng, dịch vụ tình dục không có cơ hội diễn ra tại cộng đồng mà
được di chuyển đến vùng trung tâm, đó là Thị trấn Mai Châu và Thị trấn Sapa, hoạt
động dưới nhiều hình thức trá hình
- Mai Châu có trên 200 người nhiễm HIV, người chết gần 100 người. Trọng
điểm của HIV/AIDS là Thị trấn Mai Châu, xã Mai Hạ và xã Chiềng Châu. Chiềng
Châu, người nhiễm HIV/AIDS chủ yếu tập trung ở các bản Mỏ, Nông Cụ và Chiềng
Châu. Bản Lác chỉ có duy nhất một trường hợp mắc nghiện, là người từ bản khác
chuyển về.
- Ở Tả Phìn, Sapa, có một vài trường hợp nghiện ma tuý do truyền thống để
lại (ngày xưa người H'mông, Dao thường trồng cây thuốc phiện để sử dụng) nhưng
nay những người đó đều đã già và mất. Một trường hợp nghiện khác, đó là một
thanh niên người dưới xuôi lên làm ăn và lập nghiệp. Nhưng hiện tượng quan hệ tình
dục với khách du lịch đã xuất hiện ở Sả Séng. Trong số 15 em của xã Tả Phìn lên
Sapa bán hàng thổ cẩm, làm hướng dẫn viên du lịch đã có tới 3 em lỡ có bầu và
không dám trở lại thôn bản
Qua những phân tích trên cho thấy, hiện tượng quan hệ tình dục ngoài cộng
đồng, hiện tượng nghiện hút ma tuý Mai Châu và Sapa là có thực và nó đang diễn ra
ngày càng rõ rệt. Song nếu ở Tả Phìn đã xuất hiện một số thành viên bị lôi cuốn vào
những tác động tiêu cực do du lịch đem lại, do gia đình, cộng đồng và chính quyền
địa phương chưa có biện pháp can thiệp và xử lý thì ở bản Lác, hiện tượng nghiện
hút, quan hệ mại dâm không xuất hiện từ bản thân cộng đồng và nhanh chóng bị tính
cố kết của cộng đồng chế ngự và tiêu diệt.
Tiểu kết
Tác động rõ rệt nhất của du lịch cộng đồng trong lĩnh vực văn hóa xã hội là xu
hướng khôi phục các lễ hội phong tục tập quán và diễn xướng truyền thống của cộng
đồng mà một trong những mục đích là nhằm làm tăng thêm sắc mầu văn hóa, hấp
dẫn du khách tại cộng đồng. Có thể nói, chính văn hóa tộc người đã được người dân
địa phương sử dụng như một hàng hóa du lịch mà người tiêu thụ hàng hóa ấy là du
khách.

19
Tuy nhiên, du lịch cộng đồng cũng là một con đường du nhập các yếu tố mới
vào các bản làng vùng cao. Theo quy luật cung - cầu thì những đòi hỏi các dịch vụ
của du khách thường được người dân làm du lịch đáp ứng ở những mức độ khác
nhau. Và cùng với những nhu cầu ấy, người dân địa phương bắt đầu làm quen với
các dịch vụ công khai và âm thầm.
Cần phải thấy rằng chính mối liên kết cộng đồng, lối sống truyền thống và các
quan niệm đạo đức của địa phương là một sức đề kháng tiềm tàng ngăn cản sự xâm
nhập các yếu tố lạ được coi là tệ nạn vào trong cộng đồng. Sự kháng cự của cộng
đồng trong tiếp nhận và cung ứng các dịch vụ sex tại địa phương chủ yếu là do quan
niệm văn hóa truyền thống, và một khi các giá trị đạo đức này phai nhạt đi thì sức
kháng cự của cộng đồng sẽ bị suy giảm. Nhận xét của tôi là ở đâu tính cố kết cộng
đồng chặt chẽ, lợi ích và chi phí du lịch được chia sẻ công bằng thì ở đó có khả năng
kiểm soát được các tác động tiêu cực và khuyến khích được phát triển du lịch cộng
đồng theo hướng bền vững.

KẾT LUẬN
1. Du lịch cộng đồng với tư cách một hình thức cung cấp dịch vụ thương mại
của người dân địa phương là một trong những loại hình du lịch mới xuất hiện trong
những năm gần đây ở Việt Nam và đang có nhiều tiềm năng phát triển. Có thể xem
đây như một hoạt động kinh tế góp phần xoá đói giảm nghèo tại các vùng đồng bào
dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Trong phát triển du lịch cộng đồng, người dân
địa phương được coi là trung tâm của quá trình phát triển. Họ đóng vai trò quyết
định trong việc hoạch định, xây dựng, triển khai và quản lý các hoạt động du lịch và
là yếu tố quan trọng của sự hấp dẫn trong du lịch. Cộng đồng dân cư làm chủ nguồn
tài nguyên du lịch và trực tiếp phục vụ du khách. Đây cũng chính là yếu tố quan
trọng nhất để phân biệt được du lịch cộng đồng với các loại hình du lịch khác.
2. Du lịch tham quan bản làng thực ra đã xuất hiện lần đầu tiên ở Bản Lác,
Mai Châu, Hoà Bình vào cuối những năm 1980 theo gợi ý của lãnh đạo địa phương.
Tuy nhiên phải đến cuối những năm 1990 thì nơi đây mới được biết đến như một địa

danh du lịch lưu trú tại cộng đồng. Chính người dân địa phương đã chủ động phát
20
triển, tự tìm kiếm thị trường và liên kết với các hãng lữ hành. Người dân và bộ máy
quản lý địa phương đóng vai trò quan trọng trong quản lý và tạo điều kiện cho hoạt
động du lịch và làm dịch vụ. Ngược lại, chính quyền các cấp địa phương từ xã,
huyện đến tỉnh đều rất thụ động trong việc trợ giúp phát triển loại hình du lịch này.
Đặc biệt, các cộng đồng như bản Lác và ngay cả các bản du lịch ở Sa Pa cũng ít
nhận được sự đầu tư của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ song du lịch cộng
đồng ở các bản này vẫn phát triển. Ở Bản Lác, tỷ lệ người dân được hưởng lợi trực
tiếp từ các hoạt động du lịch cộng đồng khá cao. Nguyên nhân là do nhận thức của
chính người dân địa phương trong việc tạo ra một cơ cấu tổ chức và quản lý cộng
đồng chặt chẽ trong cung cấp dịch vụ du lịch. Ở Sả séng, du lịch cộng đồng xuất
hiện muộn hơn và được phát triển theo kiểu áp đặt từ trên xuống, người dân bị thụ
động trong tổ chức hoạt động du lịch do bộ máy chính quyền địa phương và các
hãng lữ hành can thiệp quá sâu vào hoạt động du lịch, làm mất vai trò chủ động của
cộng đồng. Lợi ích của người tham gia hoạt động du lịch ở Sả Séng không ổn định,
hay nói cách khác, họ giống như những người đứng ở bên lề của loại hình du lịch
cộng đồng, trở thành người bán rong sản phẩm thủ công trên chính làng bản của
mình. Có thể nói mô hình phát triển du lịch cộng đồng tại bản Lác thể hiện tính bền
vững, hiệu quả hơn so với mô hình phát triển du lịch cộng đồng tại Sả Séng mà
nguyên nhân chính là vai trò chủ động của người dân địa phương trong tổ chức cung
cấp dịch vụ du lịch.
3. Mức độ tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch tại bản
Sả Séng và bản Lác có nhiều điểm tương đồng và dị biệt. Người Dao đỏ ở Sả Séng
và người Thái ở bản Lác đều tham gia rất sớm và mạnh mẽ vào hoạt động du lịch
thông qua việc biến nhiều di sản văn hoá thành sản phẩm du lịch song mức độ và
tính chất tham gia có sự khác nhau giữa các cộng đồng. Nếu như ở bản Lác, mỗi nhà
sàn là một gian trưng bày, giới thiệu sản phẩm truyền thống của dân tộc thì ở Sả
Séng, các gùi hàng đeo trên lưng mỗi người phụ nữ Dao đỏ bán hàng rong đóng vai
trò như là một không gian thu nhỏ trưng bày và bán các sản phẩm địa phương. Họ

lẽo đẽo bám theo khách để chào mời, ép khách mua hàng. Ở bản Lác, hầu hết các
gia đình làm nhà nghỉ homestay đều đi kèm dịch vụ ăn uống và biểu diễn văn nghệ
21
và tần suất diễn ra khá thường xuyên, còn ở Sả Séng, mức độ tham gia có mờ nhạt
hơn, khách du lịch về bản thường chỉ có nhu cầu tham quan mà ít có nhu cầu nghỉ
ngơi. Ở bản Lác, người Thái dường như chủ động hơn trong việc tham gia, quản lý
và quyết định đến sự phát triển du lịch của cộng đồng, vai trò của người Kinh khá
mờ nhạt, thì ở Sả Séng, người Dao đỏ ở đây lại bị động hơn, họ tham gia vào du lịch
một cách thụ động và manh mún, sự tham gia vào các hoạt động kinh doanh dịch vụ
du lịch của người Kinh có sức chi phối khá mạnh mẽ đến sự phát triển du lịch tại địa
phương. Cộng đồng người Thái ở bản Lác có tính cố kết sâu sắc và chính sự cố kết
cộng đồng đó đã góp phần kiểm soát được nhiều tác động của du lịch lên đời sống
văn hoá tộc người.
4. Du lịch cộng đồng xuất hiện và kéo theo nhiều tác động sâu sắc đến mọi
mặt đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường sinh thái tại điểm du lịch.
Những tác động và biến đổi này có mức độ đậm, nhạt khác nhau ở từng cộng đồng.
Ở bản Lác, hầu hết các gia đình trong bản đều có bán sản phẩm lưu niệm nhưng
không để xảy ra tình trạng tranh giành, níu kéo khách du lịch. Hiệu quả kinh tế từ du
lịch là khá bền vững và hiệu quả. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống được khôi phục
và phát huy giá trị, đó là các điệu múa, điệu nhảy dân gian, phong cách kiến trúc
truyền thống. Ý thức của người dân về vấn đề vệ sinh môi trường được nâng cao, thể
hiện ở hệ thống công trình vệ sinh công cộng và nhà nghỉ đạt chuẩn, nhà ở sạch sẽ,
vệ sinh môi trường đảm bảo; Tình tình an ninh chính trị trong thôn bản được giữ
vững. Trong khi đó, ở Sả Séng, quá trình thương mại hoá lại đang diễn ra quá nhanh,
làm mất đi tính bền vững của du lịch cộng đồng. Tại trung tâm xã thường diễn ra
cảnh chèo kéo khách du lịch để bán đồ lưu niệm, đặc biệt tình trạng tranh giành
nhau bán hàng đã đến mức báo động. Vai trò tổ chức và quản lý hoạt động du lịch
của cộng đồng quá mờ nhạt trong khi các hãng lữ hành chỉ quan tâm đưa khách đến
bản nhằm mục đích thu lợi mà lờ đi đầu tư chiều sâu để phát triển du lịch bền vững.
5. Qua những phân tích, so sánh về sự phát triển du lịch cộng đồng tại bản Sả

Séng và bản Lác, một vài khuyến nghị được đề xuất nhằm góp phần giải quyết mối tình
trạng lưỡng lan giữa quá trình phát triển du lịch và bảo tồn văn hoá
22
Thứ nhất, cần đề cao vai trò của cộng đồng ở các điểm du lịch để họ thực sự
trở thành chủ nhân của điểm du lịch đó. Các doanh nghiệp cần quan tâm chia sẻ lợi
ích công bằng cho cộng đồng cư dân địa phương dưới các hình thức khác nhau và có
thể tổ chức đầu tư chiều sâu vào hoạt động du lịch ở cộng đồng vì đây là nơi mang
lại cho họ lợi nhuận.
Thứ hai, cần đầu tư xây dựng các sản phẩm du lịch, các dịch vụ du lịch thấm
đậm yếu tố văn hoá truyền thống dân tộc, đảm bảo độc đáo, hấp dẫn, có sức thu hút
lớn đối với du khách. khôi phục và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc,
hạn chế tối đa quá trình thương mại hoá văn hoá và khai thác các giá trị văn hoá có
mục đích và ý thức, gắn liền khai thác với bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc là điểm
mấu chốt của phát triển du lịch bền vững.
Thứ ba, đầu tư phát triển du lịch cộng đồng tại các địa phương cần có sự
hướng dẫn, tổ chức, quản lý theo các quy định thống nhất. tăng cường sự đầu tư trở
lại cộng đồng của các tổ chức, doanh nghiệp, các cấp chính quyền, đảm bảo sự phân
đều lợi ích cho cộng đồng, bởi họ chính là chủ nhân của nền văn hoá ấy, họ phải
được hưởng quyền "tác giả" bản quyền văn hoá của dân tộc mình.
Thứ tư, tăng cường công tác quảng bá xúc tiến du lịch tại các điểm đến, thông
qua quá trình hợp tác công bằng giữa cộng đồng với các công ty du lịch.

×