Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

đồ án tốt nghiệp nghiên cứu thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh hai trường mầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 74 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y
DƯỢC
KHÚC THỊ TUYẾT
HƯỜNG
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NHIỄM

GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT Ở HỌC SINH HAI

TRƢỜNG MẦM NON TẠI THÁI NGUYÊN
VÀ KẾT QUẢ TẦY GIUN BẰNG

THUỐC ALBENDAZOL
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
THÁI NGUYÊN - NĂM 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y
DƯỢC
KHÚC THỊ TUYẾT
HƯỜNG
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NHIỄM

GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT Ở HỌC SINH HAI

TRƢỜNG MẦM NON TẠI THÁI NGUYÊN
VÀ KẾT QUẢ TẦY GIUN BẰNG

THUỐC ALBENDAZOL
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC


Chuyên ngành: Nhi khoa
Mã số: 60.72.16
Hƣớng dẫn khoa học: TS NGUYỄN ĐÌNH HỌC
THÁI NGUYÊN - NĂM 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giả
Khúc Thị Tuyết Hƣờng
Lời cảm ơn!
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS Nguyễn Đình Học, người Thầy với tấm lòng
tận tụy, đã nhiệt tình hướng dẫn, động viên, trực tiếp giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi đến các Thầy, Cô trong Bộ môn Nhi, trường Đại học Y Dược -
Đại

học Thái Nguyên lời cảm ơn sâu sắc về sự tâm huyết trong mỗi bài giảng, tạo
điều

kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu, Khoa Đào tạo sau
đại học và các Bộ môn Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên đã quan
tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn các anh chị Ths, Bs, kỹ thuật viên trung tâm Y tế dự phòng
Tỉnh Thái Nguyên đã giúp tôi thực hiện các xét nghiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo, các bà mẹ và
học sinh các trường: Mầm non công ty cổ phần giấy Hoàng Văn Thụ - thành phố
Thái Nguyên, Mầm non xã Hoá Thượng huyện Đồng Hỷ đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi tiến hành nghiên cứu để hoàn thành đề tài.

Tôi xin chân thành cảm ơn Trường CĐ Y Thái Nguyên – nơi tôi đang công
tác, gia đình, những người bạn thân thiết đã luôn giúp đỡ, động viên, khích lệ, chia
sẻ khó khăn trong thời gian tôi học tập và hoàn thành luận văn.
Xin được lượng thứ và góp ý cho những khiếm khuyết, chắc chắn còn nhiều
trong luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 06 tháng 10 năm 2009
Tác giả
Khúc Thị Tuyết Hường
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Các chữ viết tắt
Đặt vấn đề 1
Ch ƣ ơng 1

- Tổng quan

3
1.1. Đặc điểm sinh

học của

giun đũa,

giun tóc



giun


móc 3
1.1.1. Giun đũa 3
1.1.2. Giun tóc…………………….……….…………………………… 4
1.1.3. Giun móc 5
1.2. Tác hại của

giun đũa,

tóc,

móc đối

với sức khoẻ

và bệnh

tật trẻ em

5
1.3. Lịch sử

nghiên cứu về

nhiễm GTQĐ 6
1.4. Tình hình

nhiễm GTQĐ 8
1.4.1. Trên thế


giới 8
1.4.2. Ở

Việt

Nam

10
1.5.Điều trị bệnh

GTQĐ 12
1.5.1. Nguyên tắc 12
1.5.2. Các

thuốc

điều trị bệnh

GTQĐ 12
1.6. C ác biện pháp

phòng bệnh

GTQĐ 16
1.7. Một số đặc điểm của 2 trường mầm non nghiên cứu 18
Chƣơng 2 - Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu 20
2.1. Đối tượng nghiên cứu 20
2.2. Địa

điểm


nghiên cứu 20
2.3. Thời gian

nghiên cứu 20
2.4. Phương pháp nghiên cứu 20
2.4.1. Phương pháp thu

thập

số liệu 21
2.4.2. Phương pháp đánh

giá

tình trạng nhiễm

GTQĐ 22
2.4.3. Chỉ tiêu nghiên cứu


24
2.4.4. Phương pháp xử lý số

liệu

25
Chƣơng 3 - Kết quả nghiên cứu

26

3.1. Tỷ lệ nhiễm

các

loại giun

26
3.2. Kết quả tẩy

giun

33
3.3. Nhiễm giun đũa, tóc,

móc

và các yếu tố liên quan


38
Ch ƣ ơng 4 - Bàn

luận


41
Kết l

u ậ


n

50
Kiến nghị

52
Tài liệu tham khảo

53
Phụ lục
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CS : Cộng sự
GTQĐ : Giun truyền qua
đất

HT : Hoá Thượng
HVT : Hoàng Văn Thụ
NC : Nghiên cứu
Nxb : Nhà xuất bản
WHO : Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)
XN : Xét nghiệm
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Tỷ lệ nhiễm giun

26
Bảng 3.2. Tỷ lệ nhiễm các loại giun theo nhóm tuổi

27
Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm các loại giun theo giới


28
Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm các loại giun theo dân tộc

29
Bảng 3.5. Tỷ lệ đơn nhiễm và nhiễm phối hợp các loại giun đũa, tóc, móc
theo trường

30
Bảng 3.6.Tỷ lệ đơn nhiễm và nhiễm phối hợp các loại giun theo nhóm tuổi
31
Bảng 3.7. Cường độ nhiễm các loài giun của trẻ tại 2 trường (tính theo trung

bình cộng)

32
Bảng 3.8. Cường độ nhiễm các loài giun của trẻ tại 2 trường theo nhóm
tuổi32

Bảng 3.9. Kết quả tẩy giun chọn lọc bằng Albendazol sau 3 tuần

33
Bảng 3.10. Tỷ lệ nhiễm, tái nhiễm giun đũa

34
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm, tái nhiễm giun tóc

35
Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm, tái nhiễm giun móc

36

Bảng 3.13. Cường độ nhiễm giun đũa ở trẻ trước và sau tẩy giun

37
Bảng 3.14. Cường độ tái nhiễm giun tóc ở trẻ trước và sau tẩy giun

37
Bảng 3.15. Cường độ tái nhiễm giun móc ở trẻ trước và sau tẩy giun

38
Bảng 3.16. Liên quan giữa sử dụng hố xí không hợp vệ sinh với tỷ lệ nhiễm

giun

38
Bảng 3.17. Liên quan giữa rửa tay trước ăn với tỷ lệ nhiễm giun

39
Bảng 3.18. Liên quan giữa rửa tay sau đi ngoài với tỷ lệ nhiễm giun

39
Bảng 3.19. Liên quan giữa hiểu biết của bà mẹ về bệnh giun với tỷ lệ nhiễm

giun

40
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ nhiễm giun 26
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ nhiễm giun theo nhóm tuổi 27
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ nhiễm giun theo giới 28
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ nhiễm giun theo dân tộc 29

Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ đơn nhiễm và nhiễm phối hợp các loại giun đũa, tóc, móc

theo trường
30
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ đơn nhiễm và nhiễm phối hợp các loại giun theo nhóm
tuổi
31
Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ nhiễm, tái nhiễm giun đũa 34
Biểu đồ 3.8. Tỷ lệ nhiễm, tái nhiễm giun tóc 35
Biểu đồ 3.9. Tỷ lệ nhiễm, tái nhiễm giun móc 36
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột, đặc biệt là các loại giun đũa, tóc, móc,
kim còn rất phổ biến ở hầu hết các nước đang phát triển. Theo tổ chức Y tế thế
giới, khoảng 1/4 dân số thế giới bị nhiễm giun, tuỳ từng vùng, từng khu vực


tỷ lệ nhiễm có khác nhau, dao động từ 25% đến 95% và phụ thuộc vào
nhiều

yếu tố: địa lý, khí hậu, tập quán vệ sinh, trình độ dân trí, điều kiện kinh
tế [1].

Ở các nước khí hậu nhiệt đới rất thuận tiện cho sự sinh trưởng và phát
triển của

giun truyền qua đất và các nước có nền kinh tế chậm phát triển,
điều kiện vệ

sinh môi trường còn thấp thì tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất cao
hơn.

Việt Nam là nước có nhiều điều kiện thuận lợi cho bệnh giun truyền qua
đất tồn tại và phát triển. Theo điều tra của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng, 95% người Việt Nam mang mầm bệnh giun truyền qua đất, trong đó
một người có thể nhiễm từ 1 - 3 loài giun [2]. Qua điều tra cơ bản, tỷ lệ nhiễm
giun truyền qua đất ở nước ta rất cao, đặc biệt khu vực Miền Bắc có tỷ lệ
nhiễm là 60% đến 70%. Trẻ em là đối tượng dễ bị nhiễm giun đường ruột
nhất. Các loại giun đường ruột phổ biến ở trẻ em là: giun đũa, giun tóc, giun
móc, trong đó có nhiều trẻ bị nhiễm phối hợp hai hoặc cả ba loại giun. Bệnh
giun đường ruột có tác hại trực tiếp đến sức khoẻ con người nhất là trẻ em.
Giun chiếm chất dinh dưỡng, gây thiếu máu, giảm phát triển thể chất, ảnh
hưởng đến phát triển trí tuệ và còn gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như:
tắc ruột do giun, giun chui ống mật Vì vậy nhiễm giun đường ruột là một
trong những vấn đề cần được ưu tiên trong chương trình chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng [1]. Việc phòng các bệnh giun thường gặp nhiều khó khăn do sự
tái nhiễm nhanh và dễ dàng.
Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi, dân số trên một triệu người, có 9
huyện, thành, thị và có 180 xã phường. Nghề nghiệp chính của người dân là
trồng lúa nước và hoa màu. Tập quán canh tác dùng phân tươi để bón lúa và
hoa màu vẫn còn phổ biến. Đời sống kinh tế của người dân còn gặp nhiều khó
khăn, môi trường bị ô nhiễm là điều kiện thuận lợi cho bệnh giun truyền qua
đất lây nhiễm và phát triển. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về bệnh
giun truyền qua đất tại Thái Nguyên, nhưng chưa có đề tài nào áp dụng kỹ
thuật định lượng trứng giun trong phân trẻ nhỏ bằng phương pháp Kato –
Katz và áp dụng cách đánh giá mức độ nhiễm giun truyền qua đất bằng tính
cường độ nhiễm. Để góp phần vào chương trình phòng chống bệnh giun sán
và công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ, chúng tôi tiến hành đề tài này
nhằm mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm và một số yếu tố liên quan đến

nhiễm

giun truyền qua đất ở trẻ em tại hai trường mầm non tỉnh Thái
Nguyên.
2. Đánh giá kết quả tẩy giun chọn lọc bằng thuốc Albendazol.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm sinh học của giun đũa, giun tóc và giun móc
1.1.1. Giun đũa (Ascaris lumbricoides)
Giun đũa (cả giun đực và giun cái) đều sống ký sinh và ăn dưỡng chấp ở
ruột non của người. Giun cái đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoại cảnh. Sau một
thời gian ở ngoại cảnh, nhờ tác dụng của nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng…phôi
phát triển thành ấu trùng, trứng có ấu trùng từ ngoại cảnh lại nhiễm vào người
qua đường tiêu hoá. Vào đến ruột non ấu trùng thoát vỏ, chui qua thành ruột
vào hệ thống tuần hoàn theo tĩnh mạch cửa lên gan, lên tim, lên phổi, chui vào
phế nang, lên khí quản, lên hầu, rồi xuống thực quản, ruột non phát triển
thành giun trưởng thành. Giun trưởng thành sống trong cơ thể người khoảng
12 - 18 tháng.
Trên thế giới có khoảng 1471 triệu người nhiễm giun đũa, đây là nguồn
mầm bệnh khổng lồ, thường xuyên được thải ra môi trường. Tiềm năng sinh
sản của giun cái rất cao khoảng 240000 trứng mỗi ngày, người ta ước tính
hàng ngày môi trường bị ô nhiễm khoảng 10
14
trứng giun đũa. Tuỳ thuộc vào
các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí và các tia tử ngoại của ánh sáng
mà trứng giun đũa có thể tồn tại nhiều năm (6 -9 năm) ở điều kiện thích hợp
hoặc vài giờ ở điều kiện bất lợi. Trứng giun đũa có thể phát triển được từ
12
0
C - 36
0
C nhưng thích hợp nhất là 24

0
C - 25
0
C và độ ẩm trên 80%. Ở điều
kiện này sau 12 - 15 ngày trứng đã phát triển thành trứng có ấu trùng và có
khả năng gây nhiễm. Nhiệt độ 45
0
C ở các hố ủ phân sau 1 - 2 tháng mới diệt
được

trứng giun đũa, ở 60
0
C trong vài giờ mới diệt được trứng giun.
Như vậy, Việt Nam có điều kiện khí hậu, môi trường rất thuận lợi cho sự
phát triển của trứng giun (miền Bắc từ tháng 2 đến tháng 11, miền Nam thì
quanh năm). Theo Hoàng Thị Kim và CS [14] mùa nhiễm giun đũa cao nhất

vào tháng 5 và tháng 9.
Môi trường ngoại cảnh luôn bị ô nhiễm bởi trứng giun đũa. Điều tra của
bộ môn Ký sinh trùng trường Đại học Y khoa Hà Nội cho thấy, xét nghiệm 60
mẫu đất ở nội thành Hà Nội thì 15 mẫu có nhiễm trứng giun đũa, chiếm 25%,
với mật độ 10 - 20 trứng/100g đất; kết quả xét nghiệm 60 mẫu đất ở một số
vùng ngoại thành thấy 26 mẫu có trứng giun đũa, chiếm 43,3%, với mật độ 25
- 35 trứng/100g đất.
Số lượng trứng giun trong các mẫu xét nghiệm phụ thuộc vào tình trạng
vệ sinh, môi trường của từng vùng. Kết quả nghiên cứu của Viện sốt rét KST-
CT trong những năm gần đây ở nhiều khu vực trên miền Bắc thấy số lượng
dao động từ 14 - 127 trứng/100g đất [14].
1.1.2. Giun tóc (Trichuris trichiura)
Giun tóc có vòng đời đơn giản, giun đực và cái ký sinh ở manh tràng, đại

tràng và đôi khi ở ruột thừa. Khi ký sinh giun cắm đầu vào thành ruột để hút
máu, phần đuôi ở ngoài lòng ruột. Giun cái đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoại
cảnh, khi gặp điều kiện thuận lợi trứng sẽ phát triển đến giai đoạn trứng có ấu
trùng lúc đó mới có khả năng lây nhiễm vào người theo đường tiêu hoá. Thời
gian phát triển ở ngoại cảnh trung bình khoảng 2 tuần. Khi người nuốt phải
trứng có ấu trùng vào ruột, ấu trùng thoát vỏ ở ruột non rồi đi dần xuống đại
tràng, manh tràng phát triển thành giun trưởng thành và ký sinh ở đó. Thời
gian từ khi nhiễm phải trứng tới khi giun tóc bắt đầu đẻ trứng khoảng 1 tháng.
Giun sống trong người 5 - 6 năm. Như vậy, giun tóc chỉ có một vật chủ và cần
giai đoạn phát triển trứng ở ngoại cảnh.
Nhiệt độ thích hợp để trứng phát triển thành trứng có ấu trùng gây nhiễm
là 25
0
C - 30
0
C, thời gian phát triển là 17 - 30 ngày. Nếu nhiệt độ quá 50
0
C
phần

lớn trứng sẽ bị hỏng, nhiệt độ trên 30
0
C kéo dài thì trứng sẽ chết sau 1
tháng.
1.1.3. Giun móc(A ncylostoma duoe nale)
- Giun móc trưởng thành sống ký sinh ở tá tràng và có thể ở phần đầu

của
ruột non. Chúng dùng mỏ ngoạm vào niêm mạc ruột để chiếm thức ăn.
Một ngày giun cái đẻ khoảng 3000 trứng, trứng theo phân ra ngoại cảnh, gặp

điều kiện thuận lợi sau 24 giờ trứng nở ra ấu trùng sinh sống và tồn tại trong
đất. Ấu trùng có khả năng di chuyển và xâm nhập qua da vào cơ thể người.
Sau khi chui qua da ấu trùng vào hệ thống tuần hoàn về tim, lên phổi và chui
vào phế nang theo khí quản lên họng, đến thực quản xuống tá tràng, ruột non
phát triển thành giun trưởng thành. Từ khi ấu trùng chui qua da đến giun
trưởng thành mất khoảng từ 5 - 7 tuần. Đặc biệt, trong quá trình chu du trong
cơ thể người ấu trùng giun móc có thể tạm dừng ở tổ chức (giai đoạn ngủ), giai
đoạn này có thể kéo dài tới 8 tháng, thời gian này ấu trùng có khả năng kháng
lại thuốc điều trị giun. Hiện tượng ngủ của ấu trùng cũng có thể xảy ra ở động
vật có vú, cho nên có thể nhiễm ấu trùng giun móc khi ăn thịt động vật ở dạng
chưa nấu chín. Giun trưởng thành có thể sống trong cơ thể người từ 5 - 7 năm.
- Giai đoạn phát triển ở ngoại cảnh rất quan trọng đối với vòng đời của

giun
móc, điều kiện thích hợp để trứng phát triển thành ấu trùng là nhiệt độ từ
25
0
C - 30
0
C, có đủ oxy, độ ẩm.
Do đặc điểm vòng đời sinh học của các loại giun có khác nhau, nên bệnh
lý do chúng gây nên cũng rất đa dạng và phức tạp, ở nhiều cơ quan, tổ chức
khác nhau mà ấu trùng chu du đi qua hoặc tại nơi giun cư trú.
1.2. Tác hại của giun đũa, tóc, móc đối với sức khoẻ và bệnh tật trẻ em
- Phổi là cơ quan hay bị tổn thương nhất do ấu trùng giun đũa (hội chứng
Loeffler) [45] với biểu hiện của một viêm phổi không điển hình. Giun đũa còn
gây tổn thương do kích thích cơ học hoặc tính chất gây độc và dị ứng bởi độc
tố của giun. Thường gặp nhất là tắc ruột, viêm ruột hoại tử, giun chui ống
mật, viêm đường mật, áp xe gan, viêm ruột thừa [32]. Nhưng tác hại chủ
yếu của nó là chiếm chất dinh dưỡng, gây rối loạn hấp thu và chuyển hoá mỡ,

protein, vitamin của ruột. Robert J. E. và CS [50] cho thấy tỷ lệ suy dinh
dưỡng ở nhóm trẻ nhiễm giun đũa là 49%, nhóm trẻ không nhiễm giun là
32%. Theo Thein Hlaing và CS [46], sau khi tẩy giun chiều cao và cân nặng
của trẻ thay đổi có ý nghĩa so với nhóm chứng. Theo Watkins W. E. [47], 6
tháng sau tẩy giun cân nặng trẻ tăng 0,18kg so với nhóm chứng nhưng chiều
cao và vòng cánh tay không thay đổi. Stephenson L.S cho thấy giun đũa gây
rối loạn hấp thu vitamin A, vitamin D, sắt Giun đũa còn gây ảnh hưởng
đến sự phát triển tinh thần của trẻ nhỏ, nhưng vấn đề này chưa được đánh
giá đầy đủ.
- Tác hại chính của giun móc trưởng thành là gây thiếu máu khó hồi phục

do
mất máu, nếu bệnh nhân nhiễm trên 50 con giun móc thì sẽ gây thiếu máu.
Theo Pawlowski Z. X. [43] giun móc hút 0,16 - 0,34ml/con/ngày. Nghiên cứu
của tác giả Trần Minh Hậu [7] thấy tỷ lệ thiếu máu do giun móc rất cao chiếm
80,9%. Giun tóc ký sinh ở manh tràng, cắm sâu phần đầu vào niêm mạc, gây
tổn thương niêm mạc ruột. Khi nhiễm nhẹ không có triệu chứng lâm sàng, khi
nhiễm trên 500 trứng/1gam phân có thể gây rối loạn tiêu hoá như đau bụng,
táo bón [2], [17]. Theo Hutchison S. E. [37], khi nhiễm trên 5000 trứng/1
gam phân thì có triệu chứng lâm sàng, khi nhiễm trên 20000 trứng/1 gam
phân thì có thể gây hội chứng lỵ, giun tóc gây thiếu máu, mỗi ngày giun tóc
hút 0,005ml/con.
1.3. Lịch sử nghiên cứu về nhiễm
GTQĐ
Mặc dù không thấy những vết tích của giun truyền qua đất trong những
tầng địa chất cổ xưa và trong các hoá thạch do cấu tạo của cơ thể giun sán
không bền vững nhưng vẫn có thể khẳng định giun sán là những ký sinh trùng
có lịch sử xuất hiện rất sớm ngay từ khi sơ khai hình thành trái đất và các sinh
vật


trên trái đất [26].
Theo nghiên cứu của Von Oefele, Ebes (Thế kỷ 16 trước công nguyên) đã
nói tới các loài giun sán của người như sán dây, giun đũa, giun kim, giun chỉ.
Các nhà y học Hy Lạp Columelle (thế kỷ thứ nhất) danh y Avicenne (980 -
1037) đã mô tả giun đũa, giun kim, giun móc và sán dây. Ở Việt Nam Hải
Thượng Lãn Ông cũng đề cập tới các bài thuốc điều trị giun truyền qua đất
[26].
Đến thế kỷ 18, những hiểu biết về bệnh giun sán ngày càng trở nên hoàn
chỉnh hơn với các tài liệu khoa học ngày càng phong phú. Năm 1844, E.
Dujardin [26] đã viết lịch sử tự nhiên về giun sán, năm 1879 T.S Cobbold
[26] xuất bản những tài liệu về giun sán ký sinh ở người và động vật.
Ở Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã có những điều tra giun sán
đầu tiên. Đó là công trình của Mathis, Leger, Salamon Nevan và
Maurriquand. Đặc biệt Mathis và Leger (1911) đã điều tra cơ bản khá toàn
diện về các loài giun truyền qua đất ở miền Bắc. Brau (1911) cũng có những
công trình nghiên cứu về tình hình nhiễm giun truyền qua đất ở miền Nam
[25]. Sau đó là những nghiên cứu điều trị các bệnh giun truyền qua đất bằng
thuốc tây y. Năm 1936 Đặng Văn Ngữ [24] đã tiến hành điều tra cơ bản các
loài giun truyền qua đất ký sinh và xác định tình hình nhiễm giun truyền qua
đất nghiêm trọng ở người. Từ năm 1954 đến nay đã có hàng nghìn công trình
nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực về các bệnh giun truyền qua đất như: nghiên
cứu điều tra cơ bản, nghiên cứu về hình thể, đặc điểm sinh học, phân bố dịch
tễ, bệnh học, miễn dịch, phương pháp phòng chống các bệnh giun truyền qua
đất [2]. Trong các bệnh giun truyền qua đất, các loài giun nhiễm từ đất như
giun đũa, giun tóc, giun móc, giun mỏ là những loài giun phổ biến nhất, có tỷ
lệ nhiễm cao trong nhân dân và tác hại đáng kể tới sức khoẻ cộng đồng, tới sự
phát triển kinh tế xã hội [2], [24].
1.4. Tình hình nhiễm GTQĐ
1.4.1. Trên thế giới
Theo Tổ chức y tế thế giới [49], trên thế giới có 900 - 1000 triệu người

nhiễm giun đũa, 500 - 700 triệu người nhiễm giun móc và giun tóc, tình trạng
nhiễm 3 loại giun trên cũng tăng lên đáng kể theo nhịp độ tăng dân số của thế
giới.
Giun đũa phân bố rộng khắp trên thế giới, nhưng không đều, những vùng
có khí hậu nóng ẩm tỷ lệ nhiễm thường cao hơn những vùng có khí hậu mát
lạnh. Những nước nền kinh tế thấp, trình độ văn hoá còn lạc hậu thường có tỷ
lệ nhiễm cao. Vì vậy Schullz [26] gọi bệnh giun đũa là “vấn đề bị quên lãng
của những dân tộc bị quên lãng”.
Các nước Châu Âu, sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình nhiễm giun
đũa cũng rất nghiêm trọng, đặc biệt là trẻ em. Kết quả điều tra ở Italia cho
thấy ở Rofrano tỷ lệ nhiễm là 75%, Naples 40%, Sanmarino 12%. Ở Bồ Đào
Nha tỷ lệ nhiễm là 40% - 80%. Nam Tư tỷ lệ trẻ em nhiễm là 20%. Ở nông
thôn Hà Lan tỷ lệ trẻ em nhiễm là 45%. Cộng hoà liên bang Đức tỷ lệ nhiễm
là 52%. Ở Pháp tỷ lệ nhiễm là 17,8% [38]. Sau chiến tranh điều kiện kinh tế,
văn hoá và xã hội ở các nước Châu Âu phát triển mạnh. Vì vậy đến những
năm 80 của thế kỷ 20 tỷ lệ nhiễm giun đũa ở trẻ em còn rất thấp 2% - 6%.
Châu Á có tỷ lệ nhiễm giun đũa cao nhất, khoảng 70%. Châu Phi có 480
triệu người thì có 155 triệu người nhiễm giun đũa, chiếm tỷ lệ 32,3%. Trong
đó có khoảng 54 triệu trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm giun, chiếm 11,3%. Các
nước Châu Mỹ có tỷ lệ nhiễm khoảng 8%. Tình trạng nhiễm giun đũa ở trẻ
em tại một số nước Đông Nam Á: Thủ đô Kuala Lumpur có tỷ lệ nhiễm
15,5%, ở Sulawesi có tỷ lệ nhiễm 59,8%, Sukaraja có tỷ lệ nhiễm 44%,
Philippin có tỷ lệ nhiễm 70,6%.
Cũng như giun đũa, giun tóc phổ biến khắp nơi trên thế giới, nhất là
những khu vực nóng ẩm. Ở một số nước nhiệt đới tỷ lệ nhiễm giun tóc tới
90%, còn ở các vùng khác tỷ lệ nhiễm từ 30% - 60%. Kể cả vùng ôn đới cũng
có một số nước giun tóc vẫn tồn tại. Nhìn chung tỷ lệ nhiễm cao vẫn ở trẻ em.
Tuỳ từng vùng, tỷ lệ nhiễm có khác nhau, nhưng tỷ lệ khá cao. Ở Jamaicar tỷ
lệ trẻ em nhiễm giun tóc là 38,3%, Guatemala tỷ lệ trẻ em nhiễm giun tóc là
82%, Ở Indonesia có tỷ lệ nhiễm từ 54,9% - 76,0%. Tỷ lệ nhiễm ở trẻ em

Philippin là 85,0%.
Bệnh giun móc cũng gặp ở hầu hết các nước trên thế giới, nhưng chủ yếu
ở các nước nhiệt đới như ở Nam Mỹ, Châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á và một
số nước Châu Âu. Bệnh giun móc phụ thuộc vào khí hậu, thổ nhưỡng, phong
tục tập quán, nghề nghiệp và sự phát triển kinh tế. Ở Châu Âu, những khu
công nghiệp hầm mỏ thường có tỷ lệ nhiễm cao. Tây Ban Nha có tỷ lệ nhiễm
khoảng 34,0%, Italia 40,0%. Các nước khu vực Đông Nam Châu Á, tỷ lệ
nhiễm phụ thuộc vào từng nước, từng khu vực: Thái Lan là 40,56%,
Indonesia năm 1980 là 52% - 80%, đến năm 1993 còn 47,7%, Malaysia năm
1980 [38] là 43% - 51%, đến năm 1992 còn 7,1%, Singapore tỷ lệ nhiễm thấp:
0,3% - 6,1%, Lào năm 1980 giao động từ 2% - 31% và ở Campuchia là 35% -
56% [49].
- Năm 1997 tại Ấn Độ, Awashi. S và CS [44] nghiên cứu 1061 trẻ em từ

1,5
đến 3,5 tuổi thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường ruột là 17,5%, trong đó
giun đũa chiếm 68,1%. Cùng thời điểm trên, Ananthakrian cũng nghiên cứu
tại Ấn Độ [32] thấy tỷ lệ nhiễm GTQĐ ở trẻ em là 5% - 76%; Hadijaja P
nghiên cứu tại Indonesia [36] thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở trẻ em là 60% -
90%, sau khi can thiệp tỷ lệ này giảm còn 40,6%; Tại Kenya, Olsel A và CS
[42] cho thấy 16% trẻ nhiễm giun đũa, 63% nhiễm giun móc và 24% nhiễm
giun tóc; Kightlinger L. K. nghiên cứu tại Madagasca [39] trên 667 trẻ em
thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa là 93%, giun móc 27%, giun tóc 55%.
1.4.2. Ở Việt Nam
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Châu Á, có khí hậu nhiệt đới nóng,
ẩm. Vì vậy có đầy đủ các yếu tố về: khí hậu, thổ nhưỡng cho các bệnh giun
truyền qua đất phát triển. Mặt khác nền kinh tế chưa phát triển, văn hoá xã hội
còn nhiều phong tục tập quán lạc hậu như ăn rau sống, dùng phân tươi trong
canh tác Tất cả các yếu tố trên đã tạo điều kiện cho mầm bệnh giun sán tồn
tại và phát triển, vì vậy tỷ lệ nhiễm GTQĐ ở Việt Nam rất cao.

Hoàng Thị Kim và CS [14] nghiên cứu 500000 người trên cả nước thấy
tỷ lệ nhiễm các loại giun theo từng vùng như sau:
- Nhiễm giun đũa: Miền Bắc có tỷ lệ nhiễm cao, vùng đồng bằng từ

80% -
90%, vùng núi từ 50% - 70%. Miền Trung vùng đồng bằng 70,5%,

miền
núi 38,4%, vùng ven biển là 12,5%, Tây nguyên 10% - 25%. Miền Nam

vùng
đồng bằng có tỷ lệ nhiễm từ 45% - 60%.
- Nhiễm giun tóc: Miền Bắc vùng đồng bằng 58% - 89%, trung du 38% -

41%,
vùng núi 29% - 52%, ven biển 28% - 75%. Miền Trung vùng đồng bằng
27% - 47%, vùng núi 4,2% - 10,6%, ven biển 12,7%, Tây nguyên 1,7%. Miền

Nam: tỷ lệ nhiễm thấp hơn so với cả nước, vùng đồng bằng 0,5% - 1,2%.
- Nhiễm giun móc: Miền Bắc vùng đồng bằng 3% - 60%, trung du 58% -

64%,
vùng núi 61%, ven biển 67%. Miền Trung vùng đồng bằng 36%, vùng

núi
66%, ven biển 69%, Tây nguyên 47%. Miền Nam vùng đồng bằng 52%,

ven
biển 68%.
Theo nghiên cứu của Đỗ Dương Thái và CS [25], tỷ lệ nhiễm giun đũa ở

trẻ 2 - 5 tuổi là 42,8% - 66%. Hoàng Thị Kim và CS [13] nghiên cứu ở trẻ 1 -
4 tuổi vùng đồng bằng tỷ lệ nhiễm giun móc là 1,4%; Trần Minh Hậu và CS
[7] cho thấy, trẻ em dưới 5 tuổi tại Thái Bình tỷ lệ nhiễm giun đũa là 77,4%,
giun tóc 30,1%, giun móc 1,07%; Đỗ Thị Đáng [5] nghiên cứu ở Huyện Kiến
Xương Tỉnh Thái Bình thấy: tỷ lệ nhiễm giun đũa ở trẻ 6 tháng đến 15 tuổi là
87% - 89%, giun tóc 78% - 80% và giun móc 20%.
Nguyễn Võ Hinh và CS [8] nghiên cứu trên 6882 mẫu phân trẻ từ 1 - 14
tuổi tại Thừa Thiên Huế thấy tỷ lệ nhiễm ở trẻ 1 - 5 tuổi giun đũa là 81,8%,
giun tóc 20,9%, giun móc 13,64%.
Đỗ Dương Thái và CS [25] nghiên cứu trên 1472 trẻ em dưới 3 tuổi tại
Hà Nội, trong nội thành thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa là 17,84%, giun tóc 3,22%
ngoại thành tỷ lệ nhiễm giun đũa là 46,49%, giun tóc 3,08%.
Hoàng Tân Dân và CS [3] nghiên cứu tại trường mầm non nội thành Hà
Nội thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa là 8,8% - 10,2%, giun tóc 3,47% - 4,34%,
không có trẻ nào nhiễm giun móc, tỷ lệ nhiễm phối hợp thấp, cường độ nhiễm
nhẹ, không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa các lứa tuổi và giới của trẻ.
Năm 2003 Phạm Trung Kiên [15] nghiên cứu ở trẻ dưới 60 tháng tuổi tại
Kim Bảng Hà Nam cho thấy tỷ lệ nhiễm giun chung là 93,4%, trong đó trẻ em
ở xã Hoàng Tây có tỷ lệ nhiễm giun đũa là 85,3%, giun tóc 69,5% và trẻ ở xã
Văn Xá tỷ lệ nhiễm giun đũa là 79,5%, giun tóc 63,9%.
Tại Thái Nguyên, năm 2004 Bùi Văn Hoan và CS [11] nghiên cứu trên
300 trẻ từ 7 - 10 tuổi tỷ lệ nhiễm giun chung là 86,2% trong đó giun đũa là
83,6%, giun tóc 20,6% và giun móc 3,9%. Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh xét
nghiệm phân tìm trứng giun cho học sinh 6 trường tiểu học tại Võ Nhai thấy:
tỷ lệ nhiễm giun đũa 67,5%, giun tóc 14% và giun móc là 9,5%. Nguyễn Đức
Ngân và CS [19] xét nghiệm phân bằng phương pháp Willis cho 173 người
dân tộc dao xã Hợp Tiến thấy: tỷ lệ nhiễm giun đũa 23,6%, giun tóc 9,8% và
giun móc 35,8%; cũng bằng phương pháp trên tác giả Nguyễn Đức Ngân và
CS [18] nghiên cứu tại 3 nhà trẻ gồm 675 học sinh cho kết quả nhiễm giun
đũa 60 – 80%, giun tóc 10 – 15% và giun móc khoảng 1%. Tại bệnh viện Đa

khoa Trung ương Thái Nguyên Đỗ Thị Liên và CS [16] xét nghiệm cho 4720
bệnh nhân thấy tỷ lệ nhiễm giun chung 92,16% trong đó giun móc chiếm
33,6%. Năm 2005, tại phường Túc Duyên Phạm Thị Hiển và CS [10] nghiên
cứu trên 128 mẫu thấy: tỷ lệ nhiễm giun đũa 27,34%, giun tóc 25,78% và
giun

móc 48,44%.
Tuy nhiên, ở Thái Nguyên hầu hết các tác giả điều tra tỷ lệ nhiễm giun
bằng phương pháp xét nghiệm tập chung trứng (Willis), sử dụng phương pháp
Kato – Katz mới chỉ áp dụng ở học sinh phổ thông và người lớn. Hơn nữa
chưa có tác giả nào áp dụng cách tính cường độ nhiễm để đánh giá mức độ
nhiễm giun.
1.5. Điều trị bệnh
GTQĐ
1.5.1. Nguyên tắc
* Chọn thuốc.
- Thuốc có tác dụng với nhiều loại giun cùng một lúc.
- Tuy nhiên nên chọn loại thuốc đạt yêu cầu sau.
+ Đạt hiệu quả cao.
+ Ít tác dụng phụ: độc với giun, không độc với người.
+ Sử dụng dễ dàng qua đường uống.
+ Dạng thuốc sử dụng đơn giản, tiện lợi, rẻ tiền.
* Việc điều trị cho trẻ phải lựa chọn thuốc thích hợp, đạt hiệu quả cao và

theo
dõi tác dụng phụ chặt chẽ.
* Đối với cộng đồng cần có phác đồ phù hợp, dễ sử dụng, có thể điều trị

hàng
loạt tại cộng đồng và cũng đạt hiệu quả cao.

1.5.2. Các thuốc điều trị bệnh GTQĐ
Hiện nay theo khuyến cáo của tổ chức Y tế thế giới chương trình phòng
chống GTQĐ trên phạm vi rộng, gồm 4 loại thuốc sau : Albendazol,
Mebendazol, Pyrantel pamoat và Levamisol.
Nhưng do Levamisol hiện gặp một số tác dụng phụ trên thần kinh trung
ương gây lú lẫn, hôn mê, có thể tử vong cho nên ở nhiều nước và kể cả Việt
Nam đã không còn sử dụng nữa. 3 loại thuốc hiện nay được sử dụng rộng rãi
là: Albendazol, Mebendazol, Pyrantel pamoat.
* Pyrantel pamoat (Anthel, Antiminth, Ascantrin, Bantel, Cobantrin,

Helmintox, Helmex, Embovin, Nemocid, Pyrantel, Pantrin, Proca )
Thuốc do Austin và cộng sự phát hiện vào năm 1966. Thuốc có hiệu quả
với giun ký sinh ở nhiều loài động vật khác nhau. Sau đó rất nhiều tác giả đã
sử dụng để điều trị các bệnh giun truyền qua đất ở các nước khác nhau. Đến
năm 1973 thuốc có mặt trên thị trường [41].
- Áp dụng lâm sàng.
+ Chỉ định: điều trị giun đũa, giun kim và giun móc, thuốc còn dùng để
điều trị giun tóc nhưng kém hiệu quả hơn 3 giun trên.
+ Liều lượng và cách dùng
. Trẻ em và người lớn liều duy nhất 10mg/kg cơ thể.
. Đối với giun kim nên điều trị lần 2 sau 3 – 4 tuần liều như trên.
. Đối với nhiễm giun móc nặng liều 10mg/kg/ngày x 3 ngày.
+ Chống chỉ định:
. Phụ nữ có thai 3 tháng đầu và trẻ em dưới 2 tuổi.
. Người bệnh cơ, nhược cơ.
. Người bị suy gan.
. Người biết trước phản ứng, dị ứng với thuốc.
. Không nên dùng phối hợp với Piperazin.
- Độc tính và tác dụng phụ:
+ Độc tính : LD 50 với chuột và chó là 2 – 5g/kg.

+ Chưa có báo cáo độc ở liều điều trị, tuy nhiên có vài tác dụng phụ nhẹ,
thoáng qua như: nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, đau bung, tiêu chảy.
*Mebendazol (Anelmin, Nemasole, Noverme, Fugaca, Paltelmin,
Vermox, Toloxin, ).
Mebendazol là dẫn xuất của Benzimidazol được phát hiện vào năm 1971
để điều trị giun kim và giun móc, sau đó là giun đũa và tóc vào năm 1973 bởi
Chavarria A và vào năm 1974 bởi Wolfe M.S, Wershing J.M [48].
- Áp dụng lâm sàng
+ Chỉ định và liều dùng:
. Điều trị giun đũa trẻ em và người lớn liều như nhau.
. Liều duy nhất 500mg hoặc 100mg/ngày x 1 - 3 ngày.
. Điều trị giun kim liều duy nhất 100mg và nhắc lại sau 2 - 4 tuần.
. Điều trị giun tóc và móc nếu nhiễm nhẹ liều duy nhất 500mg, nếu
nhiễm nặng liều 500mg x 3 ngày hoặc liều 100mg/lần x 2 lần/ngày trong 3
ngày. Sau 3 - 4 tuần xét nghiệm phân còn trứng thì điều trị lần 2.
. Điều trị giun móc liều 200mg/lần x 2lần/ngày x 4 ngày.
. Cách dùng: uống sau ăn, không phải ăn kiêng và không phải uống
thuốc

tẩy kèm.
+ Chống chỉ định:
. Phụ nữ có thai 3 tháng đầu.
. Trẻ em dưới 2 tuổi.
- Độc tính và tác dụng phụ:
+ Độc tính : LD 50 với chuột cống, lợn, thỏ > 1280mg/kg và mèo, chó là
640mg/kg.
+ Độc tính bán cấp trên chuột liều 40mg/kg hoặc 10mg/kg x 13 tuần thấy
chuột khoẻ và sống lâu hơn.
+ Trên người do ít bị hấp thu nên ít độc, hiện tại chưa xác định thuốc có
gây ung thư, quái thai hay không? Nhưng trên chuột gây biến dạng xương

sườn và xương đuôi của bào thai. Liều cao có thể gây giảm bạch cầu trung
tính có hồi phục hoặc làm tăng tác dụng của Insulin và các thuốc chữa đái
tháo đường khác. Liều thông thường tác dụng phụ nhẹ, thoáng qua như đau
bụng, đi lỏng, sốt, ngứa, phát ban [6].
* Albendazol (Alben, Alzental, Zentel, Zelbel, Zantol ).
Albendazol là một trong các dẫn xuất của Benzimidazol. Năm 1979
thuốc

được giới thiệu với một loạt phổ rộng đối với điều trị các loại giun sán.
Thuốc

được sử dụng qua đường uống và qua thử nghiệm lâm sàng để điều trị
các loại

giun như: giun đũa, giun tóc, giun móc, giun lươn ngoài ra còn tác
dụng trên cả

kén và nang sán, gần đây được khuyến cáo để điều trị giun chỉ
[35].
- Áp dụng lâm sàng
+ Chỉ định và liều dùng:
. Điều trị các loại giun như: giun đũa, giun tóc, giun móc, giun lươn, giun
kim.
. Đối với người lớn và trẻ em liều duy nhất 400mg cho các loại giun trên

trừ giun lươn.
. Điều trị giun lươn và các loại giun trên nếu nhiễm nặng dùng liều

400mg/ngày x 3 ngày.
. Điều trị sán lá gan nhỏ và sán dây trưởng thành liều 400mg/ngày x 3 ngày.

. Điều trị với kén sán và các tổ chức như ở dưới da, thần kinh , nang sán
dự phòng trước khi phẫu thuật cắt bỏ kén liều 10mg/kg/ngày x 28 ngày liên
tục, lặp lại 3 – 4 lần, mỗi lần cách nhau 2 tuần.
. Cách dùng: Nhai viên thuốc và kèm ít nước, uống sau ăn, không phải ăn

kiêng và không phải uống thuốc tẩy kèm.
+ Chống chỉ định:
. Phụ nữ có thai 3 tháng đầu.
. Theo WHO và UNICEF (2008) [31], không dùng cho trẻ dưới 12 tháng.
. Dị ứng với thuốc.
. Bệnh nhân xơ gan.
. Trẻ mới được tẩy giun trong vòng 6 tháng qua.
- Độc tính và tác dụng phụ:
+ Độc tính cấp đối với chuột cống là > 10.000mg/kg, chuột nhắt

3.000mg/kg, thỏ 500mg/kg và với lợn > 900mg/kg.
+ Độc tính bán cấp và mạn tính với liều 30mg/kg ở chuột, 10mg/kg ở chó

liên tục trong 90 ngày không thấy có thay đổi hoạt động và sinh lý của con vật.
+ Tác dụng gây quái thai : trên cừu là 11mg/kg, trên bò là 25mg/kg, trên
thỏ là 30mg/kg, trên chuột là 10mg/kg, còn trên người thì chưa rõ.
+ Tác dụng phụ ít, nhẹ và thoáng qua như rối loạn thượng vị, tiêu chảy,

đau đầu, buồn nôn, mệt mỏi.
- Chế phẩm
+ Dạng thuốc viên nén hàm lượng 200mg hoặc 400mg.
+ Dạng dung dịch treo100mg/5ml
1.6. Các biện pháp phòng bệnh GTQĐ
Chương trình phòng chống bệnh giun truyền qua đất đã được đề ra từ
những thập niên đầu tiên của thế kỷ XX. Ở các nước phát triển bệnh GTQĐ

hầu như đã được thanh toán. Chương trình phòng chống bệnh giun truyền qua
đất của tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo [49]:
- Điều trị hàng loạt có tác dụng làm giảm nhanh tỷ lệ và cường độ nhiễm

GTQĐ, nhưng nếu không kết hợp với các biện pháp khác thì rất dễ tái nhiễm.
- Vệ sinh môi trường đơn thuần sẽ khống chế được GTQĐ nhưng kết quả

rất
chậm.
- Cần phải phối hợp các biện pháp trong phòng chống GTQĐ: vệ sinh,

môi
trường, điều trị hàng loạt, giáo dục sức khoẻ.
* Điều trị giun
Điều trị giun nhằm mục đích diệt giun trưởng thành từ nguồn bệnh, cần

thực hiện bằng thuốc đặc trị hoặc thuốc có phổ rộng với nhiều loại giun. Tuỳ

×