Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Đặc điểm ngoại hình và khả năng sản xuất của vịt Trời Anas Supercillosa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 53 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA CHĂN NUÔI & NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NGOẠI HÌNH VÀ KHẢ
NĂNG SẢN XUẤT CỦA VỊT TRỜI ANAS
SUPERCILLOSA”
Người thực hiện : HOÀNG MINH ĐỨC
Lớp : CNTY55B
Khoá : 55
Ngành : CHĂN NUÔI THÚ Y
Khoa : CHĂN NUÔI VÀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Người hướng dẫn 1 : ThS. NGÔ THỊ THÙY
Bộ môn : HÓA SINH ĐỘNG VẬT
Người hướng dẫn 2 : ThS. NGUYỄN THỊ THÚY NGHĨA
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VỊT ĐẠI XUYÊN
Hà Nội – 2014
1
MỤC LỤC
2
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu thực hiện đề tài tốt nghiệp, ngoài
sự nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ quý báu
của nhà trường, các thầy cô giáo, Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên,Viện
nghiên cứu nông lâm nghiệp Thành Tây, gia đình và bạn bè.
Tôi xin trân trọng cảm ơn cô hướng dẫn Ths. Nguyễn Thị Thúy Nghĩa,
Nguyễn Văn Duy, Nguyễn Văn Tuấn cùng tập thể đội ngũ kỹ thuật Trung tâm
nghiên cứu vịt Đại Xuyên đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trong quá
trình nghiên cứu, hoàn thành khóa luận.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Đốc, tập thể cán bộ công nhân viên
Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên, Viện nghiên cứu và phát triển nông lâm


nghiệp Thành Tây đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất để tôi nghiên cứu, hoàn
thành khóa luận.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo khoa Chăn nuôi và NTTS
– Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong toàn khóa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn người thân, gia đình và bạn bè đã động viên
khích lệ, giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành khóa luận
này. Tôi xin chân thành cảm ơn những tình cảm cao quý đó!
Hà nội, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Hoàng Minh Đức
3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tỷ lệ nuôi sống của hai dòng vịt TC1 và TC2
Bảng 3.1:Chế độ dinh dưỡng cho vịt nuôi sinh sản
Bảng 3.2: Lịch phòng bệnh và tiêm phòng cho vịt
Bảng 3.3: Đánh giá chỉ số Haugh
Bảng 4.1: Đặc điểm ngoại hình của vịt Trời
Bảng 4.2: Các chỉ tiêu đánh giá đặc điểm ngoại hình
Bảng 4.3: Tỷ lệ nuôi sống ở các tuần tuổi
Bảng 4.4: Khối lượng cơ thể vịt qua các giai đoạn tuổi (n=30)
Bảng 4.5: Tỷ lệ đẻ, năng suất trứng và tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng
Bảng 4.6: Tỷ lệ phôi và kết quả ấp nở
Bảng 4.7: Khảo sát chất lượng trứng ở 38 tuần tuổi
4
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ VÀ HÌNH ẢNH
Biểu đồ 4.1: Biểu diễn tỷ lệ nuôi sống của vịt Trời qua các giai đoạn tuổi
Đồ thị 4.2: Biểu diễn khối lượng vịt Trời qua các tuần tuổi (g/con)
Đồ thị 4.3: Biểu diễn tỷ lệ đẻ của vịt Trời qua các tuần tuổi (%)
Hình 4.1: Vịt Trời một ngày tuổi
Hình 4.2: Vịt Trời 8 tuần tuổi

Hình 4.3: Vịt trời trưởng thành
Hình 4.4: Các dụng cụ khảo sát trứng
Hình 4.5: Trứng vịt Trời
Hình 4.6: Trứng đập ra đo các chỉ tiêu bên trong trứng
Hình 4.7: Chỉ tiêu màu lòngđỏ trứng
5
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Cm Centimeter
ĐVT Đơn vị tính
g Gram
HQSDTA Hiệu quả sử dụng thức ăn
Hu Haugh
Kg Kilogram
mm Minimeter
NST Năng suất trứng
nt Ngày tuổi
TA Thức ăn
TB Trung bình
TC Tiêu chuẩn
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TLD Tỷ lệ đẻ
TLNS Tỷ lệ nuôi sống
TTTA Tiêu tốn thức ăn
NN-PTNN VN Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
6
Phần I
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi gia cầm chiếm vị trí quan trọng thứ hai trong tổng giá trị sản
xuất của ngành chăn nuôi. Số lượng gia cầm tăng trưởng nhanh là do gia cầm

không cần đầu tư cao, quay vòng vốn nhanh và đáp ứng tốt được nhu cầu thị
trường. Ngoài ra, trứng và thịt gia cầm là nguồn cung cấp protein có giá trị dinh
dưỡng. Vì vậy, trong những năm qua số lượng và quy mô chăn nuôi gia cầm
không ngừng tăng cao.Theo ông Nguyễn Đức Trọng (2013): Trong thập kỷ qua,
số vịt của Việt Nam tăng bình quân 7%/năm, sản lượng trên 280.000 tấn thịt
hơi/năm. Trứng đạt trên 2 tỷ quả/năm (trích theo Nguyễn Huấn, 2013).
Vịt trời là một loài động vật hoang dã cũng đang giảm nhanh về sống
lượng do tình trạng săn bắt tận diệt của con người, cũng như biến đổi khí hậu
trên trái đất. Trái đất đang nóng lên, môi trường tự nhiên đang dần bị thu hẹp
cũng vì thế mà không gian sống của các loài vịt trời cũng dần bị thu hẹp, nguồn
thức ăn can kiệt. Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng thịt động vật hoang dã của con
người không ngừng tăng, từ dó mà số lượng vịt trời bay về Việt Nam tránh rét
ngày càng giảm rõ rệt. Nước ta có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về
các giống ngan, vịt nhưng cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu về các
giống vịt trời
Chính vì vậy, để tránh sự biến mất của vịt trời ở Việt Nam, cũng như góp
phần bảo vệ loài vịt trời trên thế giới Viện nghiên cứu và phat triển nông lâm
nghiệp Thành Tây đã thu thập giống vịt trời và được sự hỗ trợ của Trung tâm
nghiên cứu vịt Đại Xuyên chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm bảo tồn nguồn gene quý.
Do đó, việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm ngoại hình và khả năng sản
xuất của vịt trời Anas Supercillosa ” là cần thiết với mục đích theo dõi khả năng
thích nghi, khả năng sản xuất để có cơ sở khoa học cho công tác giống sau này.
7
1.2. MỤC ĐÍCH – Ý NGHĨA
1.2.1. Mục đích
- Mô tả được đặc điểm ngoại hình của vịt trời
- Đánh giá được khả năng sản xuất của vịt trời
1.2.2. Ý nghĩa
- Cung cấp những thông tin về vịt trời Anas Supercillosa ở Việt Nam làm
cở sở cho việc nghiên cứu, giảng dạy sau này.

8
Phần II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC
2.1.1. Đặc điểm di truyền của các tính trạng số lượng
Khi nghiên cứu các tính trạng về tính năng sản xuất của một giống gia
súc, gia cầm trong một điều kiện chăn nuôi cụ thể thực chất là nghiên cứu đặc
điểm di truyền và ảnh hưởng của những tác động xung quanh lên các tính trạng
đó. Phần lớn các tính trạng về năng xuất của vật nuôi như sinh trưởng, sinh sản,
sản xuất trứng, thịt, lông đều là các tính trạng số lượng. Cơ sở di truyền học của
các tính trạng số lượng do các gen nằm trên nhiễm sắc thể quy định.
Tính trạng số lượng còn được gọi là tính trạng đo lường (metvic
character) vì sự nghiên cứu chúng phụ thuộc sự đo lường của mức độ tăng trọng,
kích thước các chiều đo, khối lượng trứng… Tuy nhiên, có những tính trạng mà
giá trị của chúng có được bằng cách đếm như: số lượng trứng đẻ ra trong một
chu kỳ đẻ, số trứng có phôi, số vịt con nở ra trong một năm… Vẫn được coi là
tính trạng số lượng và đây là những tính trạng số lượng đặc biệt.
Giá trị kiểu gen của một tính trạng số lượng do nhiều gen có hiệu ứng nhỏ
(minorgene) cấu tạo thành. Đó là các gen mà hiệu ứng riêng biệt của từng gen
thì rất nhỏ nhưng tập trung lại thì có ảnh hưởng lớn đến tính trạng được nghiên
cứu. Hiện tượng này gọi là hiện tượng đa gen hoặc polygen. Giá trị kiểu gen
được phân theo ba thành phần như sau:
G = A + D + I
Trong đó: G: Giá trị kiểu gen (Genotype value).
A: Giá trị cộng gộp (Additive value).
D: Sai lệch do tác động trội lặn (Dominance deviation).
I: Sai lệch do tương tác giữa các gen (Interaction deviation).
9
- Giá trị cộng gộp hay giá trị giống: là tổng các hiệu ứng của các gen có
trong locus. Giá trị cộng gộp còn được gọi là giá trị giống.

- Sai lệch trội lặn: là sai lệch được sản sinh do tác động qua lại giữa các
gen cùng alen ở trong cùng một locus, đặc biệt là các cặp alen dị hợp tử.
Giá trị đo lường của một tính trạng số lượng trên một cá thể được gọi là
giá trị kiểu hình (phenotype value) của cá thể đó. Các giá trị có liên hệ với kiểu
gen là giá trị kiểu gen (genotype value) và giá trị có liên hệ đến môi trường là
sai lệch môi trường (environmental deviation). Như vậy, có nghĩa là kiểu gen
quy định một giá trị nào đó của cá thể và môi trường gây ra một sự sai lệch với
giá trị kiểu gen theo hướng này hay hướng khác. Quan hệ trên có biểu thị như
sau:
P = G + E
Trong đó: G: Giá trị kiểu gen.
P: Giá trị kiểu hình.
E: Sai lệch mội trường.
Ngoài kiểu gen, môi trường có ảnh hưởng lớn tới tính trạng số lượng và
được chia làm hai loại sai lệch do môi trường là Eg và Es.
- Eg: Sai lệch môi trường chung (general anvironmental deviation) là sai
lệch do các nhân tố môi trường có tính chất thường xuyên và không cục bộ các
cá thể vật trong nhóm vật nuôi.
- Es: Sai lệch môi trường đặc biệt (special anvironmental deviation) là sai
lệch do các nhân tố môi trường có tính chất không thường xuyên và không cục
bộ các cá thể trong nhóm vật nuôi.
Tóm lại, khi một kiểu hình của một cá thể được cấu tạo từ hai locus trở
lên thì giá trị kiểu hình của nó được biểu thị bằng.
P = A + D + I + Eg + Es
Qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng ở cá thể,
ta thấy rằng muốn nâng cao năng suất vật nuôi cần phải:
10
+ Tác động về mặt di truyền (G).
- Tác động vào hiệu ứng cộng gộp (A) bằng cách chọn lọc.
- Tác động vào hiệu ứng trội (D) và át gen (I) bằng phối giống tạp giao.

+ Tác độn về môi trường (E) bằng cách cải thiện điều kiện chăn nuôi như:
thức ăn, thú y, chuồng trại…
Trong chăn nuôi, các giống vật nuôi luôn nhận được từ bố mẹ một số gen
quy định tính trạng số lượng nào đó và được xem như là được nhân từ bố mẹ
một khả năng di truyền; tuy nhiên, khả năng đó có phát huy tốt hay không còn
phụ thuộc rất lớn vào điều kiện của vật nuôi.
Khi quan sát các tính trạng số lượng (cân, đo, đếm…) người ta thường
xác định các tham số sau:
+ Số trung bình của các tính trạng ().
+ Hệ số biến dị (Cv%).
+ Hệ số di truyền các tính trạng (h
2
).
+ Hệ số lặp lại các tính trạng (Rs).
+ Hệ số tương quan các tính trạng (r).
2.1.2.Cơ sở khoa học về đặc điểm ngoại hình của giống vịt
2.1.2.1. Đặc điểm ngoại hình
Màu sắc của lông thủy cầm nói riêng và gia cầm nói chung là đặc điểm
ngoại hình quan trọng để phân biệt giống, dòng. Các giống gia cầm hiện đại có
màu lông đặc trưng, thuần nhất. Các giống gia cầm và thủy cầm hướng thịt
thường có màu lông trắng tuyền hoặc màu sáng; các giống gia cầm hướng trứng
thường có bộ lông sẫm màu hơn gia cầm hướng thịt. Màu sắc độ bóng mượt của
lông liên quan chặt chẽ với tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe và sức sản xuất của
gia cầm.
Hình dáng của vịt để phân biệt tính năng sản xuất chuyên biệt của chúng.
Vịt hướng thịt có hình dáng to, hình chữ nhật, dáng đứng thường gần song song
11
với mặt đất; vịt hướng trứng thường có hình dáng nhỏ, gon, thanh mảnh và dáng
đứng thường tạo với mặt đất một góc gần 90
0

.
2.1.2.2. Sự mọc lông
Tốc độ mọc lông cũng là một trong những đặc tính di truyền liên quan
đến trao đổi chất, sinh trưởng và phát triển của gia cầm. Đây là một chỉ tiêu
phản ánh tính thành thục tính dục. Biến dị di truyền về sự mọc lông cũng phụ
thuộc vào giới tính. Những con trống mọc lông chậm, có 2 nhiễm sắc thể giới
tính và do đó cả 2 yếu tố mọc lông chậm hơn con mái. Trong một dòng mọc
lông nhanh thì những con mái lại mọc lông đều hơn con trống. Điều này lại liên
quan đến hoocmon, vì hoocmon có tác động ngược chiều với gen liên kết giới
tính quy định sự mọc lông nhanh.
Tốc độ mọc lông tương quan chặt chẽ với tốc độ sinh trưởng, cho phép
ta sử dụng tính trạng này trong công tác chọn lọc, chọn phối thích hợp để nâng
cao chất lượng thịt của thủy cầm.
2.1.3.Khả năng sản xuất của thủy cầm
2.1.3.1. Tỷ lệ nuôi sống
Tỷ lệ nuôi sống là một trong những chỉ tiêu đánh giá khả năng thích ứng
của vật nuôi đối với điều kiện ngoại cảnh và nó có ý nghĩa lớn đối với những
giống được chuyển từ vùng này sang vùng khác.
Sức sống của thủy cầm được tính bằng (%) của số con đầu kỳ so với cuối
kỳ trong một khoảng thời gian nhất định. Chọn giống theo sức sống có thể làm
giảm tỷ lệ gây chết. Hệ số di truyền về sức sống của gia cầm nói chung thấp, chỉ
từ 0.05 – 0.1. Chính vì vậy, để cải tiến tính trạng này dùng phương pháp chọn
lọc theo gia đình mới có khả năng mang lại hiệu quả cao qua các thế hệ. Sức
sống của thủy cầm được xác định theo các giai đoạn khác nhau: giai đoạn con,
giai đoạn hậu bị đến trưởng thành và giai đoạn sinh sản đến hết kỳ sử dụng. Đối
với các dòng vịt nói chung và vịt trời nói riêng phản ánh khá đầy đủ khả năng
thích nghi với môi trường sống.
12
Nguyễn Đức Trọng và cộng sự (2012), tỷ lệ nuôi sống của vịt Đại xuyên
TC dòng TC1 và TC2 ở các giai đoạn được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.1: Tỷ lệ nuôi sống của hai dòng vịt TC1 và TC2
Giai đoạn
(Tuần tuổi)
TC1 TC2
Số lượng
(con)
TLNS
(%)
Số lượng
(con)
TLNS
(%)
1 ngày tuổi 250 100 250 100
4 243 97,2 241 96,4
8 241 96,4 240 96,0
16 241 96,4 240 96,0
TB 0 – 16 96,4 96,0
Nguyễn Đức Trọng và cộng sự (2010), tỷ lệ nuôi sống của vịt Cỏ là
98,95%, tỷ lệ nuôi sống của vịt Triết Giang là 94,74%.
2.1.3.2. Khả năng sinh trưởng của thủy cầm
* Khả năng sinh trưởng của thủy cầm
Về mặt sinh học, sinh trưởng được xem như quá trình sinh tổng hợp
Protein nên người ta thường lấy việc tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá quá
trình sinh trưởng. Để đánh giá đặc điểm về khả năng sinh trưởng người ta hay
dùng các chỉ tiêu khối lượng cơ thể, tốc độ sinh trưởng tương đối, tốc độ sinh
trưởng tuyệt đối, tốc độ mọc lông.
- Khối lượng cơ thể
Khối lượng cơ thể là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá quá trình sinh trưởng
của vật nuôi, đây là chỉ tiêu có hệ số di truyền trung bình h
2

= 0,33 – 0,76 và
việc chọn lọc nâng cao khối lượng cơ thể là có hiệu quả (Powell, 1985).
Khối lượng cơ thể phụ thuộc vào loài, giống và dòng, các giống vịt
chuyên thịt có khối lượng cơ thể lớn hơn vịt kiêm dụng và vịt chuyên trứng, vịt
dòng trống có khối lượng lớn hơn vịt dòng mái, kết quả nghiên cứu trên vịt
chuyên thịt MT1, MT2 và MT3 nuôi tại Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên
lúc 7 tuần tuổi vịt dòng trống MT3 con trống có khối lượng 3385,0g/con, con
13
mái có khối lượng 3098,67g/con; khối lượng lúc 8 tuần tuổi vịt dòng mái MT2
con trống có khối lượng 1934,7g/con, con mái có khối lượng 1904,1g/con
(Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cộng sự, 2012).
Tốc độ mọc lông cũng ảnh hưởng đến sinh trưởng, theo K.F. Kushner
(1974) cho rằng tốc độ mọc lông có quan hệ chặt chẽ với tốc độ sinh trưởng,
những alen quy định tốc độ mọc lông nhanh phù hợp với tăng trọng cao.
- Tốc độ sinh trưởng
Tốc độ sinh trưởng của vịt nói chung và vịt trời nói riêng được đánh giá
thông qua các chỉ tiêu: tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của khối lượng tăng lên
trong một khoảng thời gian giữa hai lần khảo sát, đơn vị tính là g/con/ngày, đồ
thị biểu diễn có dạng parabol. Tốc độ sinh trưởng tương đối là tỷ lệ (%) tăng lên
của khối lượng cơ thể ờ một giai đoạn nào đó so với khối lượng cơ thể của nó ở
giai đoạn kế trước, đồ thị biểu diễn có dạng hyperpol, tốc độ sinh trưởng tương
đối ở vịt cao nhất ở tuần đầu tiên, giảm dần ở các tuần tiếp theo.
Nguyễn Ân và cộng sự (1983) cho rằng: tốc độ mọc lông có liên quan
chặt chẽ tới tốc độ sinh trưởng. Tốc độ mọc lông là một tính trạng di truyền có
liên quan đến quá trình trao đổi chất và sinh trưởng, phát triển của vịt. Những
con vịt lớn nhanh thì mọc lông nhanh và ngược lại, những con vịt lớn chậm thì
mọc lông chậm.
Hàm lượng các chất như canxi, photpho… trong chế độ dinh dưỡng cũng
anh hưởng tới tốc độ sinh trưởng của gia cầm.
Các điều kiện môi trường, chế độ chăm sóc cũng có ảnh hưởng lớn tới tốc

độ sinh trưởng của vịt. Mật độ nuôi quá cao, chuồng trại kém thông thoáng,
thiếu oxy kết hợp với quy trình nuôi không hợp lý sẽ làm giảm khả năng tăng
khối lượng gia cầm, tiếu tốn thức ăn cao, tỷ lệ hao hụt lớn thường gây hiện
tượng mổ nhau.
2.1.3.3. Khả năng sinh sản của thủy cầm
14
Khả năng sinh sản của thủy cầm được thể hiện thông qua các tính trạng số
lượng như tuổi đẻ, năng suất trứng, tỷ lệ đẻ, tỷ lệ trứng có phôi và tiêu tốn thức
ăn/10 quả trứng.
* Tuổi đẻ
Sự thành thục về tính là thời điểm các cơ quan sinh dục đã phát triển và
hoàn chỉnh, độ thành thục của con mái được xác định qua tuổi đẻ quả trứng đầu
tiên, tuổi đẻ này được tính toán dựa trên số liệu của từng cá thể vịt, do vậy nó
phản ánh được mức độ biến dị của tính trạng, biết được vịt đẻ sớm hay đẻ muộn.
Đối với đàn không theo dõi cá thể thì tuổi thành thục về tính được tính khi toàn
bộ đàn có tỷ lệ đẻ là 5%, nhược điểm của phương pháp này là không biết được
tuổi đẻ chính xác của từng cá thể.
Tuổi đẻ của vịt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giống, hướng sản xuất,
chế độ dinh dưỡng, phương thức nuôi, thời gian thay thế đàn trong năm… Các
giống vịt hướng trứng có tuổi đẻ sớm hơn các giống vịt hướng thịt, vịt Triết
Giang có tuổi đẻ là 22 – 23 tuần tuổi (Nguyễn Đức Trọng và cộng sự, 2010).
Phương thức nuôi có ảnh hưởng rõ rệt đến tuổi đẻ của vịt, kết quả nuôi vịt
CV. Super M khi nuôi theo 2 phương thức là nuôi khô không có nước bơi lội và
nuôi có nước bơi lội cho thấy: tuổi đẻ của vịt dòng ông và dòng bà ở phương
thức nuôi khô là 178 và 164 ngày, trong khi đó ở phương thức nuôi nước tuổi đẻ
tương ứng là 190 và 169 ngày (Nguyễn Đức Trọng và cộng sự, 2005).
* Năng suất trứng
Năng suất trứng là số lượng trứng đẻ ra của gia cầm trong một khoảng
thời gian nhất định, đây là một trong những chỉ tiêu sản xuất quan trọng nhất của
gia cầm và là một tính trạng số lượng chịu ảnh hưởng lớn của các điều kiện

ngoại cảnh, hệ số di truyền của tính trạng này là thấp.
Năng suất trứng phụ thuộc vào giống, dòng, phương thức chăn nuôi khác
nhau và điều kiện địa lý cũng ảnh hưởng đến năng suất trứng, Hoàng Văn Tiệu
(1993) vịt CV. Super M nuôi công nghiệp tại Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại
15
Xuyên thế hệ xuất phát vịt dòng mái có năng suất trứng đạt 155,5 quả/mái/40
tuần đẻ và vịt dòng trống đạt 141,6 quả/mái/40 tuần đẻ kết quả trên tương đương
với 83,4% so với tiêu chuẩn của giống.
Ngoài ra, năng suất trứng của vịt không những phụ thuộc vào yếu tố
giống, dòng mà còn phụ thuộc vào chính bản thân mỗi cá thể (Dương Xuân
Tuyển, 1998), bên cạnh đó năng suất trứng trong hai tháng đẻ đầu có tương quan
thuận rất chặt chẽ với năng suất trứng của cả chu kỳ (Pingel, 1990), đây là 2 yếu
tố quan trọng giúp cho quá trình chọn lọc đạt hiệu quả cao, tiến bộ di truyền
nhanh về năng suất trứng.
* Khối lượng và cấu tạo trứng vịt
- Khối lượng trứng
Khối lượng trứng là chỉ tiêu quan trọng của trứng giống có liên quan đến
kết quả ấp nở, kết quả ấp nở tốt nhất ở trứng có khối lượng xung quanh giá trị
trung bình của giống, trứng có khối lượng lớn hơn hoặc nhỏ hơn đều cho kết quả
ấp nở thấp hơn. Nguyên nhân của hiện tượng trên là do sự mất cân đối giữa các
thành phần của trứng, trứng quá to hoặc quá nhỏ đã làm cản trở sự phát triển của
phôi, thường thì trứng nhỏ có tỷ lệ lòng đỏ cao và tỷ lệ lòng trắng thấp hơn so
với trứng to, ngoài ra trứng nhỏ còn có diện tích bề mặt so với khối lượng lớn
hơn trứng có khối lượng lớn từ đó ảnh hưởng đến sự bốc hơi nước trong quá
trình bảo quản và ấp. Khối lượng trứng là tính trạng số lượng chịu ảnh hưởng
của một số lượng lớn các gen, là tính trạng có hệ số di truyền cao h
2
= 0,4 – 0,6
(Pingel, 1999), nên có thể cải tiến tính trạng này một cách nhanh chóng thông
qua chọn lọc (Kushner, 1974; Pingel, 1999).

- Cấu tạo trứng
Trứng gia cầm thường có hình oval hoặc hình e-lip: một đầu lớn và một
đầu nhỏ. Hình dạng trứng thường mang đặc điểm của từng cá thể. Chỉ số hình
thái của trứng có ý nghĩa kinh tế trong vận chuyển, đóng gói và liên quan đến tỉ
16
lệ ấp nở của trứng gia cầm. Những trứng quá dài hoặc quá tròn đều cho tỉ lệ ấp
nở kém Đối với quả trứng đẻ đầu tiên chiều dài dài hơn quả trứng đẻ sau.
Giống thuần, điều kiện dinh dưỡng càng tốt thì hình dạng trứng của chúng
đều nhau, còn nếu ngược lại thì trứng có nhiều hình dạng. Cũng theo ông chỉ số
hình dạng có ý nghĩa nhất định đến sự phát triển phôi vì nó ảnh hưởng đến vị trí
đĩa phôi khi ấp và vị trí này ảnh hưởng đến quá trình nở của gia cầm.
Chất lượng vỏ trứng được thể hiện bằng độ bền và độ dày của vỏ trứng.
Chất lượng vỏ trứng có ý nghĩa quan trọng đối với việc vận chuyển và quá trình
ấp trứng. Ngoài ra, độ dày vỏ trứng còn chịu tác động của môi trường như: Thức
ăn, tuổi, nhiệt độ môi trường, stress và nhiều yếu tố khác.
Các chỉ tiêu bên trong trứng bao gồm chỉ số lòng trắng, chỉ số lòng đỏ,
đơn vị Haugh. Chỉ số lòng trắng là tỷ lệ giữa chiều cao lòng trắng đặc so với
trung bình cộng của chiều rộng và chiều dài lòng trắng đặc, chỉ số lòng đỏ là tỷ
lệ giữa chiều cao lòng đỏ so với đường kính lòng đỏ, đơn vị Haugh được xác
định dựa trên chiều cao lòng trắng đặc và khối lượng trứng. Chỉ số lòng trắng,
chỉ số lòng đỏ, đơn vị Haugh càng cao thì chất lượng trứng càng tốt, chỉ số lòng
đỏ thường dao dộng trong khoảng 0,4 – 0,5, chỉ số lòng trắng và chỉ số lòng đỏ
tương quan với khối lượng trứng, hệ số tương quan kiểu hình tương ứng là r
G
= –0,43 và r
G
= 0,3 (Awang, 1987).
* Khả năng ấp nở của trứng vịt
Khả năng ấp nở của trứng vịt được đánh giá thông qua các chỉ tiêu: tỷ lệ
trứng có phôi, tỷ lệ nở/trứng có phôi, tỷ lệ nở/tổng số trứng vào ấp và tỷ lệ vịt

loại 1.
- Tỷ lệ trứng có phôi
Tỷ lệ trứng có phôi ảnh hưởng trực tiếp tới số con nở ra trong quá trình
sinh sản của một con vịt mái, chỉ tiêu này đánh khả năng kết hợp tinh trùng của
vịt trống và bao noãn của vịt mái, đây là chỉ tiêu có hệ số di truyền thấp h
2
=
0,17 (Stasko, 1968) và nó phụ thuộc nhiều vào các yếu tố ngoại cảnh tác động,
17
tỷ lệ trứng có phôi phụ thuộc vào tỷ lệ trống mái đàn, khả năng cho phôi của
từng cá thể vịt trống, khoảng thời gian thụ tinh của tinh trùng sau một lần giao
phối và thời điểm giao phối.
Tỷ lệ trứng có phôi phụ thuộc vào tỷ lệ ghép trống mái trong đàn, theo kết
quả nghiên cứu của Aggarwal và Dipankar (1986) trên vịt Bắc Kinh, khi ghép tỷ
lệ trống mái là 1/5 đến 1/10 thì tỷ lệ trứng có phôi là 81 – 91%, nhưng nếu ghép
tỷ lệ trống mái lên đến 1/15 thì tỷ lệ trứng có phôi chỉ đạt 72 – 80%.
Đặc điểm vịt đẻ tập trung vào khoảng từ 3 – 5 giờ sáng do vậy thời gian
giao phối trong ngày có ảnh hưởng đến tỷ lệ trứng có phôi của vịt, Davtyan
(1986) cho biết ở vịt Bắc Kinh nếu giao phối trong khoảng thời gian 2 giờ đồng
hồ trước khi đẻ thì tỷ lệ trứng có phôi chỉ đạt 52,9% nhưng nếu giao phối vào
thời điểm khác trong ngày thì tỷ lệ trứng có phôi đạt tới 82,6 – 96%.
- Chỉ tiêu ấp nở
Chỉ tiêu ấp nở nói chung bao gồm tỷ lệ nở/trứng có phôi, tỷ lệ nở/tổng số
trứng vào ấp và tỷ lệ vịt con loại 1. Tỷ lệ ấp nở là một chỉ tiêu có hệ số di truyền
thấp, ở vịt Bắc Kinh hệ số di truyền h
2
= 0,15 (Pingel, 1990). Chỉ tiêu ấp nở phụ
thuộc chủ yếu vào các yếu tố ngoại cảnh như: điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng,
các yếu tố trong quá trình ấp nở (nhiệt độ, độ ẩm, làm mát), thời gian bảo quản
trứng, vị trí xếp trứng trong khay và trong máy ấp.

Theo Shen (1985), khi bổ sung vitamin A và vitamin E vào thức ăn cho
vịt có ảnh hưởng đến tỷ lệ ấp nở, với vitamin A bổ sung vào thức ăn ở 3 mức
2200UI/kg thức ăn, 12200UI/kg thức ăn và 22200UI/kg thức ăn thì tỷ lệ ấp nở
tương ứng với 3 mức bổ sung vitamin A là 34,5%; 86,7% và 83,9%. Khẩu phần
bổ sung vitamin E không làm ảnh hưởng đến năng suất trưng nhưng có ảnh
hưởng đến chất lượng vỏ trứng và tỷ lệ ấp nở.
Xông sát trùng trứng và thời gian bảo quản trứng có ảnh hưởng tới tỷ lệ
ấp nở của trứng vịt, kết quả nghiên cứu vịt CV-Super M dòng ông và dòng bà
cho thấy: vệ sinh trứng bằng xông formone và thuốc tím trước khi bảo quản đã
18
làm tăng tỷ lệ nở so với trưng không được xông sát trùng. Khi bảo quản trứng
trong thời gian 4 ngày ở những trứng xông sát trùng tỷ lệ nở cao hơn 1,97% so
với trứng không được xông sát trùng, tương tự trứng bảo quan trong thời gian 7
ngày ở những trứng được xông sát trùng có tỷ lệ nở cao hơn 2,96% và có sự sai
khác (P < 0,05). Bảo quản trứng bằng kho lạnh trong thời gian 4 ngày tỷ lệ
nở/phôi của trứng đạt 89,01% và nếu bao quản trong thời gian 7 ngày tỷ lệ này
là 87,38% (Nguyễn Đức Trọng, 1998).
2.1.3.4. Tiêu tốn thức ăn/đơn vị sản phẩm
Tiêu tốn thức ăn/đơn vị sản phẩm là một chỉ tiêu hết sức quan trong chăn
nuôi, vì chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ tới hiệu quả kinh tế trong chăng nuôi
nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng…Trong chọn giống người ta thường
chọn lọc theo hướng có khả năng lợi dụng thức ăn tốt nhất nhằm hạ giá thành
sản phẩm. Vì khả năng lợi dụng thức ăn tốt sẽ cho sản phẩm cao do đó tiêu tốn
thức ăn/đơn vị sản phẩm sẽ giảm xuống, hơn nữa thức ăn trong chăn nuôi nói
chung chiếm phần lớn giá thành (70 – 75%) sản phẩm đó, nếu làm giảm được
chi phí thức ăn cho một đơn vị sản phẩm thì hiệu quả chăn nuôi càng tăng cao,
lợi ích từ chăn nuôi sẽ rất lớn.
Đối với gia vịt sinh sản, hiệu quả sử dụng thức ăn được tính bằng tiêu tốn
thức ăn/10 quả trứng. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã tính tiêu tốn thức ăn
từ khi gia cầm mới nở cho đến khi gia cầm kết thúc 1 năm đẻ. Tiêu tốn thức ăn

là chỉ tiểu quan trọng do đó nó chịu ảnh hưởng của rât nhiều yếu tố mà trước hết
phải kể đến là giống, dòng, tính biệt, phương thức chăn nuôi, chế độ chăm sóc
Đối với vịt nuôi thương phẩm lấy thịt thì hiệu quả sử dụng thức ăn được
tính bằng tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng. Vịt từ 1 – 4 tuần tuổi có lượng
tiêu tốn thức ăn thấp, tốc độ sinh trưởng nhanh càng về sau tiêu tốn thức ăn càng
cao.
Một số nghiên cứu về tiêu tốn thức ăn của gia cầm :
19
- Phạm Văn Trượng và cộng sự (1995), tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng của vịt Anh Đào – Hungari nuôi từ 1 – 60 ngày tuổi ở các thế hệ 1, 2, 3
tương đương như sau: 4,2kg thức ăn; 3,65kg thức ăn; 3,7 kg thức ăn.
- Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cộng sự (2012), tiêu tốn thức ăn/10 quả
trứng của vịt chuyên thịt dòng MT1, MT2 và MT3 tương đương như sau: 4,21kg
thức ăn; 3,9kg thức ăn; 4,19kg thức ăn.
- Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cộng sự (2012), tiêu tốn thức ăn/10 quả
trứng của vịt Bầu Bến và vịt Đốm tương đương như sau: 4,53kg thức ăn; 4,76kg
thức ăn.
2.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
2.2.1.Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Bảo tồn nguồn gene các loài động vật nói chung và các loài vật nuôi nói
riêng là một vấn đề cấp bách có tính chất toàn cầu. Sự cần thiết để bảo tồn
nguồn gene động vật đã được chấp nhận bởi nhiều nước qua việc phê chuẩn về
công ước đa dạng sinh học.
Cùng với những tiến bộ nhanh chóng về di truyền – giống, ngành chăn
nuôi gia cầm đã có những bước tiến vượt bậc và đã đạt được những thành tựu
lớn trong quá trình nghiên cứu chọn lọc tạo dòng, giống mới. Các nhà nghiên
cứu về di truyền – giống đã tập trung vào chọn lọc, thúc đẩy nhanh các tiến bộ
di truyền qua từng thế hệ, từ đó tạo ra được ưu thế lai ở các tính trạng số lượng.
Năm 2003, tổng đàn gà trên thế giới là 45.986 triệu con, sản lượng thịt đạt
65.016 triệu tấn.

Sản phẩm từ chăn nuôi vịt đã phục vụ rất nhiều cho các nước đặc biệt là
các nước đang phát triển, kết quả nghiên cứu trên vịt Bắc Kinh cho thấy tỷ lệ
phôi đạt 90%, tỷ lệ nở/trứng có phôi là 59,26% và tỷ lệ nở/tổng trứng vào ấp là
53,3% khối lượng cơ thể của vịt nuôi thương phẩm ở 7 tuần tuổi của vịt mái là
1616,7g/con và vịt đực là 1701,7g/con (Gonzalez và Marta, 1980).
20
Cùng với công tác chọn lọc, nhân thuần các giống thuỷ cầm thì công tác
lai tạo cũng là phương pháp để có được hiệu quả cao và nhanh, lai tạo nhằm
mục đích lay động tính bảo thủ sẵn có trong từng cá thể, từng dòng, từng giống,
phát huy những bản chất di truyền tốt của chúng. Ngoài ra, lai tạo còn làm biến
đổi sự tồn tại của những cái khác nhau nằm trong cấu trúc tế bào gọi là biến đổi
nội tại, trong một cá thể gọi là biến đổi cá thể, trong một quần thể gọi là biến đổi
nhóm. Đồng thời biến đổi lại chịu ảnh hưởng khác nhau của ngoại cảnh, từ đó
lai tạo sẽ tạo nên những tổ hợp lai có năng suất cao, chất lượng tốt và nâng cao
hiệu quả chăn nuôi.
Tại Indonesia người dân địa phương đã tiến hành cho vịt đực Alabio ghép
với mái ngan tạo con lai có chất lượng thịt cao, người dân gọi con lai là vịt Kisar
hoặc vịt Tiktok, họ cũng tiến hành công thức ngược lại cho ngan đực ghép với
vịt mái để tạo con lai ngan vịt gọi là vịt Kisar và là một sản phẩm nổi tiếng trong
các siêu thị (SPFS Indonesia, 2005).
Guemene và Guy (2004) đã tổng kết năng suất gan béo của con lai ngan
vịt đạt được qua các năm cho thấy: số lượng con lai ngan vịt nuôi nhồi đã tăng
từ 173 đơn vị (năm 1991) lên 618 đơn vị (năm 2002), thời gian nhồi giảm từ
15,8 ngày năm 1991 xuống còn 13,4 ngày năm 2002, tương ứng với đó thì số
lượng ngô dùng cho nhồi cũng giảm từ 12,3kg xuống còn 10,5kg. Nhưng khối
lượng gan béo thì lại tăng từ 516g/cái năm 1991 lên 549g/cái năm 2002 và khối
lượng thịt đùi và thịt lườn cũng tăng từ 2,3kg lên 2,5kg.
2.2.2.Tình hình nghiên cứu trong nước
Chăn nuôi vịt là một nghề truyền thống có từ lâu đời của người dân Việt
Nam và ngày càng phát triển. Để có được những kết quả này phải kể đến những

tiến bộ về thức ăn, quản lý, thú y… và đặc biệt là công tác giống, trong đó có
công tác nuôi thích nghi các giống nhập từ nước ngoài về, công tác chọn lọc và
công tác lai tạo giữa các giống với nhau. Theo Cục Chăn nuôi, năm 2012 đàn
thuỷ cầm của cả nước là 84,71 triệu con.
21
Hiện Bộ NN-PTNT VN đang quản lý các đàn giống gốc dòng thuần và
ông bà nuôi tại 3 cơ sở là: Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên, Phân viện
Chăn nuôi Nam bộ, Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương (Viện Chăn
nuôi). Trước những thuận lợi, khó khăn và thách thức, ông Trọng cho biết ngành
thủy cầm đặt mục tiêu tăng trưởng về số lượng đàn 1 – 1,5%/năm. Tăng tỷ trọng
chăn nuôi trang trại và công nghiệp lên 50% năm 2015 và 65% năm 2020. Tăng
sản lượng thịt 8 – 10%/năm. Đưa tỷ trọng thịt xẻ gia cầm lên 32% vào năm
2020. Bên cạnh đó, tỷ trọng thịt được giết mổ, chế biến công nghiệp 24 – 25%
năm 2015 và 35 – 37% năm 2020, sản lượng trứng tăng 10 – 12%/năm. Khuyến
khích phát triển những giống mà VN có lợi thế so sánh so với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng quy mô đàn gia
cầm, so với các loại vật nuôi khác. Khuyến khích phát triển vịt nuôi nhốt, bán
chăn thả và chăn thả có kiểm soát.
Kết quả nghiên cứu đặc điểm ngoại hình và khả năng sản xuất của vịt lai
TsN x Cỏ tại Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên, khối lượng vào để của các
con lai CTs, TsC, TsN, Cỏ tương ứng là: 1215,80g/con, 1211,10g/con,
1126,90g/con, 1241,46g/con; năng suất trứng tương ứng là: 5,01 quả/mái/tuần,
5,14 quả/mái/tuần, 4,63 quả/mái/tuần, 4,92 quả/mái/tuần, ở tuần thứ 6 (Nguyễn
Thị Phượng, 2013).
Kết quả chọn lọc ổn định năng suất hai dòng vịt CV. Super M dòng T5 và
T6 nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên có phương sai khối lượng cơ
thể là: SD = 83,25 – 97,49g sau khi chọn lọc, hệ số di truyền về khối lượng cơ
thể h
2
= 0,22 – 0,25 ở dòng trống T5. Dòng mái T6 có hệ số di truyền về năng

suất trứng h
2
= 0,341 – 0,343, năng suất trứng của vịt đạt 224,42 –
230,18quả/mái/42 tuần đẻ, sản phẩm của vịt xuất phát từ hai dòng T5 và T6
được chuyển giao tới 25 tỉnh thành trong cả nước (Nguyễn Đức Trọng và cộng
sự, 2009).
22
2.2.3. Một số hiểu biết về vịt trời
Vịt trời đen Thái Bình Dương là loài vịt trời thuộc gia đình Anatidae chi
Anas và loài supercillosa. Loài này thường được biết đến với tên vịt xám hoặc
Parera. Trong tự nhiên chúng được tìm thấy nhiều ờ Indonesia, New Guinea, Úc,
New Zealand và nhiều hòn đảo phía tây nam Thái Bình Dương. Loài vịt này
thường sống trong môi trường là những vùng ngập nước.
Anas supercillosa có khối lượng tương đối nhỏ so với một số giống vịt
nuôi hiện nay, khối lượng con trống 760 – 1300g, khối lượng con mái 650 –
1200g, chúng có khối lượng tương đương với một số giống vịt siêu trứng như vịt
Triết Giang. Kích thước trung bình từ 48 – 60cm, với đầu và cô mảnh mai, con
trống thì lớn hơn con mái. Với kích thước và khối lượng như vậy nên loài này có
khả năng di chuyển rất linh hoạt và có khả năng bay rất xa, đặc biệt trong mùa di
cư chúng có thể bay hàng nghìn kilometer đi tránh rét.
Anas Supercillosa được bao phủ bởi một bộ lông đen, đầu có màu vàng
nhạt.Mặt dưới cánh hoàn toàn là màu trắng và mặt trên có một phần màu xanh
lục óng ánh (ở con trống). Mỏ vịt có màu tím hoặc màu xanh ngọc lam. Chân và
bàn chân có màu nâu hơi xanh nhưng chân của những giống lai lại có xu hướng
là màu da cam.
Thức ăn của vịt trời đen Thái Bình Dương là những loài thủy hải sản
không xương sống, côn trùng, lá và hạt cây thủy sinh, sâu bướm hoặc các loài
sâu trên đông cỏ.
Mùa sinh sản của chúng từ tháng chín đến tháng mười hai (ở Nam bán
cầu), chúng thường làm tổ trên mặt đất hoặc trên các đồng cỏ.Trong điều kiện tự

nhiên, số lượng vịt con được sinh ra mỗi năm khá lớn nhưng 95% số lượng vịt
chết đi trong ba năm đầu tiên. Đó là kết quả của các mối đe dọa từ cả thiên nhiên
và con người đối với loài vịt trời đen Thái Bình Dương. Tình hình săn bắt trái
phép đã làm số lượng vịt trời đen Thái Bình Dương giảm đi nhanh tróng.
23
Ngoài giống vịt trời Anas Supercillosa là giống vịt thường xuyên xuất
hiện ở Việt Nam thì trên thế giới vẫn còn rất nhiều loài vịt trời khác cũng đang
có nguy cơ tuyệt chủng như: Anas platyrhynchos hay còn gọi là vịt trời cổ xanh,
nơi tập trung số lượng vịt trời này ở các vũng ôn đới và cận nhiệt đới tại bắc Mỹ,
châu Á, New Zealand; Anas carolinensis hay còn gọi là vịt trời cánh xanh, phân
bố rộng rãi ở bắc Mỹ trừ quần đảo Aleutia; Anas poecilorhyncha hay còn gọi là
vịt mỏ đốm, phân bố chủ yếu ở vùng cận nhiệt đới, New Zealand. Và còn rất
nhiều loài vịt trời khác nhưng do giới hạn của nghiên cứu chưa thể đề cập hết
trong báo cáo.
24
Phần III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Vịt Trời Anas Supercillosa: 65 mái và 35 đực từ 1 đến 48 tuần tuổi
3.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ ngày 2/2014 – 7/ 2014
- Địa điểm: Viện nghiên cứu và phát triển nông lâm nghiệp Thành Tây.
3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng của vịt trời
- Đặc điểm ngoại hình.
- Xác định tỷ lệ nuôi sống qua các giai đoạn.
- Khối lượng cơ thể vịt trời qua các giai đoạn.
Chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của vịt trời

- Tỷ lệ đẻ trứng, năng suất trứng.
- Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng.
- Tỷ lệ ấp phôi và kết quả ấp nở.
Chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng
- Khảo sát các chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng ở 38 tuần tuổi.
3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
* Phương pháp thu thập số liệu: Vịt xuống chuồng từ tháng 8/2013 nên từ giai
đoạn vịt con đến giai đoạn vịt 20 tuần tuổi số liệu thu thập từ sổ sách của cán bộ
kỹ thuật trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên.
* Phương pháp bố trí thí nghiệm:
- Xuống chuồng 100 con vịt trời 1 ngày tuổi gồm 65 vịt mái và 35 vịt đực, nuôi
dưỡng từ lúc vịt con đến hết giai đoạn hậu bị (hết 22 tuần tuổi).
- Kết thúc giai đoạn hậu bị tiến hành chọn vịt đực và vịt mái:
25

×