Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN dạy tốt môn toán lớp 3 theo hướng đổi mới phương pháp dạy học hướng tập trung vào học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.29 KB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG TIỂU HỌC …………

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MÔN TOÁN LỚP 3
“DẠY TỐT MÔN TOÁN LỚP 3 THEO HƯỚNG
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
HƯỚNG TẬP TRUNG VÀO HỌC SINH”
Người viết: ………………….
Đơn vị công tác: Trường tiểu học …………
1
SKKN: DẠY TỐT MÔN TOÁN LỚP 3 THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC HƯỚNG TẬP TRUNG VÀO HỌC SINH
PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ, trên khắp
đất nước, đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực,
chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời sống xã
hội luôn luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường phải
điều chỉnh một cách học thích hợp dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung, phương
pháp dạy học ở tiểu học nói chung và môn toán lớp 3 nói riêng.
Việc dạy học toán ở tiểu học được phân chia thành 2 giai đoạn : Giai đoạn
các lớp 1,2,3 và giai đoạn các lớp 4,5. Toán 3 bổ sung, hoàn thiện các kiến thức và
kĩ năng cơ bản của môn toán ở giai đoạn các lớp 1,2,3, chuẩn bị cho việc dạy học
toán với mức phát triển tiếp theo ở giai đoạn các lớp 4,5. Đặc biệt là phát triển các
năng lực tư duy và thực hành cho HS.
Toán 3 thuộc giai đoạn các lớp 1,2,3 nên có đầy đủ đặc điểm của toán 1 – 2.
Do đó kế thừa được kết quả đổi mới phương pháp dạy học của toán 1 và toán 2. Vì
vậy dạy học toán 3 cũng đòi hỏi GV phải có nhiều cố gắng để đóng góp vào việc
xác lập, khẳng định tính hợp lí khả thi của những đổi mới trong dạy học toán theo
chương trình và sách giáo khoa mới.


Đổi mới phương pháp dạy học là sự kết hợp nhuần nhuyễn sáng tạo giữa
kinh nghiệm GV với những yếu tố mới của phương pháp dạy học hiện đại.
Mỗi phương pháp dạy học dù hiện đại, tiên tiến đến đâu cũng không phải
phù hợp cho tất cả tất cả các bài học.
Từ vị trí và tầm quan trọng của dạy học toán 3, qua nghiên cứu tài liệu, sách
giáo khoa, sách giáo viên và thực tế giảng dạy các năm qua nên tôi mạnh dạn chọn
đề tài “Dạy tốt môn toán lớp 3 theo hướng đổi mới phương pháp dạy học hướng
tập trung vào học sinh”.
2
II. Mục đích nghiên cứu

III. Kết quả cần đạt

IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

PHẦN 2 - NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nghiên cứu
1 – Nhược điểm của lối dạy học cũ:
Đặc điểm của lối dạy học cũ là có sự mất cân đối rõ rệt giữa dạy học của
GV và hoạt động của HS trong đó:
- GV thường xuyên truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong
sách giáo khoa, sách GV, vì vậy HS thường làm việc một cách máy móc và ít quan
tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của HS.
- HS học tập một cách thụ động chủ yếu nghe thầy giảng, ghi nhớ rồi làm bài
theo mẩu. Do đó HS ít hứng thú học tập, nội dung các hoạt động học tập thường
nghèo nàn, đơn điệu, các năng lực vốn có của cá nhân các em ít có cơ hội phát
triển.
- GV là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của các em. HS ít
khi tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Tiêu chuẩn đánh giá học sinh là kết quả
ghi nhớ, tái hiện lại những điều đã giảng.

- Cách dạy học như vậy đang cản trở việc đào tạo những người lao động
năng động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo. Do đó chúng ta phải cố gắng đổi mới phương
pháp dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục.
2 – Định hướng đổi mới phương pháp dạy học toán 3 :
3
Đổi mới phương pháp dạy học toán 3 cần được hiểu là đưa các phương pháp
toán mới vào lớp 3 trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các phương pháp truyền
thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo dục,
nghĩa là không phải chỉ nhấn mạnh đến một vài phương pháp mới, mà vẫn phải kế
thừa các phương pháp dạy học truyền thống.
Để đảm bảo thành công việc đổi mới phương pháp dạy học toán 3 cần phải
lựa chọn được những giải pháp có tính khả thi cao. Có 5 giải pháp sau rất phù hợp
với nhiều trường TH :
- Đổi mới nhận thức, trong đó cần trân trọng khả năng chủ động, sáng tạo
của GV và HS tiểu học.
- Đổi mới các hình thức dạy học, nên khuyến khích dạy học cá nhân, dạy học
theo nhóm, theo lớp, dạy học ở hiện trường, tăng cường trò chơi học tập.
- Đổi mới cách trang trí, sắp xếp phòng học để tạo ra môi trường học thích
hợp.
- Đổi mới phương tiện dạy học, khuyến khích dùng các loại phiếu học tập, đồ
dùng học tập, phương tiện kĩ thuật.
- Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá.
Bên cạnh đó GV cũng cần tiến hành dạy học theo quan điểm “Lấy HS làm
trung tâm”. Là quá trình GV tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập nhằm:
* Phát huy mọi khả năng của HS để tìm tòi, khám phá ra những nội dung
mới của bài học.
* Giúp các em phát hiện ra tình huống có vấn đề và lập kế hoạch hợp lí để
giải quyết tình huống các vấn đề đó.
* Phát huy năng lực sở trường của mọi HS tạo cho HS có niềm tin.
* GV không đóng vai trò người truyền thụ kiến thức mà trở thành người tổ

chức, điều khiển quá trình dạy học để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh
tri thức.
4
* Trong việc đánh giá kết quả học tập của HS, ý kiến của GV là quan trọng,
song GV không phải là người duy nhất đánh giá kết quả học tập của HS màcòn tạo
điều kiện để các em tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. GV tôn trọng năng lực, cá
tính của từng HS, không áp đặt ý kiến của mình.
Từ định hướng đổi mới trên, khi giảng dạy toán GV có thể áp dụng các
phương pháp dạy học mới vào toán 3 như sau:
3- Các phương pháp dạy học mới :
Bao gồm các phương pháp sau :
- Phương pháp trực quan: “Trò làm, thầy xem”.
- Dạy học bằng phiếu giao việc.
- Dạy HS theo hướng khuyến khích HS tự phát hiện.
- Dạy học theo nhóm.
- Dạy học phân hoá theo năng lực của từng học sinh.
- Dạy học ngoài hiện trường.
- Tổ chức trò chơi toán học.
3.1/ Phương pháp trực quan “Trò làm, thầy xem”:
Đặc điểm của phương pháp trực quan cũ là chỉ có GV thao tác trên đồ dùng
trực quan còn HS chỉ chăm chú quan sát mà thôi. GV không kiểm soát được hoạt
động, suy nghĩ của HS.
Trong phương pháp trực quan “Kiểu mới” thì HS phải cùng làm việc trên
trực quan với GV; để GV quan sát, điều chỉnh, nhắc nhở (nếu cần thiết).
Ví dụ : Khi dạy lí thuyết (1) của tiết “Diện tích 1 hình” (SGK trang 151)
- Nếu dùng lối trực quan cũ, GV đặt 1 miếng bìa trắng hình chữ nhật vào
trong 1 miếng bìa đỏ hình tròn (như SGK) cho HS quan sát rồi nêu “Hình chữ nhật
nằm hoàn toàn trong hình tròn. Ta nói : Diện tích hình chữ nhật bé hơn diện tích
hình tròn”.
- Nếu dùng lối trực quan mới GV làm như sau: Yêu cầu mỗi HS lấy ra 1 êke

và 1 tấm bảng con, đặt êke nằm trọn trên mặt bảng con. GV nêu êke nằm hoàn toàn
5
trên bảng con. Ta nói diện tích chiếc êke bé hơn diện tích bảng con hay “ Diện tích
hình tam giác bé hơn diện tích hình chữ nhật”.
Ta thấy trong cách dạy mới thì 100% HS đều được trực tiếp tham gia hoạt
động. Em nào không làm GV biết ngay mà nhắc nhở. Em nào làm sai : Đặt êke
nằm chòi ra ngoài bảng con GV uốn nắn ngay.
3 –2/ Dạy học bằng phiếu giao việc :
Phiếu giao việc là hệ thống các công việc mà HS phải tiến hành để tự mình
có thể chiếm lĩnh được kiến thức mới, tự mình hình thành được kĩ năng mới.
Những công việc này được viết trước trên giấy có chứa sẵn chổ trống để HS làm.
Thường thường GV soạn phiếu giao việc rối photocopy thành nhiều bản để
phát cho từng HS trong mỗi bài học. Trên phiếu giao việc ta đã làm sẵn cho HS
nhiều điều, các em chỉ phải làm những việc quan trọng nhất, những việc chính mà
thôi nên tiết kiệm được rất nhiều thời gian.
3- 3/ Dạy học theo hướng khuyến khích HS tự phát hiện :
Nhược điểm của cách dạy học bằng phiếu giao việc : Cách dạy hơi cứng
nhắc, còn mang tính rập khuôn. Để khắc phục nhược điểm trên ta có thể tổ chức
dạy học cho HS tìm tòi, tranh luận và cho HS thảo luận để tìm ra cách giải quyết
vấn đề. Gọi tắc là “Dạy học tự phát hiện”.
Cách dạy học này sẽ giúp cho trẻ có điều kiện để:
- Tự thể hiện tài năng, trí thông minh, óc sáng tạo của mình.
- Rèn luyện tính tháo vát, năng lực tự xoay sở, óc dám nghĩ dám làm trong
cuộc sống.
- Năng lực phát minh; năng lực trình bày và diễn đạt, tính tự tin trong cuộc
sống.
- Trình bày cách dạy học này như sau:
+ GV nêu vấn đề.
+ Từng HS tự suy nghĩ cách giải quyết của mình (Hoặc nhóm mình ), hoặc
toàn lớp chất vấn, trao đổi thảo luận .

6
+ Cuối cùng GV nhận xét, đánh giá, chốt lại ý quan trọng.
Ví dụ minh hoạ: Phương pháp dạy học này áp dụng các bài chia số có
2(3,4,5) chữ số cho số có 1 chữ số. Bước đầu GV có thể cho HS cá nhân, hoặc cuối
cùng GV chốt lại cách tính đúng nhất.
Tuy nhiên cách dạy học này cũng có một số nhược điểm như sau:
- Tốn nhiều thời gian.
- Chỉ thực hiện được ở một số loại bài mà thôi.
- Rất khó thực hiện nếu HS đã được hoc trước bài.
3 – 4/ Dạy học theo nhóm:
Hiện nay cách dạy học phổ biến ở nước ta vẫn là hoạt động dạy học theo lớp.
Cách dạy học này có nhiều ưu điểm như sau:
- Thích hợp với phương pháp giảng giải hay làm mẩu.
- Dễ tổ chức hay quản lý.
Cách dạy học theo nhóm cũng có nhiều thế mạnh như:
- Tạo cơ hội để HS hoà nhập cộng đồng : Các em được tập lắng nghe người
khác và mạnh dạn phát biểu quan điểm của chính mình.
- Góp phần rèn luyện tinh thần tự lực của HS: GV có thể giao nhiều công
việc cho các em tự làm mà mình không cần can thiệp trực tiếp vào.
- Tạo cơ hội để HS nâng cao năng lực hợp tác.
- Tạo điều kiện để HS phát huy được hết khả năng của mình.
Vì vậy cần kết hợp hài hoà giữa cách dạy học theo lớp và theo nhóm, không
nên quá coi trọng cách nào mà phải tuỳ tình hình mà sử dụng cho phù hợp.
* Qui trình tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm gồm các bước như sau:
- Bước 1: Chia nhóm và chia chỗ làm việc.
- Bước 2: Cử nhóm trưởng (GV cử hoặc nhóm tự đề ra ).
- Bước 3: GV giao việc, HS nhận việc (Có thể dùng phiếu hoặc dùng lời nói
rõ yêu cầu của công việc, thời gian hoàn thành ).
7
- Bước 4: Các nhóm làm việc : Nhóm trưởng diều khiển hoạt động của

nhóm, mọi thành viên trong nhóm đều phải suy nghĩ, làm việc độc lập trước khi
trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau; GV theo dõi, giúp đỡ các nhóm trưởng và giải đáp các
vướng mắc nếu có.
- Bước 5: Các nhóm trình bày : Đại diện các nhóm trình bày kết quả làm việc
của nhóm mình trước lớp.
- Bước 6: Tổng hợp và kết luận : GV tổng hợp ý kiến của các nhóm, kết luận
để xác định tính đúng, sai và động viên, khuyến khích HS.
* Một số cách chia nhóm:
- Chia ngẫu nhiên : Thường dùng khi không phân biệt giữa các đối tượng
HS, khi mọi HS đều phải cùng hoạt động để cùng giải quyết vấn đề, cùng tìm hiểu
kiến thức mới, cùng rèn luyện kỉ năng, nhiệm vụ được giao.
- Chia thành các nhóm có cùng trình độ : Thường được dùng khi cần có sự
phân hoá về mức độ khó dễ của nội dung bài học, bài tập cho từng đối tượng. Ta
hay chia thành 4 nhóm: Giỏi, khá, trung bình và yếu.
- Chia thành các nhóm gồm đủ trình độ : Cách chia này thường dùng khi nội
dung công việc đòi hỏi HS phải có sự hổ trợ lẫn nhau. Chẳng hạn khi tổ chức thực
hành đo độ dài, khi ôn tập hoặc giải các bài toán khó.
3 – 5/ Dạy học phân hoá theo năng lực của từng học sinh:
Lâu nay chúng ta vẫn thường dạy học lối đồng loạt. Các HS trong lớp dù là
HS giỏi, khá, trung bình hay yếu đều nghe chung một bài giảng; đều làm chung
một số bài tập. Chẳng hạn với một bài tập nào đó:
- Các HS khá, giỏi làm mất 3 phút.
- Các HS trung bình làm mất 5 phút.
- Các HS yếu làm mất 8 phút.
GV ước chừng theo mức của đa số HS trung bình là sau 5 phút sẽ sửa bài,
thế là HS HS khá giỏi phải ngồi chơi, chờ 2 phút; HS yếu kém chưa làm xong, GV
vẫn cứ sửa, các em yếu kém chỉ việc chép bài sửa vào là xong.
8
Trình trạng này làm cho các em yếu kém cứ yếu kém mãi, mặt khác lại kìm
hãm sự phát triển của các em khá giỏi.

Khi luyện tập, GV có thể phân hoá theo nhiều cách: Cho HS lần lượt làm
trong SGK. Các em khá giỏi làm xong trước, các em yếu kém làm sau, khi đó GV
có thể đi sát, giúp đỡ những HS yếu để các em làm ít nhất một phần hai số bài. Khi
đó GV có thể giao việc thêm cho các em khá giỏi làm: Có thể làm phiếu giao cho
từng em hoặc treo bảng phụ ghi sẵn các bài tập tiếp theo để thay cho phiếu.
Để HS yếu và trung bình không bị mặc cảm: GV nên nói em nào đã làm
xong thì làm thêm các bài tập này.
Trong lúc HS làm việc, GV đi sát, đôn đốc, giúp đỡ các em yếu, kém. Với
HS khá giỏi thì kiểm tra xem các em đã làm đúng chưa, nếu đúng rồi thì các em tự
động chuyển sang các bài khác.
* Trong lúc đàm thoại GV nên có 3 loại câu hỏi:
- Câu khó cho HS khá giỏi.
- Câu dễ cho HS yếu kém.
- Câu bình thường cho HS trung bình.
Trong lúc ra bài tập về nhà, cũng có thể ra thêm (hoặc bớt) bài cho HS khá
giỏi (yếu kém).
Dạy học phân hoá còn thể hiện ở việc dạy học ngoài giờ như phụ đạo HS yếu
kém và bồi dưỡng HS khá giỏi.
3 – 6/ Dạy học ở ngoài hiện trường:
Tăng cường các tiết học ở ngoài hiện trường cũng là một hướng đổi mới
phưong pháp dạy học ở toán 3.
Ví dụ có thể cho:
- HS luyện tập giải “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” ở ngoài sân trường
qua bài tập “Hãy đo chiều cao cột cờ (của trường em) mà không được trèo lên cột”
(dùng bóng nắng…).
9
- HS lập bảng thống kê giá cả các loại đậu: Đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ, đậu
phộng… Ở chợ trong một ngày nào đó.
- HS đo và tính chu vi sân, vườn trường.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu


III. Mô tả nội dung
1. Tổ chức vui chơi có nội dung toán học:
Vì đặc điểm hồn nhiên, hiếu động… của trẻ nên một trong những yêu cầu
đáng chú ý của việc đổi mới phương pháp dạy toán là phải làm sao cho HS cảm
thấy vui thích khi học toán. Muốn thế ta cần tìm cách đưa nhiều hình thức học tập
vui vào trong các giờ toán. Có các hình thức sau :
a) Trò chơi toán học : Là trò chơi trong đó có chứa một yếu tố toán học nào
đó.
Trò chơi có thể phân loại theo số người tham gia trò chơi: trò chơi tập thể,
trò chơi cá nhân. Trò chơi có thể là trò chơi vận động, có thể là trò chơi trí tuệ,
cũng có thể kết hợp vận động với trí tuệ.
Xét về mục đích phục vụ dạy học nói chung, trò chơi toán học có thể là:
- Trò chơi nhằm dẫn dắt, hình thành tri thức mới.
- Trò chơi nhằm củng cố kiến thức, rèn kỉ năng.
- Trò chơi nhằm ôn tập, rèn tư duy trong giờ ngoại khoá.
Nếu phân loại theo các mạch kiến thức của toán tiểu học, ta có thể nói tới
chẳng hạn:
- Trò chơi về tính toán.
- Trò chơi về vẽ hình, điếm hình, cắt và ghép hình.
- Trò chơi về giải toán.
Căn cứ nội dung kiến thức, trình độ HS và diều kiện vốn có, GV lựa chọn trò
chơi để đưa vào dạy học như một hoạt động dạy học toán. GV phải đặt biệt chú ý
10
xác định được rõ mục đích của trò chơi. Các bước chuẩn bị và tiến hành trò chơi
như sau:
- Chuẩn bị : GV chuẩn bị những dụng cụ cần thiết, có thể cho HS chuẩn bị
những dụng cụ dễ kiếm.
- Công bố luật chơi: GV giải thích cách chơi trong đó nêu rõ những ai chơi
trực tiếp, ai cổ động, ai đánh giá, chơi như thế nào, chơi bao lâu, phần thưởng là gì?

Chú ý chọn hình thức ngắn gọn, rõ ràng để giải thích cách chơi, không nên giải
thích dài dòng khiến HS mất hứng thú ngay từ khi chưa tham gia trò chơi.
- Tiến hành : Dù trực tiếp hay gián tiếp, tất cả HS của cả lớp phải tham gia
vào trò chơi; GV theo dõi và giúp đỡ HS tháo gỡ vướng mắc nếu cần.
- Nhận xét : GV nhận xét, khuyến khích HS.
b) Đố vui toán học: Câu đố toán học rất giống và có thể là một bài tập toán,
nhưng nói chung khác với bài tập toán bình thường ở một số điểm sau:
- Trong câu đố toán học, nội dung toán học được gắn với một nội dung hấp
dẫn nào đó của cuộc sống thực hoặc nội dung tưởng tượng ra.
- Lời giải của câu đố toán học thường ngắn gọn, thông minh, gây bất ngờ,
thú vị.
Đố vui toán học có nhiều tác dụng đối với dạy học toán như sau:
- Tạo ra không khí thư giãn, thoải mái trong lớp học.
- Tạo ra tình huống kích thích HS suy nghĩ, góp phần rèn luyện tư duy sáng
tạo và gây hứng thú học tập.
Với mục đích phục vụ dạy học, câu đố toán học có thể sử dụng vào các các
dịp khác nhau như:
- Khởi động lớp học.
- Luyện tập kĩ năng, cũng cố kiến thức của tiết học.
- Phục vụ ngoại khoá
11
 5 phương pháp dạy học trình bày ở trên luôn được GV vận dụng linh hoạt,
sáng tạo vào hai dạng bài: Dạy bài mới và dạy luyện tập, thực hành, phương pháp
dạy hai dạng bài này cụ thể như sau:
2. Phương pháp dạy bài mới:
a) Giúp HS tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học :
- GV hướng dẫn HS tự phát hiện vấn đề của bài học rồi giúp HS sử dụng
kinh nghiệm của bản thân để tìm mối quan hệ của vấn đề đó với các kiến thức đã
biết, từ đó tự tìm cách giải quyết vấn đề.
- Giúp HS trình bày cách giải quyết vấn đề.

b) Giúp HS tập khái quát hoá cách giải quyết vấn đề để tự chiếm lĩnh kiến
thức mới.
Từ lớp 3 có thể yêu cầu HS nêu “Qui tắc khái quát” để vừa chiếm lĩnh kiến
thức mới vừa tập dợt khái quát hoá theo mức độ phù hợp với HS lớp 3.
c) Hướng dẫn HS thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức có
liên quan đã học.
- Mỗi kiến thức mới đều có một quá trình làm quen để chuẩn bị :
Ví dụ lớp 1,2: HS nhận biết hình vuông, hình chữ nhật bằng mắt, đến lớp 3
HS nhận biết hình vuông, hình chữ nhật bằng khái niệm…
- Khả năng ứng dụng của kiến thức mới được thể hiện bằng thực hành, vận
dụng kiến thức đó để giải quyết vấn đề cụ thể, riêng lẻ. Thông qua các bài tập thực
hành trong tiết học bài mới, HS có điều kiện vận dụng kiến thức mới vào các
trường hợp cụ thể, riêng lẻ. Đây là cơ hội để cũng cố kiến thức mới, rèn luyện kĩ
năng thực hành giải quyết vấn đề liên quan đến kiến thức mới.
- Hai quá trình trên đã thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và các kiến
thức có liên quan đã học, tạo ra sự hổ trợ, củng cố lẫn nhau trong quá trình phát
triển nhận thức của HS, giúp HS học liên hệ với thực hành, không chỉ “học để biết”
mà còn “học để làm”, học để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
12
d) Giúp HS phát triển trình độ tư duy và khả năng diễn đạt bằng lời, bằng
hình ảnh, bằng kí hiệu…
Tuy nhiên, GV phải căn cứ vào trình độ chung của lớp mà phát triển đúng
mức các năng lực học tập của HS. Hết sức hạn chế những áp đặt hoặc đòi hỏi vượt
quá mức cố gắng của HS.
3. Phương pháp dạy thực hành, luyện tập:
Mục tiêu dạy thực hành, luyện tập (thông qua các câu hỏi, bài tập trong tiết
dạy bài mới, trong các tiết luyện tập, thực hành, luyện tập chung, ôn tập) là củng cố
các kiến thức HS mới chiếm lĩnh được, hình thành các kĩ năng thực hành và từng
bước phát triển tư duy của HS. Các bài tập thực hành, luyện tập thường sắp xếp từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, thực hành trực tiếp đến vận dụng một cách

tổng hợp và linh hoạt hơn.
Có thể dạy thực hành, luyện tập như sau:
a) Giúp HS nhận ra kiến thức mới (Hoặc kiến thức đã học) trong nội dung
các bài tập đa dạng, phong phú:
Nếu HS tự đọc (quan sát) đề bài và tự nhận ra dạng bài tương tự các kiến
thức đã học trong mối quan hệ cụ thể của nội dung bài tập thì HS sẽ biết cách làm
bài. Nếu HS chưa nhận ra được kiến thức đã học trong bài tập thì GV nên giúp HS
bằng cách gợi ý, hoặc hướng dẫn HS nhớ lại kiến thức, cách làm (hoặc để các HS
khác giúp bạn nhớ lại ), không nên vội vàng làm thay.
Chẳng hạn, khi giải các bài toán có lời văn ở lớp 3 GV nên yêu cầu HS tóm
tắt lại đề toán để giúp HS tìm ra mối liên hệ giữa các tư liệu có trong bài toán, từ
đó nhớ lại dạng bài tương tự đã học và nhận ra kiến thức cần sử dụng để giải bài
toán.
b) Giúp HS tự thực hành, luyện tập theo khả năng của HS:
- Bao giờ cũng yêu cầu HS phải àm các bài tập theo thứ tự đã sắp xếp trong
SGK, không tự ý bỏ bài tập nào, kể cả bài tập HS cho là dễ.
13
- Không nên bắt HS phải chờ đợi nhau trong quá trình làm bài. Trong cùng
một khoảng thời gian của tiết học, phải chấp nhận có HS làm nhiều bài tập hơn HS
khác. GV hãy chú ý quan tâm giúp đỡ HS yếu kém làm bài, nhưng không làm thay
cho HS. HS giỏi sẽ làm nhiều bài tập hơn. Tuy nhiên dù làm được ít hay nhiều
cũng phải làm đúng, trình bày gọn, rõ ràng và cố gắng tìm được cách giải quyết
hợp lí.
c) Tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng HS:
- Tăng cường cho HS trao đổi ý kiến trong các nhóm nhỏ, cả lớp về các cách
giải. Nên khuyến khích HS bình luận về các cách giải của bạn, rút kinh nghiệm để
hoàn chỉnh cách giải của mình.
- Sự hỗ trợ của HS trong các nhóm giải giúp HS tự tin vào khả năng của bản
thân, tự rút kinh nghiệm về cách giải của mình và tự sửa chữa, điều chỉnh những
thiếu sót của bản thân.

d) Khuyến khích HS tự kiểm tra kết quả thực hành, luyện tập:
- Tập cho HS có thói quen tự kểm tra xem có làm nhằm, làm sai….
- Trong một số trường hợp có thể hướng dẫn HS tự đánh giá bài làm của
mình hoặc của bạn bằng điểm rồi báo cáo cho GV.
- Khuyến khích HS tự nêu những hạn chế trong bài làm của mình hoặc của
bạn.
e) Tập cho HS có thói quen tìm nhiều phương án để giải quyết vấn đề, không
thoả mãn với các kết quả đã đạt được:
Khuyến khích HS tìm hiểu nhiều phương án và lựa chọn phương án tốt nhất
để giải toán, để giải quyết một vấn đề trong học tập. Điều quan trọng không phải là
HS làm được nhiều bài tập và GV cung cấp thêm nhiều bài tập (kể cả các bài tập
khó) cho HS mà chính là GV cùng HS khai thác được các tìm năng trong các cách
giải của HS, bằng hình thức khác nhau và cũng cố nhiều lần về kiến thức trọng tâm
của bài.
14
Hiện nay, trong nhiều tiết học ở TH, HS chưa quen đặt câu hỏi cho GV,
thường chỉ là trả lời câu hỏi cho GV, các GV hãy tìm mọi cách khuyến khích giúp
HS mạnh dạn đặt câu hỏi ở trong lớp (khi cần thiết) .
Để dạy tốt môn toán ở tiểu học, GV không những nắm vững các phương
pháp dạy toán, hiểu rõ phương pháp đặt thù khi dạy bài mới hay bài luyện tập, thực
hành mà GV cần nắm vững một số phương pháp đặt thù khi dạymột số nội dung cụ
thể trong môn toán 3 như: Dạy nội dung số học, dạy học nội dung đại lượng và đo
đại lượng, dạy học các yếu tố hình học và dạy học nội dung giải toán ở lớp 3. Cụ
thể như sau:
4. Dạy học nội dung số học ở toán 3 :
Nội dung số học trong môn toán ở lớp 3 bao gồm: Đọc viết, đếm, so sánh các
số trong phạm vi 10.000 và trong phạm vi 100.000; các phần bằng nhau của đơn vị;
bảng nhân và chia 6,7,8,9; phép cộng và phép trừ các số có 4 hoặc 5 chữ số (nhớ
hai lược và không liên tiếp); phép chia số có hai hoặc ba hoặc bốn hoặc năm chữ số
cho số có một chữ số (chia hết và chia có dư); làm quen với biểu thức, tính giá trị

biểu thức, tìm số chia chưa biết, giới thiệu về số la mãvà một số yếu tố thống kê
đơn giản.
Việc lựa chọn ND số học theo hướng giảm nhẹ các kiến thức lí thuyết, tăng
thực hành vận dụng; thực hiện “học qua hoạt động thực hành”, “học để biết, học để
làm, học để cùng chung sống, học để hoàn thiện nhân cách” được quán triệt trong
nội dung và phương pháp dạy học toán 3.
5. Dạy học nội dung đại lượng và đo đại lượng ở lớp 3 :
Bao gồm các ND sau:
- Đề – xi – mét, Héc – tô – mét.
- Bảng đơn vị đo độ dài.
- Xem đồng hồ (chính xác đến từng phút).
- Tháng, năm.
15
- Tiền Việt Nam (đến 100000 đồng).
- Đơn vị đo diện tích – cm
2
.
Dạy học đại lượng và đo đại lượng ở lớp 3 trước hết phải theo định hướng
đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học. Do đặc điểm của mỗi mạch kiến thức mà
có sự thể hiện phương pháp dạy học có hiệu quả.
Dạy học nội dung hình thành biểu tượng về đại lượng và đơn vị đo đại
lượng.
Thông qua quan sát, ước lượng, tiếp xúc, so sánh, đối chiếu để HS có biểu
tượng về các đại lượng độ dài, diện tích….
Thông qua các hoạt động sinh hoạt hằng ngày của trẻ (thức dậy, tập thể dục,
đi học, về nhà, xem ti vi….) để HS có cảm nhận về thơì gian, về ý niệm nhanh,
chậm, sớm, muộn…
Dạy HS theo hướng tăng cường các hoạt động thực hành, đo lường và ước
lượng. Chẳng hạn:
- HS sử dụng thước đo để đo độ dài, ước lượng các số đo độ dài.

- HS thực hành xem đồng hồ, ứng với thời gian trước 12 giờ và sau 12 giờ,
xem đọc lịch ngày, tháng, năm…
- HS được thực hành cân các vật có khối lượng đến Gam.
- HS được rèn các kĩ năng chuyển đổi các đơn vị đo thông thường.
- HS được làm quen với việc mua bán, đổi tiền.
Do vậy GV cần nên tổ chức tốt các giờ thực hành về đo lường tại lớp hoặc
ngoài giờ.
Mỗi HS có riêng một bộ thực hành là tốt nhất, tránh làm hình thức áp đặt.
6. Dạy các yếu tố hình học ở lớp 3:
Dưới đây là một số gợi ý về phương pháp dạy một số ND trong yếu tố hình
học ở toán lớp 3.
- Khi dạy khái niệm, biểu tượng hoặc nhận dạng các hình học mới có thể tiến
hành các hoạt động :
16
+ Liên hệ các khái niệm, kiến thức học chuyển sang khái niệm, kiến thức
mới, chẳng hạn: Từ nhận dạng hình chử nhật, hình vuông dạng tổng thể (lớp 1,2)
đến lớp 3, hình chữ nhật, hình vuông được nhận dạng với các đặc điểm về yếu tố
cạnh, góc của hình chử nhật đó; từ cách tính chu vi hình tam giác đã học ở lớp 2,
HS biết tính chu vi hình chữ nhật, hình vuông theo qui tắc ở lớp 3….Hoặc khi học
về hình tròn cần liên hệ tới khái niệm trung điểm, đoạn thẳng (tâm của đường tròn
là trung điểm của đường kính), khi dạy về khái niệm diện tích và đo diện tích có
thể liên hệ tới việc đếm số ô vuông trong các hình đã được làm quen trước đó.
+ Dùng đồ dùng trực quan hoặc liên hệ các đồ vật trong thực tế có dạng hình
học pù hợp để HS có biểu tượng hình học và nhận biết được hình đó, chẳng hạn :
Viên gạch bông có hình vuông, mặt đồng hồ có hình tròn, khung ảnh có dạng hình
chữ nhật….Hoặc từ hình ảnh 2 kim đồng hồ để tạo ra một góc, HS làm quen với
khái niệm góc, góc vuông, góc không vuông.
- Khi dạy bài có tính luyện tập, thực hành, cần cho HS được tự hoạt động
(Được tự do, vẽ, xếp, ghép hình, được tự tính toán tìm ra kết quả….) GV không
nên làm thay hoặc hướng dẫn quá kĩ chi HS, trong SGK có một số bài tập luyện tập

thực hành có tính chất làm mẫu, GV có thể dựa vào đó để sáng tạo ra các bài tập
khác phù hợp, gây được hứng thú với HS.
7. Dạy học nội dung giải toán ở lớp 3:
Sau đây là một số lưu ý về phương pháp giải toán có lời văn ở lớp 3:
- Trước hết cho HS hiểu thế nào là giải toán hợp? Giải bài toán hợp khác với
giải bài toán đơn thế nào? Trên cơ sở bài toán đơn mà chuyển sang hình thành các
bước giải các bài toán hợp.
- Khi giải bài toán có lời văn, chủ yếu dạy cho HS biết cách giải bài toán,
GV không nên làm thay hoặc áp đặt cách giải hoặc chỉ cho HS làm mỗi phép tính
để tìm ra kết quả. Cố gắng để HS tự tìm ra cách giải toán (tập trung vào ba bước:
Tóm tắt bài toán để biết bài toán cho gì, hỏi gì? Tìm cách giải, thiết lập mối quan
17
hệ giữa các dữ kiện của để bài với phép tính tương ứng. Trình bày bà giải, viết câu
lời giải, phép tính trung gian và đáp số).
- Về phần tóm tắt bài toán, yêu cầu HS tự tri giác đề toán rồi nêu (viết) tóm
tắt. Có thể tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng. Phần tóm tắt rất cần thiết khi
học giải toán, tuy nhiên không nhất thiết phải viết vào trình bày bài giải.
- Về trình bày bài giải, HS cần viết được lời giải và phép tính tương ứng, GV
kiên trì để HS tự diễn đạt câu lời giải bằng lời, viết câu lời giải vào vở, không vội
vàng làm thay cho HS.
- Khi dạy các bài có ND hình học ở lớp 3 (Tính chu vi, diện tích hình chữ
nhật, hình vuông), các bài toán đó cần được trình bày như bài giải toán có lời văn,
lưu ý phép tính ứng với câu lời giải có thể có đến 2, 3 dấu phép tính, HS không
phải ghi kết quả của phép tính trung gian mà chỉ ghi kết quả cuối cùng.
IV. Kết quả nghiên cứu
Đầu năm, đa số HS nắm vững kiến thức đã học ở lớp 2, đã tạo điều kiện
thuận lợi cho GV lớp 3 tiếp tục thực hiện dạy toán theo phương pháp mới.
Qua kiểm tra chất lượng đầu năm theo thống kê của tổ có kết quả như sau:
Giỏi : %.
Khá : %.

TB : %.
Yếu : %.
Qua một một thời gian dạy thay sách, vận dụng phương pháp dạy học mới,
đã góp phần mang lại kết quả khả quan:
+ HS nắm bắt khá vững các kiến thức đã học.
+ HS mạnh dạn, tự tin, tìm ra kiến thức, biết nhận xét, đánh giá kết quả học
tập của bạn, của mình.
18
+ Mỗi thành viên đều có kế hoạch phụ đạo hàng tuần để giúp đỡ HS yếu
kém, từng bước giúp các em theo kịp các bạn.
+ Mỗi lớp đều thành lập được đội HS giỏi toán, có kế hoạch, nội dung bồi
dưỡng cụ thể, trường đã tổ chức thi HS giỏi, tuy kết quả môn toán chưa cao nhưng
qua đó cũng giúp cho GV rút ra được phương pháp bồi dưỡng HS trong thời gian
tới.
+ Kết quả môn toán tổ khối 3 sau một năm giảng dạy môn toán theo phương
pháp mới như sau:
Giỏi : %.
Khá : %.
TB : %.
Yếu : %.
PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Kết luận
Trên đây là phần lý thuyết dạy học toán 3 theo phương pháp mới. Để giúp
các tiết học thành công, bản thân từng thành viên trong tổ khối 3 luôn tự tìm tòi,
học hỏi, đề ra một số phương pháp thực hiện trong thời gian qua như sau:
- Nắm vững mạch kiến thức toán lớp 1,2 làm nền tảng dạy tốt toán 3, nắm
vững cái gì các em đã học, cái gì các em chưa học và sẽ học để vận dụng kiến thức
có sẵn của các em, liên hệ tìm ra kiến thức mới.
- Nắm vững các phương pháp dạy học toán, để vận dụng nhuần nhuyễn linh
hoạt, sáng tạo vào từng loại bài cụ thể.

- Thực hiện dạy học các nội dung toán 3 theo định hướng đổi mới phương
pháp dạy học ở TH: GV đóng vai trò là người điều khiển, tổ chức các hoạt động
dạy, HS được phát huy tích cực, chủ động cố gắng tự mình chiếm lĩnh kiến thức
dưới sự HD có mức độ ở thầy.
- Có kế hoạch bài dạy cụ thể, luôn suy nghĩ, tìm tòi cách dạy tốt nhất.
19
Sau mỗi tiết dạy, GV đều có nhận xét, rút kinh nghiệm để những năm học
sau dạy tốt hơn.
- Tận dụng ĐDDH hiện có, tự làm để việc dạy học đạt kết quả.
- Luôn quan tâm, chú ý đến mọi đối tượng HS, lên kế hoạch hàng tuần về
việc phụ đạo HS yếu, bồi dưỡng HS giỏi.
- Từng bước giúp HS tự giác học tập, biết nhận xét, đánh giá kết quả học tập
của bạn, của bản thân.
- Luôn học hỏi, trao dồi kinh nghiệm với bạn đồng nghiệp. Luôn tìm tòi, học
hỏi thông qua các tài liệu sách báo.
- Điều quan trọng mang đến thành công cho tiết dạy học toán là làm sao cho
HS yêu thích, hứng thú khi học toán, lời giảng giải của GV phải ngắn gọn, dễ hiểu,
khơi gợi, kích thích sự suy nghĩ của HS.
II. Khuyến nghị

Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm “Dạy tốt môn toán 3 theo phương pháp
mới”. Rất mong được sự đóng góp nhiệt tình của quý thầy cô để bản thân em và tổ
khối 3 từng bước khắc phục khuyết điểm, nâng cao chất lượng giảng dạy môn toán
3 trong các năm học tới.
…………., ngày … tháng … năm 20…
Người viết

20
MỤC LỤC
(Bạn có thể thay đổi - thêm bớt nên số trang thay đổi do vậy chúng tôi chỉ để sẵn

danh mục. Bấm phím tab sẽ ra các dấu … cách đều)
PHẦN I. MỞ ĐẦU Trang 3
1. Lý do chọn đề tài 4
2
3
4
5
PHẦN II. NỘI DUNG
1
2
3
4
PHẦN III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
2. KIẾN NGHỊ
PHỤ LỤC
21
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
BẢN CAM KẾT
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ
Họ và tên: ………………………
Ngày, tháng, năm sinh: …………
Đơn vị: Trường tiểu học ………
Địên thoại: 0945398889
E-mail:
II. TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên SKKN:
III. NỘI DUNG CAM KẾT
Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng thành công trong

giảng dạy tại trường ……………………………… . Trong trường hợp có xảy ra
tranh chấp về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ sản phẩm sáng kiến kinh
nghiệm này mà tôi là người vi phạm, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo sở GD&ĐT. Sáng kiến kinh nghiệm này tôi cũng đã phổ biến cho
đồng nghiệp nên nếu có bạn đọc học tập, nghiên cứu, sử dụng, áp dụng sáng kiến
này tôi cũng không khiếu nại hay đòi hỏi quyền sở hữu.
…………, ngày … tháng … năm 20….
Người cam kết
(Ký, ghi rõ họ tên)
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán 3, NXB GD
2. Sách hướng dẫn giảng dạy Toán 3 (Sách Giáo Viên), NXB GD
3. Sách chuẩn kiến thức kĩ năng (Lớp 3) , NXB GD
4. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học
5. Giáo trình tâm lý học Tiểu học
6. Giáo trình giáo dục học ở Tiểu học
7. Chuyên đề giáo dục Tiểu hoc
8. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 3 (tập 1) - Vũ Văn Dương, Ngô Thị
Thanh Hương, Bùi Anh Tú, Nguyễn Thị Hiền, Phạm Vĩnh Thông – NXB GD 2007
9. Báo Toán học tuổi trẻ.
10. Bộ GD&ĐT, Các đề thi có ma trận mẫu, www.thi.moet.gov.vn
11. Bộ GD&ĐT, Hướng dẫn nhiệm vụ năm học.
12. Nguyễn Cảnh Toàn, Luận bàn và kinh nghiệm về tự học, Tủ sách tự học, 1995
13. Nguyễn Cảnh Toàn, Tự giáo dục, tự nghiên cứu, tự đào tạo, NXB ĐHSP, 2001
14. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên môn toán chu kỳ 2004-2007
15. Trần Phương và Nguyễn Đức Tấn, Sai lầm thường gặp và các sáng tạo khi giải
toán, NXB Hà Nội – 2004
16. Số học bà chúa của toán học – Hoàng Chúng.
17. Một số tài liệu khác và tranh ảnh sưu tầm trên internet.

18. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng các lớp 1, 2, 3, 4 - Bộ Giáo dục - Đào
tạo
23

×