Mục lục
Câu 1: Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp và biện pháp nâng
cao lợi nhuận
1.1.Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả các mặt
hàng hoạt động kinh doanh. Dưới đây ta đi sâu vào xem xét cụ thể từng nhân tố ảnh
hưởng đến lợi nhuận.
Quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ trên thị trường :
Do tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo nguồn cơ chế thị trường nên doanh
nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố quan hệ cung - cầu hàng hoá dịch vụ. Sự
biến động này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đòi
hỏi doanh nghiệp phải có sự ứng xử thích hợp để thu được lợi nhuận. Nhu cầu về hàng
hoá và dịch vụ lớn trên thị trường sẽ cho phép các doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh
doanh để đảm bảo cung lớn. Điều đó tạo khả năng lợi nhuận của từng đơn vị sản phẩm
hàng hoá, nhưng đặc biệt quan trọng là tăng tổng số lợi nhuận. Cung thấp hơn cầu sẽ có
khả năng định giá bán hàng hoá và dịch vụ, ngược lại cung cao hơn cầu thì giá cả hàng
hoá và dịch vụ sẽ thấp điều này ảnh hưởng đến lợi nhuận của từng sản phẩm hàng hoá
hay tổng số lợi nhuận thu được.
Trong kinh doanh các doanh nghiệp coi trọng khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ,
còn giá cả có thể chấp nhận ở mức hợp lý để có lãi cho cả doanh nghiệp công nghiệp và
doanh nghiệp thương mại, khuyến khích khách hàng có thể mua với khối lượng lớn nhất
để có tổng mức lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tìm các biện pháp
kích thích cầu hàng hoá và dịch vụ của mình, nhất là cầu có khả năng thanh toán bằng
cách nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ, cải tiến phương thức bán
Chất lượng công tác chuẩn bị cho quá trình kinh doanh :
Để cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp đạt tới lợi nhuận nhiều
và hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị tốt các điều kiện, các yếu tố
chi phí thấp nhất. Các đầu vào được lựa chọn tối ưu sẽ tạo khả năng tăng năng suất lao
1
động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí hoạt động và giá thành sản phẩm giảm. Do
đó cơ sở để tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp công nghiệp là chuẩn bị các đầu vào
hợp lý, tiết kiệm tạo khả năng tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nội dung của công tác chuẩn bị cho quá trình sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào nhiệm
vụ, tính chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Trước hết đó là chuẩn bị tốt về khâu thiết kế sản phẩm và công nghệ sản xuất. Thiết kế
sản phẩm và công nghệ chế tạo hợp lý sẽ tạo điều kiện giảm thời gian chế tạo, hạ giá
thành, tạo lợi nhuận cho quá trình tiêu thụ.
Tiếp đó là chuẩn bị tốt các yếu tố vật chất cần thiết cho quá trình hoạt động như lao động
( số lượng, chất lượng, cơ cấu ) máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất được thuận lợi, nhịp
nhàng và liên tục giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Cuối cùng là doanh nghiệp phải có phương án hợp lý về tổ chức điều hành quá trình sản
xuất ( tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý ).
Nhân tố về trình độ tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm :
Tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá và dịch vụ là quá trình thực hiện sự kết
hợp chặt chẽ các yếu tố đầu vào như lao động, vật tư, kỹ thuật để chế tạo ra sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ. Qúa trình này tiến hành tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo
ra số lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chi phí
sử dụng các yêu tố để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó.
Điều đó chứng tỏ rằng muốn tạo ra lợi nhuận cao cần phải có trình độ tổ chức sản xuất
sao cho tiết kiệm được chi phí ở mức tối đa mà không ảnh hưởng đến chất lượng của sản
phẩm tiêu thụ.
Nhân tố trình độ tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ :
Sau khi doanh nghiệp đã sản xuất được sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo quyết định tối
ưu về sản xuất thì khâu tiếp theo sẽ là phải tổ chức bán nhanh, bán hết, bán với giá cao
những hàng hoá và dịch vụ đó để thu được tiền về cho quá trình tái sản xuất mở rộng tiếp
theo.
Lợi nhuận của quá trình hoạt động kinh doanh chỉ có thể thu được sau khi thực hiện tốt
công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Do đó tổ chức tiêu thụ khối lượng lớn
hàng hoá và dịch vụ tiết kiệm chi phí tiêu thụ sẽ cho ta khả năng lợi nhuận. Để thực hiện
tốt công tác này doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng các mặt hàng hoạt động về tổ
2
chức mạng lưới kênh tiêu thụ sản phẩm, công tác quảng cáo marketing, các phương thức
bán và dịch vụ sau bán hàng.
Trình độ tổ chức và quản lý quá trình kinh doanh của doanh nghiệp :
Tổ chức quản lý quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp là một nhân tố
quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá trình quản lý kinh
doanh của doanh nghiệp công nghiệp bao gồm các khâu cơ bản như định hướng chiến
lược phát triển của doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh doanh, xây dựng các phương
án kinh doanh, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Các khâu quản
lý quá trình hoạt động kinh doanh tốt sẽ tăng sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành sản phẩm, giảm chi chí quản lý. Đó là điều kiện quan trọng để tăng lợi
nhuận.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp qua phân tích ở trên phải chính
do doanh nghiệp khắc phục bằng chính ý chí chủ quan muốn đạt được lợi nhuận cao của
mình. Ngoài ra còn có những nhân tố ảnh hưởng khách quan từ phía bên ngoài môi
trường kinh doanh đó là nhân tố chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước :
Doanh nghiệp là một tế bào của hệ thống kinh tế quốc dân, hoạt động của nó ngoài việc
bị chi phối bởi các quy luật của thị trường nó còn bị chi phối bởi những chính sách kinh
tế của nhà nước ( chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoái )
Trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước cần nghiên cứu kỹ các
nhân tố này. Vì như chính sách tài khoá thay đổi tức là mức thuế thay đổi sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp, hoặc khi chính sách tiền tệ thay đổi có thể là
mức lãi giảm đi hay tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vay vốn của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp công
nghiệp. Các nhân tố này được tiếp cận theo quá trình kinh doanh của doanh nghiệp,
chúng có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Việc nghiên cứu các nhân tố này cho phép xác
định các yêu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên
cơ sở đó xác định các biện pháp nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Câu 2: Quản trị khoản phải thu
Khoản phải thu là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng hóa hoặc dịch
vụ. Có thể nói hầu hết các công ty đều phát sinh các khoản phải thu nhưng với mức độ
3
khác nhau, từ mức không đáng kể cho đến mức không thể kiểm soát nổi. Kiểm soát
khoản phải thu liên quan đến việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro.
Nếu không bán chịu hàng hóa thì sẽ mất đi cơ hội bán hàng, do đó, mất đi lợi nhuận. Nếu
bán chịu hàng hóa quá nhiều thì chi phí cho khoản phải thu tăng có nguy cơ phát sinh các
khoản nợ khó đòi, do đó, rủi ro không thu hồi được nợ cũng gia tăng. Vì vậy, doanh
nghiệp cần có chính sách bán chịu phù hợp.
Khoản phải thu của doanh nghiệp phát sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố như
tình hình nền kinh tế, giá cả sản phẩm, chất lượng sản phẩm, và chính sách bán chịu của
doanh nghiệp. Trong các yếu tố này, chính sách bán chịu ảnh hưởng mạnh nhất đến
khoản phải thu và sự kiểm soát của giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính có thể thay
đổi mức độ bán chịu để kiểm soát khoản phải thu sao cho phù hợp với sự đánh đổi giữa
lợi nhuận và rủi ro. Hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu có thể kích thích được nhu cầu dẫn tới
gia tăng doanh thu và lợi nhuận, nhưng vì bán chịu sẽ làm phát sinh khoản phải thu, và do
bao giờ cũng có chi phí đi kèm theo khoản phải thu nên giám đốc tài chính cần xem xét
cẩn thận sự đánh đổi này. Liên quan đến chính sách bán chịu, chúng ta sẽ lần lượt xem
xét các vấn đề như tiêu chuẩn bán chịu, điều khoản bán chịu, rủi ro bán chịu, và chính
sách và quy trình thu nợ.
1. Tiêu chuẩn bán chịu
Tiêu chuẩn bán chịu là tiêu chuẩn tối thiểu về mặt uy tín tín dụng của khách hàng đê
được doanh nghiệp chấp nhận bán chịu hàng hóa và dịch vụ. Tiêu chuẩn bán chịu là một
bộ phận cấu thành chính sách bán chịu của doanh nghiệp và mỗi doanh nghiệp đều thiết
lập tiêu chuẩn bán chịu của mình chính thức hoặc không chính thức.
Tiêu chuẩn bán chịu nói riêng và chính sách bán chịu nói chung có ảnh hưởng đáng kể
đến doanh thu của doanh nghiệp. Nếu đối thủ cạnh tranh mở rộng chính sách bán chịu,
trong khi chúng ta không phản ứng lại điều này, thì nổ lực tiếp thị sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, bởi vì bán chịu là yếu tố ảnh hưởng rất lớn và có tác dụng kích thích nhu
cầu. Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp nên hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu đến mức có thể chấp
nhận được, sao cho lợi nhuận tạo ra do gia tăng doanh thu, như là kết quả của chính sách
bán chịu, vượt quá mức chi phí phát sinh do bán chịu. Ở đây có sự đánh đổi giữa lợi
nhuận tăng thêm và chi phí liên quan đến khoản phải thu tăng thêm, do hạ thấp tiêu chuẩn
bán chịu. Vấn đề đặt ra là khi nào doanh nghiệp nên nới lỏng tiêu chuẩn bán chịu và khi
nào doanh nghiệp không nên nới lỏng tiêu chuẩn bán chịu? Chúng ta xem xét một số mô
hình ra quyết định trong quản trị các khoản phải thu.
2. Điều khoản bán chịu
4
Điều khoản bán chịu là điều khoản xác định độ dài thời gian hay thời hạn bán chịu và tỷ
lệ chiết khấu áp dụng nếu khách hàng trả sớm hơn thời gian bán chịu cho phieps. Ví dụ
điều khoản bán chịu “2/10 net 30” có nghĩa là khách hàng được hưởng 2% chiết khấu nếu
thanh toán trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hóa đơn được phát hành và nếu khách hàng
không lấy chiết khấu thì khách hàng được trả chậm trong thời gian 30 ngày kể từ ngày
phát hành hóa đơn.
Chính sách bán chịu không chỉ liên quan đến tiêu chuẩn bán chịu như vừa xem xét mà
còn liên quan đến điều khoản bán chịu. Thay đổi điều khoản bán chịu lại liên quan đến
thay đổi thời hạn bán chịu và thay đổi tỷ lệ chiết khấu.
- Thay đổi thời hạn bán chịu
- Thay đổi tỷ lệ chiết khấu
Điều khoản chiết khấu liên quan đến hai vấn đề: thời hạn chiết khấu và tỷ lệ chiết khấu.
Thời hạn chiết khấu là khoảng thời gian mà nếu người mua thanh toán trước hoặc trong
thời gian đó thì người mua sẽ được nhận tỷ lệ chiết khấu. Tỷ lệ chiết khấu là tỷ lệ phần
trăm của doanh thu hoặc giá bán được khấu trừ nếu người mua trả tiền trong thời hạn
chiết khấu. Thay đổi tỷ lệ chiết khấu ảnh hưởng đến tốc độ thu tiền đối với các khoản
phải thu. Nhưng tỷ lệ chiết khấu sẽ làm giảm doanh thu ròng, do đó, giảm lợi nhuận. Liệu
giảm chi phí đầu tư khoản phải thu có đủ bù đắp thiệt hại do giảm lợi nhuận hay không.
Cần lưu ý rằng chính sách tăng tỷ lệ chiết khấu hay bất kỳ chính sách bán chịu nào cũng
cần được xem xét thường xuyên xem có phù hợp với tình hình thực tiễn hay không. Sau
khi thực hiện chính sách gia tăng tỷ lệ chiết khấu, do tình hình thay đổi, nếu tiết kiệm chi
phí không đủ bù đắp cho lợi nhuận giảm, khi ấy công ty cần thay đổi chính sách chiết
khấu. Nếu công ty muốn xem xét có nên quyết định giảm tỷ lệ chiết khấu lại hay không
thì tiến hành phân tích mô hình.
3. Ảnh hưởng của rủi ro bán chịu
Trong các tình huống đã phân tích trên đây, chúng ta đều ngầm giả định rằng không có
tổn thất do nợ không thể thu hồi. Thật ra chính sách bán chịu không chỉ liên quan đến
tăng hoặc giảm khoản phải thu mà còn liên quan đến khả năng thu hồi khoản phải thu.
Trong phần này chúng ta sẽ phân tích xem rủi ro bán chịu ảnh hưởng như thế nào qua
xem xét mô hình sau đây:
5
Câu 3: Tìm hiểu về mục tiêu của doanh nghiệp:có phải là tối đa hóa LN?
Trong sách kinh tế học, mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp dường như luôn được nói
tới là tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên, rủi ro càng lớn, lợi nhuận càng cao. Theo cách hiểu
đó, tối đa hoá lợi nhuận đồng nghĩa với tối đa hoá rủi ro và chắc chắn chủ sở hữu công ty
không cho phép các nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện điều đó. Vậy mục tiêu cuối cùng
của doanh nghiệp là gì?
Muốn biết điều này, cần phân tích động cơ cổ đông của doanh nghiệp, bởi họ là chủ sở
hữu thực sự của doanh nghiệp. Quyền lợi của cổ đông bao gồm: cổ tức được phân phối
hàng năm; lợi nhuận để lại tái đầu tư và làm tăng giá cổ phiếu; quyền kiểm soát công ty.
Nói chung, không phải tất cả cổ đông quan tâm tới quyền kiểm soát hay chính xác hơn,
phần lớn cổ đông không quan tâm đến quyền lợi này. Song nhìn chung, các cổ đông đều
mong muốn thu nhập của họ tăng càng nhiều càng tốt, hay nói cách khác, cổ đông luôn
muốn tăng tối đa giá trị tài sản của họ. Đây là nguyện vọng chính đáng của cổ đông mà
các nhà quản lý cần phải tôn trọng.
Mục tiêu trên không phải là tất cả. Những nhà quản trị công ty, các sáng lập viên do phải
nắm giữ các cổ phiếu lâu dài nên họ dường như không quan tâm đến sự tăng giá trong
ngắn hạn. Họ là những nhà đầu tư không muốn nhận cổ tức với lý do không phải họ quá
giàu, mà là động cơ tránh thuế (giữ lợi nhuận tái đầu tư chưa phải đóng thuế thu nhập từ
cổ tức). Muốn có cổ tức cao, tăng giá cổ phiếu lớn, công ty phải đầu tư vào các dự án có
mức sinh lời cao. Khi công ty có lợi nhuận cao, các nhà quản lý cũng không được nhiều
hơn các cổ đông khác, do chính sách phân phối "phổ thông đầu phiếu" - thu nhập của mỗi
6
cổ phiếu là như nhau. Song lợi nhuận cao cũng đi kèm với rủi ro lớn. Khi mất giá, các
nhà quản lý sẽ mất nhiều hơn các cổ đông khác. Đây là vấn đề luôn tồn tại trong các
doanh nghiệp. Do đó, các nhà quản lý không hết lòng vì các cổ đông, họ làm việc chính
vì bản thân họ.
Tuy nhiên, do cần phiếu bầu, các nhà quản lý phải làm vừa lòng các cổ đông bằng cách
luôn làm tăng giá trị tài sản của họ. Xung đột lợi ích giữa cổ đông bên ngoài và các nhà
quản lý, các cổ đông lớn sẽ được giải quyết bằng cách dung hoà các mục tiêu duy trì tốc
độ tăng trưởng ổn định giá trị tài sản của chủ sở hữu. Giá trị được phản ánh qua giá cả và
việc can thiệp vào giá cả để duy trì tốc độ tăng trưởng là được phép (qua chính sách phân
phối cổ tức, qua tách gộp cổ phiếu, qua mua bán cổ phiếu quỹ…). Do vậy, có thể nói,
mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định thị giá cổ
phiếu trên thị trường.
Câu 4 : Dự trữ tiền mặt trong doanh nghiệp thế nào là đủ?
Có những doanh nghiệp kinh doanh có lãi nhưng họ vẫn bị phá sản là bởi họ không đủ
tiền mặt để phục vụ cho hoạt động SXKD chứ không phải vì không có lợi nhuận. Tiền
mặt là nhân tố quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được thông suốt. Phân tích
như trên thì dường như tiền mặt luôn là thứ mà doanh nghiệp muốn nắm giữ. Tuy nhiên
cũng cần quan tâm đến “chi phí cơ hội” của việc nắm giữ tiền mặt. Các lý thuyết tài
chính doanh nghiệp nói rằng mỗi doanh nghiệp nên có một mức tiền mặt thích hợp.
Lượng tiền mặt phải đủ để đảm bảo hoạt động thường xuyên, ngoài ra còn dự trữ cho các
tình huống khẩn cấp, những dự tính trong tương lai.
Khái niệm tiền mặt, tiền mặt trong hoạt động SXKD
Các nhà kinh tế định nghĩa tiền là bất cứ phương tiện nào được thừa nhận chung để thanh
toán cho việc mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ hoặc thanh toán nợ nần. Trong lĩnh vực
tài chính doanh nghiệp, tiền mặt được hiểu bao gồm tiền tồn quỹ và tiền trên tài khoản
thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Tiền mặt là một thành phần quan trọng trong
tài sản lưu động.
Tiền mặt = Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu + Nợ ngắn hạn
- Tài sản lưu động khác ngoài tiền mặt - Tài sản cố định
Chi phí của việc nắm giữ tiền mặt
Chi phí nắm giữ: do tỷ lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt bằng không cộng với ảnh
hưởng của lạm phát.
7
Chi phí cơ hội: chính là khoản lợi nhuận có thể có được nếu đem tiền mặt đi đầu tư. Chi
phí cơ hội có thể được tính bằng khoản lợi tức thông qua lãi suất của chứng khoán ngắn
hạn có tính thanh khoản cao.
Lý do nắm giữ tiền mặt
Đối với một doanh nghiệp, có ba động cơ để doanh nghiệp nắm giữ tiền mặt là:
• Động cơ hoạt động, giao dịch: mức tồn quỹ tiền mặt được hoạch định để đáp ứng
kịp thời các khoản chi tiêu phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
• Động cơ dự trữ: là một hành động dự phòng trước khả năng gia tăng nhu cầu chi
tiêu do tăng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhanh chóng đáp ứng
những cơ hội kinh doanh đột xuất.
• Động cơ đầu cơ: là một phản ứng trước sự khan hiếm, biến động giá cả hàng hoá
nguyên vật liệu hoặc sự biến động về tỷ giá hối đoái trên thị trường.
Kỳ luân chuyển tiền mặt, nằm trong chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, là khoảng thời
gian tính từ lúc doanh nghiệp thực sự trả tiền cho nhà cung cấp đến khi thực sự thu hồi
tiền của khách hàng. Ở đây, ta thấy có sự chênh lệch, một kẽ hở giữa dòng thu tiền mặt
và dòng chi tiền mặt. Chính kẽ hở này là nguyên nhân có thể khiến doanh nghiệp rơi vào
tình trạng mất khả năng thanh toán và phá sản.
Có 3 mô hình thường được dùng để xác định mức tồn trữ tiền mặt tối ưu:
- Mô hình tồn trữ tiền mặt tối ưu EOQ – mô hình Baumol: phát triển từ mô hình lượng
đặt hàng tối ưu, mô hình có mục tiêu tối thiểu hoá các chi phí bao gồm chi phí giao dịch
bán chứng khoán thu về tiền mặt và chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt.
- Mô hình Miller Orr: xác định các giới hạn kiểm soát của số dư tiền mặt gồm giới hạn
trên và giới hạn dưới. Hai giới hạn này là dấu hiệu để quyết định mua, bán chứng khoán.
- Mô hình Stone: cải tiến tính thực tiễn của quá trình tối ưu hoá ở mô hình Miller Orr
bằng cách cho phép nhà quản trị căn cứ vào nhận thức và kinh nghiệm của mình về dòng
ngân lưu công ty để đưa ra quyết định thích hợp.
Câu 5 : Sự khác nhau giữa dòng tiền mặt và lợi nhuận
Để phân biệt giữa lợi nhuận và dòng tiền mặt, ta so sánh hai chỉ tiêu là lợi nhuận ròng
và ngân lưu ròng:
Lợi nhuận ròng = Doanh thu – Chi phí
Ngân lưu ròng = Dòng thu tiền – Dòng chi tiền
8
Như vậy, ngân lưu ròng dương hay âm không có nghĩa là lãi hay lỗ, ngược lại lãi hay
lỗ thì không đồng nghĩa là có tiền mặt hay không.
Về cơ bản, sự khác nhau này là kết quả của bốn kiểu giao dịch sau đây:
- Giao dịch làm tăng lợi nhuận nhưng chưa làm tăng lượng tiền mặt ngay.
- Giao dịch làm giảm lợi nhuận nhưng chưa làm giảm lượng tiền mặt ngay.
- Giao dịch làm tăng lượng tiền mặt nhưng chưa tác động đến lợi nhuận ngay.
- Giao dịch làm giảm lượng tiền mặt mà chưa tác động đến lợi nhuận ngay.
9