Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khai thác khoảng sản ở tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 106 trang )

Số hóa bởi trung tâm học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH





PHẠM THỊ NGA






MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ













Thái Nguyên - 2012
1

Số hóa bởi trung tâm học liệu
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thái Nguyên là tỉnh có tiềm năng khoáng sản với trữ lượng lớn. Hiện
có trên 250 mỏ và điểm quặng (trong đó có 176 mỏ, điểm quặng đã được
công bố trong sổ mỏ và trên 74 mỏ, điểm quặng mới phát hiện, đang được
khảo sát, thăm dò đánh giá chất lượng, trữ lượng), gồm 24 loại khoáng sản
rắn, thuộc 05 nhóm: Nhiên liệu khoáng, khoáng sản kim loại, khoáng chất
công nghiệp, khoáng sản làm vật liệu xây dựng và nước khoáng. Trong đó có
một số khoáng sản có trữ lượng lớn như: Wonfram khoảng trên 100 triệu tấn,
Than khoảng 80 triệu tấn, Sắt khoảng 40 triệu tấn, Titan khoảng 8 triệu tấn;
Chì-Kẽm khoảng 0,5 triệu tấn, Đá vôi khoảng 200 triệu tấn). Với nguồn tài
nguyên phong phú, dồi dào, ngành Công nghiệp khai thác và chế biến khoáng
sản có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho
sự phát triển Kinh tế - xã hội của tỉnh. Tổng giá trị của ngành Công nghiệp
khai thác và chế biến khoáng sản chiếm tỷ trọng đáng kể, khoảng 40% tổng
giá trị sản lượng công nghiệp của toàn tỉnh. Cho đến nay, tỉnh Thái Nguyên
đã hoàn thành quy hoạch khai thác và sử dụng khoáng sản đến năm 2020, làm
cơ sở để phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, luyện kim, vật liệu xây dựng
trở thành mũi nhọn trong phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên diễn ra hết sức phức tạp, thể hiện ở việc cấp giấy phép thăm

dò, khai thác khoáng sản còn nhiều bất cập, chồng chéo, tình trạng thăm dò,
khai thác khoáng sản trái phép, tranh chấp mỏ, tàn phá môi trường đang diễn
ra khá phổ biến Một số biện pháp, giải pháp quản lý trong đề án chưa được
thực hiện hoặc thực hiện chậm so với kế hoạch, hiệu quả thấp như: Việc thanh
2

Số hóa bởi trung tâm học liệu
tra, kiểm tra công tác công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản ở
các đơn vị cấp huyện, xã để xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép.
Một thực tế không thể phủ nhận rằng, không dễ dàng kết hợp hài hoà
giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng
một cách hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, nhất là đối với nước ta, khi mà nền
kinh tế về cơ bản vẫn phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc khai
thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản, nhất là đối với các
nguồn tài nguyên khoáng sản không tái tạo là một nhân tố quan trọng góp
phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước nói
chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Xác định được tầm quan trọng của tài
nguyên khoáng sản, vấn đề quản lý và khai thác khoáng sản là một trong
những vấn đề quan trọng, cấp bách hiện nay, nếu quản lý và khai thác một cách có
hiệu quả sẽ góp phần vào mục tiêu chung là xây dựng và phát triển đất nước.
Xuất phát từ thực tế khách quan đó, tôi lựa chọn đề tài: “Một số giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản ở tỉnh
Thái Nguyên".
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài thực hiện nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác
khoáng sản trên địa bản tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống cơ sở lý luận về tài nguyên khoáng sản, quản lý hoạt động
khoáng sản và hiệu quả hoạt động khoáng sản. Trên cơ sở tham khảo thực tiễn

hoạt động quản lý khoáng sản của các nước trên thế giới để đúc rút bài học
kinh nghiệm quản lý hoạt động khoáng sản cho tỉnh Thái Nguyên.
- Tìm hiểu đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản ở tỉnh Thái Nguyên.
3

Số hóa bởi trung tâm học liệu
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và khai
thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn
công tác quản lý Nhà nước về khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên trong tình hình hiện nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản trên địa bản tỉnh Thái Nguyện
trong tình hình hiện nay.
- Địa bản nghiên cứu: Luận văn lựa chọn địa bàn nghiên cứu trên toàn
tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: 4 năm (2008 – 2011)
4. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1 – Tổng quan quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản
Chương 2 – Phương pháp nghiên cứu
Chương 3 – Thực trạng công tác quản lý nhà nước về khai thác khoáng
sản của tỉnh Thái Nguyên
Chương 4 – Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước về khai thác khoáng sản ở tỉnh Thái Nguyên.
4


Số hóa bởi trung tâm học liệu
Chƣơng 1
TỔNG QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN

1.1. Quản lý nhà nƣớc về khai thác khoáng sản
1.1.1. Khái niệm về tài nguyên khoáng sản
a. Tài nguyên
Theo nghĩa rộng tài nguyên gồm tất cả các nguồn vật liệu, năng lượng,
thông tin có trên Trái đất và trong vũ trụ mà con người có thể sử dụng phục
vụ cuộc sống và sự phát triển của nhân loại.
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai, được
hình thành, tồn tại trong tự nhiên và tất cả những gì thuộc về thiên nhiên mà
con người có thể khai thác, sử dụng thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của
mình.
Tài nguyên thường được phân thành tài nguyên thiên nhiên gắn liên với
các nhân tố thiên nhiên và tài nguyên con người gắn liên với nhân tố con
người và xã hội. Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất hữu dụng phục vụ cho
sự tồn tại và phát triển cuộc sống con người và thế giới động vật. Tài nguyên
thiên nhiên là một phần của các thành phần môi trường như rừng cây, đất đai,
nguồn nước, khoáng sản, cùng tất cả các loài động thực vật khác.
Tài nguyên thiên gồm: Tài nguyên vĩnh viễn như năng lượng mặt trời,
đây là một nguồn đến từ nguồn chính không bao giờ hết; Tài nguyên không
phục hồi tồn tại trong kho dự trữ được xác định trong những chỗ thay đổi
trong vỏ trái đất mà mỗi loài được cung cấp cho quá trình tự nhiên hoặc được
cung cấp rất lâu mà chúng được dùng. Theo quan điểm kinh tế, các tài nguyên
trên được xem như cạn kiệt nếu khai thác không hợp lý; Tài nguyên có thể
phục hồi là nguyên tài nguyên có thể cạn kiệt trong thời gian ngắn nếu được
sử dụng nhưng sẽ được thay thế qua một quá trình lâu dài [9].
5


Số hóa bởi trung tâm học liệu
Theo bản chất tự nhiên thì tài nguyên bao gồm:
Tài nguyên khoáng sản: là nguồn liệu tự nhiên có nguồn gốc vô cơ hoặc
hữu cơ và phần lớn nằm trong lòng đất. Quá trình hình thành loại tài nguyên
này có liên quan mật thiết đến lịch sử phát triển của vỏ trái đất trong một thời
gian dài hàng nghìn năm, có khi hàng trăm triệu năm.
Tài nguyên năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất xuất phát từ hai
nguồn chủ yếu là năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất. Năng lượng
mặt trời tồn tại ở dạng chính là bức xạ mặt trời, năng lượng sinh học, năng
lượng chuyển động của khí quyển và thủy quyển, năng lượng hóa thạch; Năng
lượng lòng đất biểu hiện ở các nguồn địa nhiệt, lửa và năng lượng phóng xạ.
Tài nguyên đất là một hỗn hợp phức tạp bao gồm các hợp chất vô cơ,
các mảnh vụn hữu cơ đã và đang bị phân ra, nước, không khí và vô số các vi
sinh vật đang sinh sống trong đó. Đồng thời, đất còn là môi trường sống của
con người và hầu hết sinh vật trên cạn, là nền móng cho toàn bộ các công
trình xây dựng phục vụ hoạt động kinh tế và xã hội.
Tài nguyên nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng cho tất cả các
sinh vật trên trái đất. Nước là nguồn cung cấp thực phẩm và nguyên liệu công
nghiệp. Nước rất cần cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, cho sinh hoạt
của con người. Nước còn được coi là một khoáng sản đặc biệt vì nó tàng trữ
một nguồn năng lượng lớn và lại hòa tan nhiều vật chất có thể khai thác phục
vụ cho nhu cầu nhiều mặt của con người.
Tài nguyên rừng là một hệ sinh thái phong phú nhất có trên mặt đất. Ở
đó, các loài thực vật đóng vai trò như một nhà máy khổng lồ cung cấp các
chất hữu cơ, cung cấp oxy và điều hòa khí hậu. Rừng cò là một guồng máy tự
điều chỉnh lưu lượng nước rất hiệu quả trên trái đất. Như vậy, rừng có ý nghĩa
trong sự phát triển kinh tế xã hội, sinh thái và môi trường.
6


Số hóa bởi trung tâm học liệu
Tài nguyên biển là một tài nguyên vô tận mà trời phú cho con người.
Các nguồn lợi hải sản quan trọng phải kể đến là cá, tôm, cua, rong biển
Tài nguyên khí hậu, cảnh quan bao gồm các yếu tố về thời tiết, khí hậu
và địa hình cảnh quan. Địa hình cảnh quan là một dạng tài nguyên mới với đất
đại, rừng xanh, động thực vật, nước và không khí hợp thành nguồn tài nguyên
môi trường thống nhất. Nó không những là nền tảng để phát triển công nghiệp
du lịch mà còn đem lại sự hưởng thụ về tinh thần và tâm lí cho con người, duy
trì trạng thái cân bằng, cung cấp nguồn nguyên liệu sản xuất. [10]
b. Khoáng sản
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: “Khoáng sản là những
thành tạo khoáng vật trong vỏ trái đất có thể sử dụng trong nền kinh tế quốc
dân”. [20].
Luật Khoáng sản năm 2010 quy định: “Khoáng sản là khoáng vật,
khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại
trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải
của mỏ”. [6].
Khoáng sản cũng có thể được hiểu là nguồn nguyên liệu tự nhiên có
trong nguồn gốc vô cơ hoặc hữu cơ, tuyệt đại bộ phận nằm trong lòng trái đất
và quá trình hình thành có liên quan mật thiết đến quá trình lịch sử phát triển
của vỏ trái đất trong thời gian dài từ hàng ngàn năm đến hàng chục năm, hàng
triệu năm. [4].
Như vậy, dù được hiểu bằng khái niệm nào thì khoáng sản đều là tích tụ
vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn chất trong vỏ trái đất mà ở trong đó
điều kiện hiện tại con người có đủ khả năng lấy ra các nguyên tố có ích, sử
dụng trực tiếp chúng phục vụ nền kinh tế quốc dân hoặc trong đời sống hàng
ngày.
7

Số hóa bởi trung tâm học liệu

Khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ mà sau này có thể khai thác
lại cũng là khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một
khu vực gọi là mỏ khoáng sản.
Khoáng sản có ý nghĩa rất lớn và quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương và mỗi vùng. Khoáng sản là
nguồn vật chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải cho con người.
Khoáng sản được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
Theo nguồn gốc có khoáng sản nội sinh (sinh ra trong lòng đất) và
khoáng sản ngoại sinh (sinh ra trên bề mặt trái đất).
Theo dạng tồn tại thì có khoáng sản rắn, khoáng sản lỏng và khoáng sản khí.
Theo thành phần hóa học có khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim
và khoáng sản cháy.
Trong hoạt động khoáng sản có hai hoạt động chính là thăm dò khoáng
sản và hoạt động khai thác khoáng sản.
Thăm dò khoáng sản là hoạt động nhằm xác định trữ lượng, chất lượng
khoáng sản và các thông tin khác phục vụ khai thác khoáng sản.
Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản bao gồm:
xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có
liên quan.
Khai thác tận thu khoáng sản là hoạt động khai thác khoáng sản còn lại
ở bãi thải của mỏ đã có quyết định đóng cửa.
c. Đặc điểm về tài nguyên khoáng sản Việt Nam
Hiện nay, các nhà địa chất đã phát hiện trên đất nước ta có gần 5.000
mỏ và điểm mỏ của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau. Những loại khoáng
sản trữ lượng lớn đáng kể là dầu khí (tính về sản lượng khai thác hàng năm,
Việt Nam đứng thứ ba ở Đông Nam Á sau Indonesia và Malaisia), than
khoáng, urani, địa nhiệt, quặng nhôm, đất hiếm, titan, wolfram, crôm, sắt,
8

Số hóa bởi trung tâm học liệu

mangan, đồng, vàng, bạc, nickel, thiếc Ngoài các loại khoáng sản kể trên, từ
năm 1987 nước ta đã phát hiện nhóm đã quý ruby, saphia, peridot với trữ
lượng không lớn. Riêng ruby ở Yên Bái và Nghệ An được thế giới đánh giá
có chất lượng cao đạt chất lượng quốc tế, tương đương với ruby nổi tiếng của
Myanmar [19]
Nếu so sánh tiềm năng khoáng sản Việt Nam với các nước trong khu
vực Đông Nam Á và trên thế giới thì có thể xếp nước ta vào hàng các nước có
tiềm năng khoáng sản đáng kể.
Đặc điểm đáng chú ý về tài nguyên khoáng sản của nước ta: Thứ nhất,
Nước ta không có tiềm năng lớn về các khoáng sản năng lượng. Dầu khí chỉ
đảm bảo khai thác được khoảng 30 năm nữa, do vậy cần tăng cường tìm kiếm
thăm dò. Than biến chất cao với trữ lượng đã được đánh giá đạt hàng tỷ tấn
cần phải khai thác sâu hàng trăm mét và hơn nữa mới bảo đảm nhu cầu phát
triển kinh tế của đất nước. Than biến chất thấp ở dưới sâu đồng bằng Sông
Hồng tuy dự báo có tài nguyên đến vài trăm tỷ tấn nhưng độ sâu hàng ngàn
mét dưới lòng đất, điều kiện khai thác cực kỳ khó khăn và phức tạp cả về
công nghệ, an ninh xã hội và môi trường. Tiềm nang Urani và địa nhiệt không
đáng kể và chưa được thăm dò để đánh giá trữ lượng cụ thể. Thứ hai, Nước ta
có nhiều khoáng kim loại nhưng trữ lượng không nhiều. Rất nhiều khoáng sản
kim loại (vàng, bạc, đồng, thiếc, kẽm, chì ) thế giới rất cần trong khi trữ
lượng lại có hạn, chỉ khai thác mấy chục năm là cạn kiệt nên không đảm bảo
tiêu dùng trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế. Một số ít khoáng sản như
Bauxit, đất hiếm, ilmenit có trữ lượng lớn nhưng các khoáng sản này trên thế
giới các quốc gia khác cũng có trữ lượng tương đương hoặc lớn hơn nước ta.
Trữ lượng Bauxit trên thế giới là 27 tỉ tấn với sản lượng khai thác hàng năm
khoảng 200 triệu tấn. Đất hiếm trên thế giới đạt 99 triệu tấn, nhu cầu hàng
năm chỉ khoảng 125.000 tấn. Trữ lượng Titan trên thế giới đạt hơn 2 tỷ tấn,
9

Số hóa bởi trung tâm học liệu

hàng năm thế giới tiêu thụ hơn 6 triệu tấn titan và dự báo khoảng 128 năm
nữa thế giới sẽ khai thác hết. Thứ ba, Nước ta có nhiều khoáng chất công
nghiệp và vật liệu xây dựng phục vụ tốt cho phát triển kinh tế đất nước và có
thể xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên này không có giá trị kinh tế cao.
Thứ tư, Các loại khoáng sản quý có giá trị kinh tế cao như đá quý, ruby, kim
cương chưa xác định rõ trữ lượng, các loại đá quý khác cũng chưa được
khảo sát và phát hiện.
Tóm lại, nước ta có nhiều khoáng sản nhưng trữ lượng hầu hết chưa đủ
lớn. Một số khoáng sản như Bauxit, đất hiếm, ilmenit có trữ lượng tầm cỡ thế
giới nhưng trên thế giới nhiều quốc gia cũng có những loại khoáng sản này. Điều
đó có nghĩa là loại khoáng sản thế giới cần nhiều thì trữ lượng của nước ta lại
nhỏ, loại khoáng sản nước ta có nhiều thì thế giới lại không cần nhiều hoặc
không có nhu cầu. Điều này cần phải quan tâm nghiên cứu đánh giá khách quan
để xác định chiến lược lược sử dụng tài nguyên khoáng sản đúng đắn, hợp lý,
phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước [19].
1.1.2. Vai trò của tài nguyên khoáng sản trong phát triển kinh tế - xã hội
Tài nguyên khoáng sản là một yếu tố nguồn lực quan trọng của quá
trình sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài nguyên, đất
đai thì sẽ không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của con người. Tuy
nhiên, đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên chỉ là
điều kiện cần và đủ. Trên thực tế, nếu công nghệ là cố định thì lưu lượng tài
nguyên sẽ là mức hạn chế tuyệt đối về sản xuất vật chất trong ngành công
nghiệp sử dụng khoáng quặng làm nguyên liệu đầu vào như nhôm, thép Tài
nguyên khoáng sản chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi biết khai thác và sử
dụng một cách hiệu quả. Thực tế đã có nhiều quốc gia mặc dù có trữ lượng tài
nguyên phong phú, đa dạng, điều kiện thuận lợi song vẫn là nước ngoài và
10

Số hóa bởi trung tâm học liệu
kém phát triển. Ngược lại nhiều quốc gia có ít tài nguyên khoáng sản nhưng

lại trở thành nước phát triển như Nhật Bản, Anh, Pháp
Có thể nói, tài nguyên thiên nhiên khoáng sản là yếu tố thúc đẩy sản
xuất phát triển, các nước đang phát triển thường quan tâm đến việc xuất khẩu
sản phẩm thô, đó những sản phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn tài
nguyên thiên nhiên của đất nước, chưa qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng là cơ sở để phát triển các ngành sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp năng lượng,
công nghiệp vật liệu xây dựng
Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tạo tích lũy vốn và phát triển ổn định.
Đối với hầu hết các nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài, gian
khổ liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước
ngoài. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, nhờ những ưu đãi về tài nguyên thiên
nhiên nên có thể rút ngắn quá trình tích lũy vốn bằng cách khai thác các sản
phẩm thô để bán hoặc để đa dạng nền kinh tế tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu
cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Như trên chúng ta thấy, nguồn tài
nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khai thác,
công nghiệp chế biến và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành kinh tế khác,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Sự giàu có về tài nguyên,
đặc biệt về năng lược giúp cho một quốc gia ít lệ thuộc hơn vào các quốc gia
khác và có thể tăng trưởng một cách ổn định, độc lập khi thị trường tài
nguyên thế giới rơi vào tình thái bất ổn [20].
1.1.3. Quản lý Nhà nước về khai thác khoáng sản [8], [14]
1.1.3.1. Sự hình thành và phát triển của luật khoáng sản
Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân được Quốc hội
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 9/11/1946, đây là đạo luật
cơ bản của Nhà nước, đạo luật gốc làm cơ sở cho việc ban hành các đạo luật
11

Số hóa bởi trung tâm học liệu
khác. Tài nguyên khoáng sản đã được khai thác và có những đóng góp lớn

vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước trong thời kỳ chiến
tranh và khôi phục hậu quả chiến tranh. Việc điều chỉnh các mối quan hệ về
khai thác, sử dụng khoáng sản chủ yếu được thực hiện bằng văn bản của các
cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.
Dưới yêu cầu thực tế đối với công tác quản lý tài nguyên khoáng sản,
Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành pháp
lệnh về tài nguyên khoáng sản (ngày 28/7/1989).
Đạo luật đầu tiên quy định về quản lý, bảo vệ, điều tra cơ bản địa chất
về tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản đã được Quốc hội thông
qua ngày 20/3/1996 là Luật khoáng sản. Luật này sau đó được sửa đổi, bổ
sung và thông qua ngày 14/6/2005.
Nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa và đáp ứng yêu cầu thực tế trong hoạt
động quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản. Ngày 17/11/2010, Luật
khoáng sản được Quốc hội khóa XII thông qua. Đây là đạo luật mới nhất quy
định việc điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, bảo vệ khoáng sản chưa khai
thác, thăm dò, khai thác khoáng sản, quản lý nhà nước về khoáng sản trong
phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp vùng lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ta. Luật khoáng sản được
ban hành như một đạo luật độc lập để điều chỉnh các mối quan hệ liên quan
đến tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản.
Trải qua 17 năm với 02 lần ban hành, 01 lần sửa đổi một số điều trong
luật khoáng sản đã thể hiện tính phức tạp trong công tác quản lý nhà nước,
thực tiễn của việc ban hành và thi hành các quy định pháp luật đối với tài
nguyên khoáng sản là tài sản quan trọng của quốc gia.
1.1.3.2. Hiện trạng thi hành luật trong hoạt động khai thác khoáng sản
a. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác khoáng sản
12

Số hóa bởi trung tâm học liệu
Luật khoáng sản khẳng định: “Tài nguyên khoáng sản trong phạm vi

đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều
thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý”.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khoáng sản. Chính phủ phân
công các Bộ, ngành ở Trung ương và giao nhiệm vụ cho Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện các nhiệm vụ cụ thể về quản
lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản.
Việc ban hành các văn bản để hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản đã
được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương và Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố ban hành kịp thời, đồng bộ, cụ thể hóa các
quy định của Luật để áp dụng thống nhất. Pháp lệnh về tài nguyên (1989) có
tổng số 54 văn bản hướng dẫn thi hành; Luật khoáng sản (1996) có 210 văn
bản hướng dẫn thi hành; Luật khoáng sản (sửa đổi, bổ sung năm 2005) có 153
văn bản hướng dẫn; Luật khoáng sản (2010) số lượng các văn bản hướng dẫn
thi hành luật rút xuống còn 5, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý
khoáng sản và khai thác khoáng sản của các Bộ, ngành thuộc Trung ương và
các tỉnh/thành phố áp dụng một cách thống nhất và toàn diện.
Công tác thanh tra, kiểm tra đã được các cơ quan có chắc năng triển
khai thực hiện có trọng tâm và trọng điểm, tổ chức nhiều cuộc kiểm tra liên
ngành về lĩnh vực bảo vệ tài nguyên khoáng sản hoặc về các vấn đề liên quan
trong hoạt động khoáng sản như: môi trường, bảo vệ cảnh quan, di tích lịch
sử, văn hóa, an ninh quốc phòng, nông nghiệp, xuất khẩu khoáng sản, khai
thác khoáng sản trái phép,v.v.
Từ khi luật khoáng sản (1996) có hiệu lực đến tháng 7/2011, các cơ
quản quản lý trung ương (cấp Bộ) đã cấp 460 giấy phép, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh cấp hơn 10.000 giấy phép (đến nay còn khoảng 4.000 giấy phép đang còn
13

Số hóa bởi trung tâm học liệu
hiệu lực) cho các doanh nghiệp khai thác các loại khoáng sản. Việc phân cấp

rõ ràng trong luật khoáng sản đã tạo ra cơ chế minh bạch và hạn chế trồng
chéo trong cấp phép khai thác khoáng sản. Bước đầu đem lại hiệu quả trong
hoạt động quản lý, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước nói chung và từng địa phương nói riêng.
b. Quản lý hoạt động khai thác khoáng sản
Các tổ chức, cá nhân tham gia khai thác khoáng sản gồm doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, hợp tác xã. Các tổ chức này có quy định chức năng khai thác khoáng
sản trong quyết định cho phép thành lập hoặc có trong đăng ký ngành nghề
khai thác khoáng sản theo quy định.
Theo thống kê, hiện nay có gần 2.000 tổ chức (doanh nghiệp) đang hoạt
động khai thác khoáng sản trên phạm vi cả nước. Số lượng các doanh nghiệp
tham gia hoạt động khai thác khoáng sản làm việc liệu xây dựng chiếm đa số
(khoảng 80%). Các doanh nghiệp khai thác khoáng sản than đá, apatit, đồng,
chì, kẽm, titan, đá vôi xi măng, đá hoa trắng có quy mô đầu tư lớn, công nghệ
khai thác tiên tiến. Còn lại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản khác, đặc
biệt là khai thác khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường đều có quy mô
vừa và nhỏ, công nghệ khai thác lạc hâu, thậm chí khai thác khoáng sản bằng
phương pháp thủ công hoặc bán cơ giới.
Do đặc thù của các loại hình doanh nghiệp tham gia hoạt động khai
thác khá đa dạng và phong phú nên việc chấp hành luật khoáng sản cũng
không đồng nhất. Từ thực tế cho thấy, tồn tại chủ yếu của các doanh nghiệp
khai thác khoáng sản:
- Không có dự án đầu tư hoặc dự án đầu tư được lập sơ sài, chưa đúng
quy định. Các thông tin chính về khoáng sản, công nghệ, thị trường và thông tin
khác có liên quan sử dụng để lập dự án đầu tư chưa đầy đủ, thiếu chính xác.
14

Số hóa bởi trung tâm học liệu
- Nhiều mỏ được đưa vào khai thác nhưng không có kết quả thăm dò,

đánh giá trữ lượng khoáng sản, hoặc kết quả thăm dò chưa đáp ứng đúng yêu
cầu theo quy chuẩn kỹ thuật thăm dò khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản
chưa được khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả.
- Hoạt động khai thác mỏ không có thiết kế mỏ được thẩm định, phê
duyệt theo quy định. Phần lớn là các mỏ khai thác khoáng sản vật liệu xây
dựng thông thường, các mỏ khai thác khoáng sản ở quy mô nhỏ.
- Có tình trạng phân chia mỏ thành nhiều khu vực nhỏ cho nhiều doanh
nghiệp cùng khai thác nên dẫn đến tình trạng lãnh phí tài nguyên khoáng sản,
khai thác không đảm bảo an toàn lao động, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn.
- Phần lớn các lãnh đạo điều hành mỏ chưa được bổ nhiệm đúng về yêu
cầu năng lực, trình độ. Khai thác mỏ chưa đúng thiết kế. An toàn lao động
trong khai thác mỏ chưa tốt.
- Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ báo cáo định kỳ 6
tháng và cuối năm, lập bản đồ hiện trạng khai thác mỏ kèm theo báo cáo định
kỳ gửi các cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản theo quy định. Khai thác
vượt công suất, khai thác ra ngoài ranh giới theo quy định đã được ghi tại giấy
phép khai thác mỏ.
- Bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, đất nông nghiệp trong hoạt
động khai thác khoáng sản chưa được thực hiện đầy đủ theo báo cáo đánh giá tác
động môi trường, bản cam kết bảo vệ môi trường, dán án đóng cửa mỏ.
c. Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép
Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép tồn tại ở nhiều địa phương.
Loại khoáng sản bị khai thác chủ yếu là vàng sa khoáng, thiếc, vonfram, titan
sa khoáng, mangan, sắt, than đá, cát sông suối. Vàng sa khoáng và cát sông
suối là các đối tượng bị khai thác trái phép nhiều trên địa bàn các địa phương
trong cả nước. Hoạt động khai thác trái phép vàng và cát sông suối rất khó
15

Số hóa bởi trung tâm học liệu
kiểm soát, nguyên nhân là do công tác quản lý yếu kém của chính quyền địa

phương (cấp xã, huyện), khoáng sản dễ khai thác bằng phương pháp thủ công
và bán cơ giới, quy định trách nhiệm quản lý chưa rõ ràng và đồng bộ, thiếu
kinh phí cho công tác bảo vệ tài nguyên khoáng sản.
1.1.3.3. Những quy định mới của Luật khoáng sản đối với hoạt động khai thác
khoáng sản
Thứ nhất, chuyển đổi từ cơ chế “xin – cho” sang cơ chế đấu giá quyền
khai thác khoáng sản. Đây là chính sách nhằm đảm bảo tính công bằng, bình
đẳng cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để lựa chọn được nhà đầu tư
có năng lực. Việc cấp quyền khai thác khoáng sản phải thực hiện trên cơ sở
kết quả đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhằm bảo đảm tính công khai,
minh bạch, tăng thu cho ngân sách nhà nước. Việc cấp quyền khai thác
khoáng sản không thông qua đấu giá chỉ được thực hiện ở những khu vực do
Thủ tướng Chính phủ hoặc Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định dựa trên các tiêu
chí do Chính phủ ban hành và áp dụng thông nhất chung cả nước.
Thứ hai, Nhà nước thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Việc xác định
mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản phải căn cứ vào trữ lượng, chất
lượng, điều kiện khai thác khoáng sản và sẽ được chính phủ quy định chi tiết.
Thứ ba, Phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy phép thăm dò,
khai thác đối với cac skhu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ. Những khu
vực khoáng sản này do Bộ Tài nguyên và Môi trường khoanh định, công bố.
Hoạt động quản lý khai thác khoáng sản đã được Đảng và Nhà nước
quan tâm, xác định là một trong những nguồn lực để phát triển kinh tế - xã
hội của các địa phương cũng như của quốc gia. Vì vậy, Luật khoáng sản đã
hình thành và phát triển với sự bổ sung, điều chỉnh kịp thời nhằm đáp ứng
yêu cầu thực tế trong công tác quản lý và điều hành. Luật khoáng sản đã
góp phần tích cực vào việc củng cố và phát triển địa vị nhà nước pháp
16

Số hóa bởi trung tâm học liệu
quyền trong lĩnh vực quản lý tài nguyên khoáng sản. Luật khoáng sản đã

quy định hành lang pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức
cá nhân, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Luật này đã tạo cho cả
hệ thống từ cơ quan quản lý Nhà nước đến người dân tham gia hoạt động
khoáng sản xác định mục tiêu: bảo vệ tài nguyên khoáng sản, khai thác và
sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản và xây dựng ngành công
nghiệp khai khoáng phát triển bền vững.
1.2. Kinh nghiệm quản lý Nhà nƣớc về khai thác khoáng sản của một số
nƣớc trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước về khai thác khoáng sản của một số
nước trên thế giới [3], [5]
a. Kinh nghiệm Philippines: Khi thế giới đang đứng trước thách thức cạn kiệt
tài nguyên và xu thế cạnh tranh toàn cầu về tài nguyên khoáng sản, nhiều
quốc gia chậm phát triển hoặc đang phát triển nhưng có lợi thế về tài nguyên
đang trở thành đối tượng để các quốc gia và các tập đoàn khai khoáng có tiềm
lực gây ảnh hưởng và giành quyền khai thác tài nguyên.
Đông Nam Á, khu vực giàu tài nguyên khoáng sản vào loại bậc nhất thế
giới, luôn là đích ngắm của nhiều công ty, tập đoàn khai thác lớn trên thế giới.
Trước tình hình đó, nhiều quốc gia đã bắt đầu tiến hành cùng với việc
điều chỉnh luật và các chính sách liên quan cho ngành công nghiệp khai
khoáng để bảo đảm việc duy trì nguồn tài nguyên của mình cũng như loại bỏ
dần vai trò độc tôn của các doanh nghiệp nước ngoài.
Chính phủ Philippines vừa tuyên bố sẽ nâng thuế khai thác đối với việc
khai khoáng của các công ty nước ngoài. Tương tự nhiều quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á, Philippines là quốc gia có trữ lượng tài nguyên địa chất
vào loại nhiều nhất thế giới. Ước tính, Philippines xếp thứ 3 thế giới về trữ
lượng đồng, Quốc gia này cũng có rất nhiều mỏ vàng, niken và kẽm. Đây hiện
17

Số hóa bởi trung tâm học liệu
cũng đang là một trong những quốc gia có thị trường nóng nhất thế giới. gần

bằng với Trung Quốc.
Hiện tại, Philippines đang chuẩn bị điều chỉnh tăng thuế đối với các dự
án khai thác khoáng sản, nhằm tăng cường chất lượng của ngành công nghiệp
và thu thêm tiền về cho chính phủ. Quy định mới cũng sẽ loại bỏ những ưu
đãi thuế mà các doanh nghiệp nước ngoài được hưởng trước đây khi tiến hành
khai thác tại Philippines.
Bộ trưởng Tài chính của Philippines phát biểu, "Luật khai thác khoáng
sản của Philippines hiện vẫn còn quá tự do so với các quốc gia khác trên thế
giới như Australia hay Canada. Chúng tôi đang cố gắng duy trì việc bảo vệ
môi trường trong khi khai thác cũng như tăng cường các khoản thu cho chính
phủ. Điều này sẽ giúp chúng tôi đầu tư nhiều hơn vào việc bảo vệ môi trường,
giáo dục và đào tạo."
Bất chấp việc các doanh nghiệp nước ngoài tại Philippines tỏ ra không
đồng tình và cho rằng quy định mới sẽ ảnh hưởng tới việc mở rộng các mỏ
mới, ông Purisima khẳng định, dù quyết định này sẽ có thể gây ra một số tác
động tiêu cực ngắn hạn cho ngành công nghiệp khai khoáng của Philippines,
nhưng quốc gia này hiện đang hướng tới những mục tiêu dài hạn hơn và vẫn
"ủng hộ việc khai khoáng".
b. Kinh nghiệm Indonesia: Indonesia - nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á hiện
nắm giữ một số mỏ khoáng sản giàu nhất thế giới, như mỏ vàng Grasberg lớn
nhất thế giới đang do tập đoàn Mỹ Freeport khai thác. Lĩnh vực khai khoáng
hiện đóng góp khoảng 12% GDP của Indonesia.
Sức ép đòi Nhà nước kiểm soát nhiều hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên
của đất nước đã gia tăng ở Indonesia kể từ khi giá hàng hóa tăng mạnh trong
thập kỷ vừa qua. Chính phủ Indonesia đã tiến hành các quy định nhằm hạn
chế xuất khẩu thiếc, đồng thời cấm xuất khẩu một số quặng kim loại chưa qua
18

Số hóa bởi trung tâm học liệu
chế biến vào năm 2014, nhằm tạo điều kiện cho ngành khai khoáng trong

nước phát triển và nâng cao giá trị gia tăng của các mặt hàng xuất khẩu.
Hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững, nhiều nước Đông Nam Á
đang thắt chặt dòng vốn đầu tư nước ngoài vào khai thác khoáng sản nhằm
bảo vệ nguồn tài nguyên của mình.
Hành động này của Indonesia nằm nỗ lực gia tăng sự kiểm soát của
Nhà nước cũng như nâng cao lợi nhuận từ nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú. Chính phủ Indonesia vừa đưa ra quyết định buộc tất cả các công
ty nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực khai khoáng ở nước này phải bán bớt
cổ phần tại các cơ sở đã hoạt động 10 năm, với số lượng sao cho sở hữu trong
nước của Indonesia ít nhất là 51%. Trong thời gian tiếp theo, Chính phủ
Indonesia sẽ thực hiện việc giảm dần cổ phần của các doanh nghiệp nước
ngoài trong lĩnh vực khai thác khoáng sản từ 80% xuống còn 49%.
Hiện tại, chính phủ Indonesia cũng đang tiến hành đàm phán lại hợp
đồng với các công ty khai khoáng lớn của nước ngoài hiện đang hoạt động ở
nước này, như Freeport McMoRan Copper & Gold Inc và Newmont Corp.
Một số nhà phân tích cho rằng việc giới hạn sở hữu nước ngoài trong
lĩnh vực khai khoáng của Indonesia và Philippines có thể ảnh hưởng đến một
số mỏ đang khai thác hiện nay, cũng như có thể gây tâm lý lo ngại cho các
nhà đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn vốn nước ngoài đầu
tư vào các mỏ khai thác có trữ lượng dồi dào của các quốc gia này.
1.2.2. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước về khai thác khoáng sản ở Việt Nam
[14]
Chủ trương, đường lối và chính sách về công tác quản lý, khai thác
khoáng sản đã được Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, lãnh đạo và chỉ đạo
rất sớm.
Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV năm 1976 đã chỉ rõ, cần
19

Số hóa bởi trung tâm học liệu
tập trung vào việc tăng cường công tác điều tra, ưu tiên phát triển công

nghiệp khai khoáng gắn với sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và tăng
cường công tác BVMT trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Tiếp theo đó,
nhiều văn kiện, Nghị quyết của Đảng đã nêu ra các chủ trường, chính sách và
chỉ đạo công tác quản lý, khai thác khoáng sản và BVMT.
Năm 2011, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày
25/4/2011 về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng
đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030. Theo đó, mục tiêu của Nghị quyết là:
“Phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành công tác lập bản đồ địa chất và điều tra
khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 và các diện tích biển ven bờ sâu đến 30m nước.
Xây dựng chuyên ngành điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản ở mức hiện
đại,…; Nâng tỷ trọng ngành công nghiệp khai khoáng trong GDP từ khoảng
10% hiện nay lên 15-20% vào năm 2020 ….; Tăng dự trữ một số khoáng sản
chiến lược vì lợi ích lâu dài của quốc gia”.
Trên cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo đó, Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành,
UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đã kịp thời ban hành các
văn bản để triển khai như sau:
a. Về việc ban hành Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội
Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật Khoáng sản năm 1996, tiếp theo
năm 2005, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Khoáng sản năm 1996 và đến năm 2010 Quốc hội khóa XII đã thông
qua Luật khoáng sản (sửa đổi), sau đây gọi là Luật Khoáng sản năm 2010.
Luật Khoáng sản năm 2010 đã bổ sung 48 điều mới hoàn toàn về nội dung và
sửa đổi, bổ sung 38 điều của Luật khoáng sản năm 1996.
Luật Khoáng sản Việt Nam từ năm 1996, theo từng thời kỳ sửa đổi, bổ
sung để đáp ứng với yêu cầu của công tác quản lý khai thác khoáng sản như:
20

Số hóa bởi trung tâm học liệu
Năm 1996, cách đây 12 năm Luật Khoáng sản ra đời nhằm đáp ứng yêu

cầu của công cuộc đổi mới, kêu gọi các nguồn đầu tư cho ngành khai khoáng
nước nhà còn rất non trẻ, thiếu và yếu. Mục đích của giai đoạn đó là tạo mọi
nguồn lực để phát triển đất nước – giai đoạn phát triển theo chiều rộng. Công
tác BVMT trong công tác khai khoáng chưa được quan tâm nhiều.
Năm 2005, Luật Khoáng sản sửa đổi một số điều nhằm tháo gỡ những
khó khăn trong công tác quản lý điều hành lĩnh vực phức tạp này. Với sự
thông thoáng của Luật 1996 thì cách quản lý tập trung rất khó đáp ứng. Vì thế
Luật 2005 ra đời có thể coi như bước đột phá phân cấp mạnh mẽ cho các
chính quyền địa phương.
Năm 2010, Luật Khoáng sản được sửa đổi một cách toàn diện. Đây là
thời kỳ đất nước thoát ra khỏi danh sách các nước nghèo bước vào đội ngũ
các nước phát triển trung bình. Từ chỗ phát triển theo chiều rộng, đường lối
phát triển của chúng ta theo chiều sâu kết hợp hài hòa với chiều rộng phát
triển đất nước một cách bền vững. Theo đó, Luật Khoáng sản sửa đổi năm
2010 phải đáp ứng yêu cầu công tác khai thác khoáng sản cần phải chỉnh đốn,
khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ tài nguyên, thiên nhiên, khai thác khoáng
sản gắn với BVMT, sử dụng tài nguyên hợp lý và tiết kiệm.
b. Về ban hành Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định, Chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư, Thông tư liên tịch của các bộ và cơ
quan ngang bộ
Trên cơ sở các văn bản của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ
chế, chính sách nhằm bảo đảm khoáng sản được bảo vệ, khai thác, sử dụng
hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả; đầu tư, tổ chức thực hiện điều tra cơ bản địa
chất về khoáng sản theo chiến lược, quy hoạch khoáng sản; đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển công nghệ trong
công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản. Việc khuyến khích đầu tư
21

Số hóa bởi trung tâm học liệu
khai thác khoáng sản gắn với chế biến, sử dụng hợp lý khoáng sản để làm ra

sản phẩm kim loại, hợp kim hoặc các sản phẩm khác có giá trị và hiệu quả
KT-XH cao đã được chú trọng. Chính sách xuất khẩu khoáng sản trong từng
thời kỳ được điều chỉnh phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững KT-XH,
bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Từ khi có Luật Khoáng sản năm 1996, Luật BVMT năm 2005 đến hết
tháng 7 năm 2011, theo Báo cáo của Chính phủ, Chính phủ, các Bộ, ngành
liên quan đã ban hành một số lượng lớn các văn bản QPPL liên quan đến quản
lý, khai thác khoáng sản gắn với BVMT, về khá đẩy đủ góp phần quản lý,
khai thác khoáng sản gắn với BVMT đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH của
đất nước. Cụ thể:
Theo Báo cáo của Chính phủ đã có 217 văn bản QPPL về khoáng sản,
môi trường trong khai thác khoáng sản và các văn bản liên quan đến khoáng
sản (đất đai, nước, bảo vệ và phát triển rừng v.v ), gồm: 47 Nghị quyết, Nghị
định của Chính phủ; 15 Chỉ thị, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 119
Quyết định, Thông tư và Thông tư liên tịch của các Bộ: Công nghiệp (nay là
Công thương), TN&MT, Xây dựng, Tài chính, 36 Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo điều hành trong quản lý khoáng sản.
Trong số đó có 143 văn bản quản lý khoáng sản (59 văn bản còn hiệu
lực); các bộ, ngành có 120 văn bản (Quyết định, Thông tư, Thông tư liên
tịch); có 37 văn bản thuộc lĩnh vực môi trường trong khai thác khoáng sản (27
văn bản còn hiệu lực); còn lại 37 văn bản QPPL là thuộc lĩnh vực khác có liên
quan.
Sau khi Luật Khoáng sản (sửa đổi) năm 2010 thông qua, tính đến tháng
5/2012 Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng: Ban hành 03 Nghị định liên quan,
gồm Nghị định 74/2011/NĐ-CP ngày 25/8/2011 về phí BVMT đối với khai
thác khoáng sản, Nghị định 15/2012/NĐ-CP ngày 9/3/2012 về quy định chi
22

Số hóa bởi trung tâm học liệu
tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản, Nghị định 22/2012/NĐ-CP

ngày 26/3/2012 quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản; Thủ tướng
Chính phủ ban hành 01 Quyết định (phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến
năm 2020, tầm nhìn 2030); Chính phủ/VPCP ban hành 03 văn bản chỉ đạo
điều hành liên quan đến hoạt động khoáng sản; Các Bộ ngành đã ban hành 3
văn bản hướng dẫn. Như vậy, liên quan đến lĩnh vực khoáng sản, BVMT
trong khai thác khoáng sản hiện có 88 văn bản QPPL (61 văn bản về khoáng
sản, 27 văn bản về môi trường trong khai thác khoáng sản) và 24 văn bản chỉ
đạo điều hành của Thủ tướng Chính phủ còn hiệu lực; Cùng với hệ thống văn
bản QPPL nêu trên, việc ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN, Tiêu chuẩn
ngành - TCN (sau này là quy chuẩn kỹ thuật-QCVN), nhất là bộ các quy chuẩn
môi trường trong khai thác khoáng sản đã góp phần tăng cường hiệu lực QLNN
về khoáng sản và khai thác, sử dụng hợp lý khoáng sản gắn với BVMT. Đây là
một trong những công cụ pháp lý quan trọng trong việc thẩm định, kiểm tra,
giám sát quá trình thực hiện các dự án khai thác khoáng sản, đóng góp thiết
thực cho công tác quản lý môi trường. (Xây dựng báo cáo ĐTM và các quy
hoạch môi trường; đánh giá hiện trạng và diễn biến môi trường; hoạt động
thanh kiểm tra và giải quyết khiếu nại). Nhìn chung, việc ban hành các tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật về BVMT được thực hiện và từng bước hoàn
thiện, đã tạo được hiệu quả nhất định trong công tác quản lý và BVMT trong
khai thác khoáng sản; tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức, cá nhân tham gia
hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản, chấp hành và tuân thủ các quy định của
pháp luật về BVMT. Phần lớn các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, an toàn
trong khai thác khoáng sản đang được áp dụng trong quá trình lập dự án đầu tư,
thiết kế khai thác mỏ cũng như giám sát quá trình thực hiện của các tổ chức, cá
nhân khai thác khoáng sản. Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường
đang sử dụng trong hoạt động khai thác khoáng sản cũng được sử dụng để lập
23

Số hóa bởi trung tâm học liệu
Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hoặc Bản cam kết BVMT là

công cụ pháp lý để kiểm tra quá trình thực hiện dự án.
c. Về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Cùng với hệ thống văn bản QPPL cấp Trung ương, ở HĐND và UBND
cấp tỉnh cũng đã ban hành nhiều văn bản QPPL thuộc thẩm quyền để triển
khai thi hành Luật Khoáng sản và BVMT trong hoạt động khoáng sản trên địa
bàn địa phương, đặc biệt từ khi có Luật Khoáng sản sửa đổi và bổ sung một
số điều năm 2005.
Theo số liệu thống kê từ 56/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
tính đến tháng 7 năm 2011, HĐND và UBND cấp tỉnh các địa phương đã ban
hành 552 văn bản QPPL bao gồm 231 văn bản QPPL thuộc thẩm quyền (17
Nghị quyết của HĐND, 214 quyết định của UBND), và 321 văn bản chỉ đạo
điều hành trong QLNN về khoáng sản gắn với BVMT (trong đó có 478 văn
bản thuộc lĩnh vực khoáng sản và 74 thuộc lĩnh vực BVMT trong hoạt động
khoáng sản).
Việc ban hành các văn bản QPPL đã nhanh chóng tạo hành lang pháp
lý cho việc triển khai các hoạt động khai khoáng ở địa phương một cách kịp
thời. Có một số tỉnh đã ban hành với số lượng văn bản lớn như Cao Bằng (23
văn bản), Bình Thuận (24 văn bản), Bắc Giang (31 văn bản), Lâm Đồng (37
văn bản), Đồng Nai (95 văn bản). Một số tỉnh có ít văn bản QPPL như: Hải
Dương, Nam Định, Quảng Trị (1 văn bản); Hòa Bình, Gia Lai, Cần Thơ (2
văn bản)
d. Một số nhận xét và đánh giá chung về kết quả đạt được
Nhìn chung, hệ thống chính sách, văn bản QPPL từ trung ương đến địa
phương về quản lý, khai thác khoáng sản và BVMT trong hoạt động khoáng
sản được ban hành khá nhiều và sửa đổi khá kịp thời nên về cơ bản đã tạo
24

Số hóa bởi trung tâm học liệu
dựng được cơ sở pháp lý nhất định trong quản lý khai thác khoáng sản gắn

với BVMT trong hoạt động khoáng sản.
(1) Việc ban hành hai luật cơ bản điều chỉnh lĩnh vực khoáng sản gắn
với BVMT đó là Luật Khoáng sản năm 2005 và năm 2010 và Luật BVMT
2005 cùng với các hệ thống văn bản QPPL đi cùng đã tạo được hành lang
pháp lý cho công tác này trong thời gian qua, làm cho công tác quản lý và
khai thác tài nguyên khoáng sản từng bước phát triển.
(2) Các quy định, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản,
Luật BVMT đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành, địa
phương quan tâm ban hành khá đầy đủ, tương đối đồng bộ, từng bước phù
hợp với thực tiễn QLNN, đã góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong thực
tế để xử lý các mối quan hệ xã hội về tài nguyên khoáng sản.
(3) Các tiêu chuẩn, quy chuẩn ký thuật đã được ban hành góp phần điều
chỉnh cơ bản các hoạt động về khoáng sản và BVMT theo các chuẩn mực và
là công cụ quan trọng trong QLNN.
(4) Các văn bản QPPL liên quan đến thuế, phí về khoáng sản và BVMT
trong hoạt động khoáng sản đã tăng nguồn thu cho NSNN, góp phần thúc đẩy
phát triển KT - XH của đất nước và từ đây nguồn kinh phí này lại được tái
đầu tư cho hoạt động khoáng sản và BVMT.
(5) Để phù hợp với từng thời kỳ phát triển các hệ thống luật đã kịp thời
sửa đổi. Luật Khoáng sản sửa đổi hai lần sau khi ban hành năm 1996; Luật
BVMT hai lần (năm 2005) đã có chủ trương sửa vào cuối năm 2013 sau khi ban
hành năm 1993.
1.3. Bài học kinh nghiệm từ lý luận và thực tiễn quản lý Nhà nƣớc về
khai thác khoáng sản của các nƣớc trên thế giới và Việt Nam
Thứ nhất, hạn chế khai thác khoáng sản trong nước, giữ nguyên hiện
trạng, đóng cửa các mỏ khi chưa đủ điều kiện khai thác hoặc gây ô nhiễm môi

×