Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Nấm vai trò của nấm trong đời sống và hệ sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.09 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
1.Lịch sử tiến hóa 3
2. Sự đa dạng của nấm 5
3. Cấu tạo, sinh sản và sinh trưởng 6
4. Phân loại 8
5. Một số đại diện cho các ngành nấm 11
5.1 Nấm hoại sinh (Rhizopus) 11
5.2 Nấm kí sinh Claviceps 13
5.3 Nấm ăn (Agaricus) 14
5.4 Ngành Deuteromycota 15
6. Vai trò với hệ sinh thái 16
6.1 Cộng sinh 16
6.1.1 Với thực vật 17
6.1.2 Với côn trùng 18
6.1.3 Mầm bệnh và kí sinh 18
6.2 Săn mồi 19
6.3 Dinh dưỡng và khả năng tự dưỡng 19
7.Vai trò đối với con người 20
7.1 Chế biến thực phẩm 20
7.2 Nấm ăn và nấm độc 22
7.3 Dược liệu và chiết xuất 24
7.4 Phục hồi sinh học 26
7.5 Điều khiển sinh học 27
7.6 Kẻ phá hoại 28
KẾT LUẬN 29
PHỤ LỤC 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU


Con người là một phần của sự sống trên trái đất. Chúng ta sống hòa mình và
cùng phát triển với thiên nhiên. Xung quanh chúng ta ó biết bao điều bí ẩn và thú vị.
Cùng tồn tại với chúng ta có rất nhiều sinh vật. Việc tìm hiểu chúng sẽ giúp chúng
ta mở mang kiến thức, góp phần hữu ích vào đời sống của con người.
Trong vô vàn điều thú vị đó, có một giới luôn âm thầm tồn tại bên cạnh con
người và mang đến nhiều ảnh hưởng cho cuộc sống của chúng ta. Đó là giới nấm.
Để hiểu rõ hơn về loài nấm, nhóm chúng em xin tìm hiểu về đề tài “ Nấm – Vai trò
của nấm trong đời sống và hệ sinh thái”.
Trong quá trình tìm hiểu chúng em sẽ không tránh khỏi sai sót, kính mong
thầy và các bạn góp ý để bài tiểu luận của nhóm chúng em đượ tốt hơn. Xin chân
thành cám ơn thầy và các bạn.
Trang 2
NỘI DUNG
1.Lịch sử tiến hóa
Trong một thời gian dài, các nhà phân loại học đã xếp nấm là thành viên của
giới Thực vật. Sự phân loại này chủ yếu được dựa trên sự tương đồng trong cách
sống giữa nấm và thực vật: cả nấm và thực vật chủ yếu đều không di động, hình
thái và môi trường sống có nhiều điểm giống nhau (nhiều loài phát triển trên đất,
một số loại nấm quả thể giống thực vật như rêu). Thêm nữa, cả hai đều có thành tế
bào, điều mà giới Động vật không có. Tuy nhiên, hiện nay nấm lại được công nhận
là một giới riêng biệt, khác biệt hẳn với thực vật hay động vật, chúng đã tách ra và
xuất hiện xấp xỉ hơn một tỷ năm trước. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những sự giống
và khác về đặc điểm hình thái, sinh hóa và di truyền giữa Nấm và các giới khác. Vì
những lí do đó, nấm đã được đặt vào giới riêng của mình.

Nấm Armillaria ostoyae thuộc Basidiomycota. Cây nấm A. ostoyae được tìm
thấy ở rừng quốc gia Malheur ở Oregon hiện tại là cây nấm lớn nhất thế giới theo
diện tích bề mặt với khoảng 8.9 km² (2.200 mấu Anh) và hơn 2400 năm tuổi.
Những cơ thể đầu tiên mang những đặc trưng của nấm xuất hiện vào khoảng
1200 triệu năm (Ma) trước đây, ở Liên đại Nguyên Sinh. Tuy nhiên, những hóa

thạch nấm thì không phổ biến cho đến đầu kỷ Devon, khi chúng xuất hiện ở đá
Rhynie.
Cho dù được xếp cùng với thực vật trước kia, nhưng hiện nay nấm được cho
là có quan hệ gần gũi với động vật hơn thực vật, và chúng cùng động vật được xếp
vào thành các nhánh của Opisthokonta. Ở Đại Cổ Sinh, nấm xuất hiện trong môi
trường nước nước, bao gồm những sinh vật tương tự có mang tiên mao (flagella)
tương tự như nấm Chytrid. Những ghi nhận về hóa thạch đầu tiên của nấm rất rời
rạc và ít ỏi. Những loài nấm bắt đầu xâm lấn mặt đất trong kỷ Cambri, một thời gian
Trang 3
dài trước thực vật. Những lớp nấm hiện đại xuất hiện ở cuối kỷ Than Đá (phân kỷ
Pennsylvania). "Fungal spike", một cum từ được đặt ra bởi các nhà cổ sinh vật học,
để nói lên sự phong phú của bào tử nấm trong những trầm tích được tạo ra ngay sau
sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-Trias; người ta cho rằng nấm là những dạng sống chủ
yếu trong thời kỳ này - khi chúng chiếm đến gần 100% các dữ liệu hóa thạch được
tìm thấy. Tuy nhiên thuật ngữ này đã gây ra nhiều tranh cãi: hình dạng của những
bào tử nấm (như Reduviasporonites) đôi khi lại tương đồng với bào tử tảo và rất
khó để xác định, "spike" không xuất hiện trên toàn cầu và ở nhiều nơi nó lại không
rơi vào giai đoạn Permi-Trias.
Những nghiên cứu sử dụng phát sinh loài phân tử củng cố nguồn gốc đơn
ngành (monophyletic) của giới Nấm. Hệ thống phân loại nấm thường xuyên thay
đổi, đặc biệt bởi những nghiên cứu gần đây dựa trên sự đối chiếu ADN. Những
phân tích phát sinh chủng loài hiện hành thường xuyên đánh đổ những hệ thống
phân loại mà dựa trên những cách thức cũ và đôi khi kém rõ ràng, ví dụ như dựa
trên đặc điểm hình thái và khái niệm loài sinh vật thu được từ những giao phối thực
nghiệm.
Không có bất cứ một hệ thống phân loại nấm ở bậc cao duy nhất nào được
công nhận, và những tên gọi thường thay đổi ở mọi cấp độ, kể từ loài trở đi. Dù
vậy, những nỗ lực của những nhà nghiên cứu nấm đang được thực hiện để có thể
thiết lập và khuyến khích việc sử dụng một danh pháp ổn định và duy nhất. Những
loài nấm có thể có nhiều tên khoa học dựa trên vòng đời và phương thức sinh sản.

Những trang web như Index Fungorum và ITIS thường xuyên cập nhật những tên
gọi mới nhất lẫn tham khảo những tên gọi cũ, nhưng lại không phải lúc nào cũng
thống nhất với nhau.
Cây phát sinh
Unikonta
Amoebozoa
Opisthokonta
Animalia
Choanozo
a
Fungi
Chytridiomycota
Blastocladiomycota
Trang 4
2. Sự đa dạng của nấm
Những đại diện tiêu biểu của nấm là nấm mốc, nấm men, nấm độc và nấm
lớn (nấm quả thể). Giới Nấm là nhóm sinh vật đơn ngành (monophyletic) mà có
nguồn gốc hoàn toàn khác biệt với những sinh vật có hình thái tương tự như nấm
nhầy (myxomycetes) hay mốc nước (oomycetes). Nấm có mối quan hệ gần với
động vật hơn thực vật, cho dù thế thì môn học về nấm, hay nấm học, lại thường
được xếp vào thành một nhánh của thực vật học.
Trên Trái Đất, đa phần các nấm đều không thể nhìn thấy được bằng mắt
thường, chúng sống phần lớn ở trong đất, chất mùn, xác sinh vật chết, cộng sinh
hoặc kí sinh trên cơ thể động, thực vật và nấm khác. Tất cả những loại này đều
không có chlorofin và sống hoại sinh. Nấm không có khả năng ăn các chất dinh
dưởng nhưng lại tiết ra các enzym vào môi trường xung quanh để phân hủy các
phân tử phức tạp thành các chất hòa tan để nấm có thể hấp thụ được. Nhiều nấm
sống hoại sinh, có nghĩa là chúng dinh dưỡng trên phần còn lại của chất hữu cơ đã
chết. Số khác là những sinh vật kí sinh và kiếm thức ăn trực tiếp từ các cơ thể sống
khác. Trong số các dạng kí sinh thì một số là kí sinh bắt buộc, chúng chỉ có thể sống

trong các mô của các vật chủ sống. Nấm kí sinh tùy ý (không bắt buộc) có khả năng
sống hoại sinh và thường gây chết các vật chủ của chúng và gồm nhiều nấm bệnh
quan trọng của thực vật.
Vi nấm đóng một vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, chúng phân hủy các
vật chất hữu cơ và không thể thiếu được trong chu trình chuyển hóa và trao đổi vật
chất. Một số loài nấm có thể nhận thấy được khi ở dạng thể quả, như nấm lớn và
nấm mốc. Nấm được ứng dụng rất rộng rãi trong đời sống lẫn sản xuất, nhiều loài
được sử dụng trong công nghệ thực phẩm, sử dụng làm thức ăn hoặc trong quá trình
lên men. Nấm còn được dùng để sản xuất chất kháng sinh, hoóc môn trong y học và
nhiều loại enzym. Tuy vậy, nhiều loại nấm lại có chứa các chất hoạt động sinh học
Trang 5
được gọi là mycotoxin, như ancaloit và polyketit, là những chất độc đối với động
vật lẫn con người. Một số loại nấm được sử dụng để kích thích hoặc trong các nghi
lễ truyền thống với vai trò tác động lên trí tuệ và hành vi của con người. Vài loại
nấm có thể gây ra các chứng bệnh cho con người và động vật, cũng như bệnh dịch
cho cây trồng, mùa màng và có thể gây tác động lớn lên an ninh lương thực và kinh
tế.
Nấm phân bố trên toàn thế giới và phát triển ở nhiều dạng môi trường sống
khác nhau, kể cả sa mạc. Đa phần nấm sống ở trên cạn, nhưng một số loài lại chỉ
tìm thấy ở môi trường nước. Nấm và vi khuẩn là những sinh vật phân huỷ chính có
vai trò quan trọng đối với các hệ sinh thái trên cạn trên toàn thế giới. Dựa theo sự
theo tỉ lệ giữa số loài nấm với số loài thực vật ở trong cùng một môi trường, người
ta ước tính giới Nấm có khoảng 1,5 triệu loài. Khoảng 70.000 loài nấm đã được các
nhà phân loại học phát hiện và miêu tả, tuy nhiên kích cỡ thực sự của tính đa dạng
của giới Nấm vẫn còn là điều bí ẩn. Đa phần nấm phát triển dưới dạng các sợi đa
bào gọi là sợi nấm, cấu tạo nên thể sợi (hay khuẩn ty), trong khi những loài khác thì
lại phát triển dưới dạng đơn bào. Cho đến gần đây, nhiều loại nấm đã được miêu tả
dựa trên những đặc điểm hình thái, như kích cỡ và hình dạng các bào tử hay thể
quả, hay dựa trên khái niệm loài sinh vật với sự trợ giúp của các công cụ phân tử,
như phương pháp Dideoxy, đã gia tăng mạnh cách thức và khả năng ước tính sự đa

dạng của nấm trong phạm vi các nhóm phân loại khác nhau.
3. Cấu tạo, sinh sản và sinh trưởng
Nấm bao gồm những sinh vật nhân chuẩn tự dưỡng. Phần lớn nấm phát triển
dưới dạng các sợi đa bào được gọi là sợi nấm (hyphae) tạo nên một khối sợi rối hay
là hệ sợi (mycelium), một số nấm khác lại phát triển dưới dạng đơn bào. Mỗi sợi
nấm có vách tế bào bao quanh chứa polysaccarit có nitơ là chất kitin, tức cũng là
chất cấu tạo vá ngoài của côn trùng. Vách ngang hay vách ngăn (septa) có thể phân
chia sợi nấm nhưng ít khi ngăn cách “tế bào” hoàn toàn và tế bào chất có
thể luân chuyển ít nhiều dọc theo hệ sợi.
Quá trình sinh sản (hữu tính hoặc vô tính) của nấm thường qua bào tử, được
tạo ra trên những cấu trúc đặc biệt hay thể quả. Một số loài lại mất khả năng tạo nên
những cấu trúc sinh sản đặc biêt và nhân lên qua hình thức sinh sản sinh dưỡng.
Trang 6
Sự sinh trưởng chỉ có ở tận cùng sợi. Nhân của sợi nấm thường đơn bội. ở
nhiều loài, bào tử đơn tính được sản sinh ra ở tận cùng của các sợi sinh sản chuyên
hóa. Sinh sản hữu tính xảy ra do sự tiếp hợp giữa các dòng kết đôi khác nhau.
Thông thường nhân bố mẹ không hòa nhập với nhau ngay mà vẫn giữ riêng rẽ và có
thể phân chia nhiều lần nữa để tạo nên sợi nấm song nhân chứa các cặp nhân đơn
bội.
Cuối cùng các nhân kết hợp lại để tạo nên hợp tử lưỡng bội. Những hợp tử
này qua phân bào giảm nhiễm tạo nên những bào tử đơn bội và mỗi bào tử này có
thể nảy mầm để tạo nên những sợi nấm đơn bội mới. Chu trình của những sự kiện
này được tóm tắt ở hình sau
Chu trình sống của nấm chủ yếu là hợp tử, nhưng tính phức tạp là
do sự chậm trễ giữa sự kết hợp tế bào chất (plasmogamy) và sự kết hợp nhân
karyogamy). Trong mọi giai đoạn của quá trình sống không có lông và roi.

Trang 7
4. Phân loại
Giới Nấm (Fungi): Hiện nay đã biết được khoảng 100.000 loài nấm, chúng

có đặc điểm:
– Có nhân, hệ sợi gồm các sợi nấm có vách tế bào chứa kitin, không có lông
và roi.
– Sinh sản hữu tính và vô tính nhờ bào tử.
– Sống trong đất.
– Dị dưởng, hoại sinh, kí sinh.
Các ngành chính của nấm được phân loại chủ yếu dựa trên cấu trúc cơ quan
sinh sản hữu tính của chúng. Hiện tại nấm được chia làm 7 ngành:
• Ngành Chytridiomycota hay Chytrid (Nấm roi - nấm trứng): chúng
tồn tại rải rác khắp nơi trên thế giới. Chytrid sẽ sản sinh ra những bào tử
động mà có khả năng di chuyển linh động trong môi trường nước với một
tiên mao duy nhất. Vì thế một số nhà phân loại học đã phân loại chúng là
những động vật nguyên sinh. Sự phát sinh loài phân tử, dựa trên chuỗi
operon rARN tương ứng ở những tiểu đơn vị ribosome 18S, 28S và 5.8S, cho
thấy rằng Chytrid là nhóm nấm căn bản tách ra từ những ngành nấm khác,
bao gồm cả bốn ngành chính với những dấu hiệu cho thấy tính cận ngành
(paraphyly) hoặc có thể cận ngành của nấm Chytrid.
• Ngành Blastocladiomycota trước đây từng được cho là một nhánh
phân loại của Chytridiomycota. Những dữ liệu phân tử và đặc điểm siêu cấu
trúc gần đây đã đưa Blastocladiomycota vào một nhánh riêng giống như với
các ngành Zygomycota, Glomeromycota và Dikarya. Lớp nấm
Blastocladiomycetes là những sinh vật hoại sinh hoặc kí sinh của tất cả các
Trang 8
nhóm sinh vật nhân chuẩn và chúng giảm phân tạo bào tử, không giống với
chytrid, họ hàng gần của chúng, là những loài chủ yếu giảm phân tạo hợp tử.
• Ngành Neocallimastigomycota đầu tiên cũng đặt vào ngành
Chytridiomycota. Những thành viên của ngành nhỏ này là những sinh vật kỵ
khí, sống trong hệ thống tiêu hóa của những động vật ăn cỏ lớn và cũng có
thể sống ở môi trường nước và mặt đất. Chúng không có ty thể nhưng lại
chứa những hydrogenosome là nguồn gốc của ty thể. Giống như chytrid,

neocallimastigomycetes có thể tạo ra những bào tử động mà có một hay
nhiều tiên mao ở phía sau.
• Ngành Zygomycota (nấm tiếp hợp) có hai lớp: Zygomycetes và
Trichomycetes. Chúng sinh sản hữu tính với những bào tử giảm phân được
gọi là bào tử tiếp hợp và vô tính với túi bào tử. Loài mốc bánh mỳ đen
(Rhizopus stolonifer) là loài phổ biến thuộc ngành này, một chi khác là
Pilobolus, có khả năng bắn ra bào tử xa đến vài mét trong không khí. Những
chi liên quan đến y học bao gồm Mucor, Rhizomucor và Rhizopus. Những
nghiên cứu phát sinh loài phân tử đã chỉ ra rằng Nấm tiếp hợp là nhóm đa
ngành và có thể có cận ngành trong nhóm phân loại này.
• Những thành viên của ngành Glomeromycota là những nấm tạo ra
nấm rễ mút phân nhánh (arbuscular mycorrhizae) ở thực vật bậc cao. Sự
cộng sinh này đã có từ cổ đại, với những bằng chứng cho thấy đã có từ 400
triệu năm về trước.
• Phân giới Dikarya bao gồm hai ngành Ascomycota và Basidiomycota
khi cả hai ngành đều có nhân kép, chúng có thể dạng sợi hoặc đơn bào,
nhưng không bao giờ có lông roi. Dikarya được gọi là "Nấm bậc cao", cho
dù có nhiều loài sinh sản vô tính được phân loại vào nấm mốc trong các tài
liệu trước đây. Deuteromycota (Nấm bất toàn), trước đây từng được coi là
một ngành của Nấm, nhưng hiên nay chỉ được sử dụng để chỉ những loại
nấm sinh sản vô tính trong Dikarya.
o Ngành Ascomycota (nấm túi hay nấm nang), là nhóm phân loại
đông nhất trong Eumycota (Nấm thật). Chúng tạo ra những bào tử giảm
phân gọi là bào tử nang, mà được chứa trong một cấu trúc đặc biệt có
dạng giống túi gọi là nang (ascus). Ngành này bao gồm nấm nhăn
Trang 9
(moscela), vài loại nấm lớn và nấm cục, những nấm men đơn bào (như
các chi Saccharomyces, Kluyveromyces, Pichia và Candida) và nhiều
nấm sợi sống hoại sinh, kí sinh và cộng sinh. Nhiều loài nấm nang chỉ trải
qua quá trình sinh sản vô tính (ở nấm gọi là anamorph), tuy nhiên, những

dữ liệu phân tử đã giúp nhận dạng được những giai đoạn hữu tính
(teleomorph) gần nhất của chúng ở nấm nang. Bởi những sản phẩm của
quá trình giảm phân được chứa trong nang nấm, nên vài loài nấm nang
(như Neurospora crassa) được sử dụng để giải thích những nguyên lý
của di truyền học.
o Ngành Basidiomycota (Nấm đảm), sản xuất ra những bào tử đảm
chứa trong những thân hình dùi gọi là đảm. Đa phần những loài nấm lớn
đều thuộc ngành này, cũng như nấm than hay nấm gỉ sắt là những mầm
bệnh chính ở ngũ cốc. Những loài nấm đảm quan trọng khác bao gồm
nấm Ustilago maydis gây bệnh cho ngô, chi nấm cộng sinh Malassezia
gây nên gàu ở người, và nấm cơ hội gây bệnh viêm màng não,
Cryptococcus neoformans.
Tuy nhiên giới Nấm cũng có cách phân loại như sau, bao gồm bốn ngành là
ngành Zygomycota, Ascomycota, asidiomycota và Deuteromycota. Hơn nữa giới
này còn bao gồm cả địa y (ngành Mycophycophyta). Địa y là kết quả của sự chung
sống giữa nấm và những sinh vật quang hợp như tảo lục hoặc vi khuẩn lam.
Ngành Nấm tiếp hợp (Zygomycota)
– Sợi nấm không có vách ngăn ngang, sinh sản hữu tính do tiếp hợp
tạo nên những bào tử động bền vững.
– ở đất, phổ biến.
– Hoại sinh, một số dạng kí sinh.
– Đại diện: Rhizopus
Ngành Nấm túi (Ascomycota)
– Sợi nấm có vách ngang, sinh sản vô tính bởi bào tử đỉnh, sinh sản
hữu tính tạo ra các túi chứa túi bào tử nang (ascospore).
– ở đất, phổ biến.
– Hoại sinh, kí sinh.
– Đại diện: Claviceps, Saccharomyces
Trang 10
Ngành Nấm đảm (Basidiomycota)

– Sợi nấm có vách ngang, sinh sản thường hữu tính dẫn đến sự tạo
thành các đám hình gậy mang bào tử đảm.
– ở đất, phổ biến.
– Hoại sinh, kí sinh.
– Đại diện: Agaricus
Ngành Nấm bất toàn (Deuteromycota)
– Nấm không có cấu trúc chuyên hóa cho sự sinh sản hữu tính.
– ở đất, sống phổ biến.
– Hoại sinh, kí sinh.
– Đại diện: Penicillium, Dactylaria
Ngành Địa y (Mycophycophyta)
– Dạng sống cộng sinh giữa nấm và sinh vật quang hợp như tảo lục
hoặc vi khuẩn lam.
– Sống ở đất, nơi sống khắc nghiệt, chủ yếu là tự dưởng.
– Đại diện: Cladonia
5. Một số đại diện cho các ngành nấm
5.1 Nấm hoại sinh (Rhizopus)
5.1.1 Phân loại
Mốc bánh mỳ Rhizopus stolonifer là đại diện thường gặp ở ngành
Zygomycota. Bào tử của Rhizopus được gió mang đi và nảy mầm ở trên các chất
hữu cơ thích hợp nào đó. Nấm phát triển tốt ở bánh mỳ nhưng xâm nhập và phá hủy
hoa quả khi vận chuyển hoặc trong kho.
Sợi nấm của Rhizopus không có vách ngăn ngang hoặc màng phân cách và
được gọi là hợp bào. Nhân rải rác khắp tế bào chất liên tục. Bào quan giống với ty
thể chuyển động tự do trong sợi nấm và có thể tập trung ở lại các vùng sinh trưởng
mạnh. Khi hệ sợi được tạo lập thì sợi nấm lớn được gọi là sợi bò mọc ra phía bên.
Khi chạm vào giá thể thì sợi nấm mới phát triển. Rhizopus dinh dưỡng hoại sinh
bằng các sợi nấm nhá phân nhánh, hay rễ giả, rễ giả đâm sâu vào giá thể và tiết ra
các enzym và hấp thụ chất dinh dưỡng.
5.1.2 Sinh sản

Trang 11
Sự sinh sản vô tính gồm các sợi sinh sản được gọi là cuống túi bào tử mọc
thẳng đứng. Tận cùng của mỗi cuống phình ra và từng phần phát triển và tách rời ra
và trở thành túi bào tử.
Tận cùng hình tròn của sợi bên trong túi bào tử được gọi là trục giữa. Túi bào
tử khi chưa chín có màu trắng nhạt, nhưng sự phát triển tiếp tục các tinh thể canxi
oxalat được tích tụ bên trong vách túi bào tử để tạo nên màu đen xẫm. Khi túi bào
tử chín, vách ngoài của chúng khô đi và nứt để tung ra vô số các bào tử phát tán đi
nhờ gió.
Tiếp hợp là cách sinh sản hữu tính được quan sát thấy ở Rhizopus,
xảy ra gữa các dòng kết đôi khác nhau về mặt di truyền. Khi hệ sợi của dòng + và
- gặp nhau, các nhánh hình que ngắn phát triển và phình ra. Sau đó đoạn tận cùng
của các nhánh tạo vách tách riêng ra để hình thành nên túi giao tử, mỗi túi có chứa
nhiều nhân từ các sợi bố mẹ. Khi các túi giao tử kết hợp, nhân bên trong kết hợp
từng đôi, một từ bố và một từ mẹ, kết quả là có nhiều nhân lưởng bội được sinh ra.
Tất cả nhân đó đều bị hủy đi, chỉ trừ một nhân lưởng bội tiến hành ngay sự giảm
phân để sinh ra bốn nhân đơn bội. Ba trong số đó cũng sẽ bị hủy hoại đi để chỉ còn
một nhân đơn bội được giữ lại mà thôi. Cấu trúc được tạo nên có tên gọi là hợp bào
tử tiết ra vách bảo vệ dày có thấm các tinh thể canxi oxalat có thể giữ ở trạng thái
nghỉ lâu dài. Gặp điều kiện thuận lợi hợp bào tử nảy mầm, tạo nên túi bào tử để rồi
vở ra và phát tán đi vô số các bào tử đơn bội. Bào tử đơn bội có thể phát triển bằng
sinh sản vô tính tạo nên các sợi nấm đơn bội.
Trang 12

5.2 Nấm kí sinh Claviceps
Nấm túi thuộc ngành Ascomycota được phân biệt với các nấm khác ở chỗ có
cấu tạo được gọi là túi, túi được tạo thành là do kết quả của sự sinh sản hữu tính.
Mỗi túi là một nang trong đó có nhân đơn bội từ các dòng bố mẹ khác nhau kết hợp
để cho ra nhân hợp tử lưỡng bội. Nhân hợp tử phân chia giảm nhiễm và tiếp theo
Trang 13

Vòng đời và cấu tạo của nấm mốc bánh mì Rhizopus stolonifer
Cấu tạo một sợi nấm Rhizopus đang mọc
sau là một hoặc một số lần phân bào nguyên nhiễm tạo nên các bào tử túi. Mỗi bào
tử túi gồm một nhân và tế bào chất được bao quanh bởi một màng và có vách bào
tử. Trường hợp điển hình bào tử túi được phát tán nhờ gió. Sự sinh sản vô tính ở
nấm túi xảy ra nhờ các bào tử có tên gọi là bào tử đỉnh (conidium), các bào tử này
được sinh ra ở trên đỉnh của các sợi sinh sản chuyên hóa.
Nấm men, mốc, nấm mũ và nấm cục đều là nấm túi. Claviceps purpurea
được mô tả ở đây là loài kí sinh quan trọng gây ra bệnh mạch giác (ergot) ở lúa
mạch và những cây họ lúa khác. Chu trình sống của Claviceps được mô tả ở hình
bên dưới. Bào tử túi được hình thành về mùa xuân khi lúa mạch ra hoa và được gió
mang đi. Những bào tử này rơi đến các hoa non, nảy mầm và tạo nên hệ sợi để rồi
xuyên qua bầu của hoa. ở trên bề mặt của hệ sợi các sợi ngắn được gọi là cuống
bào tử đỉnh được tạo nên và các bào tử vô tính hay bào tử đỉnh (conidium)
được nảy chồi. Các bào tử đỉnh này được bao trong mật hoa, chất dính tiết ra làm
thức ăn cho côn trùng và để rồi lại có thể mang đến các hoa khác. Hệ sợi tiếp tục
phát triển rồi trở nên cứng và cuối cùng biến đổi thành một cấu trúc cứng, màu tím
nên được gọi là hạch nấm (sclerotium) hay cựa gà. Cấu tạo này giống về mặt hình
dạng víi hạt bình thường, nhưng phần nào lớn hơn. Về mùa thu hoặc trong mùa thu
hoạch, các hạch nấm rụng xuống đất và qua đông tại đấy.
Khi có điều kiện thuận lợi, hạch nấm nảy mầm sinh ra một số thể quả nhá
giống với nấm. Trên đầu hoặc thể nền của chúng các túi giao tử đực và cái
phát triển và kết hợp với nhau. Túi được hình thành thường mảnh, có hình trụ và
mỗi túi có tám bào tử túi dài xếp cạnh bên nhau. Cái túi hợp nhóm với nhau bên
trong thể quả chai vì giống như cái chai, và khi chin các bào tử túi mở ra và phụt lên
trên dưới áp suất.
Hạch nấm của Claviceps có chứa các chất ancaloit độc khác nhau.
Trước đây hạch nấm thường được xay lẫn víi hạt mạch thành bột có chứa hơn 10%
hệ sợi đã thành bột. ăn phải bánh mỳ bằng bột mỳ nhiễm nấm gây sẩy thai, mất trí,
ảo giác và tử vong cho con người.

Ngày nay những trường hợp của bệnh hạch nấm trong dân gian hiếm có,
nhưng nấm vẫn còn là nguyên nhân phổ biến gây độc cho các súc vật nuôi chăn thả
trên đồng cá nhiều nấm. Các ancaloit chiết rút ra được dùng làm thuốc phòng trừ
chống xuất huyết, đặc biệt trong sinh đẻ.
Trang 14
5.3 Nấm ăn (Agaricus)
Ví dụ thông thường của nấm trong ngành Basidiomycota như nấm ăn, nấm
mũ độc, nấm trứng. Phần lớn các loài sống hoại sinh, nhưng nhóm này cũng bao
gồm nấm gỉ sắt ở lúa mỳ và những nấm bệnh khác ở cây trồng. Các đặc tính chủ
yếu của ngành có thể được minh họa qua mô tả cấu trúc và chu trình sống của
nấm thường gặp ở đồng ruộng là Agaricus campestris.
Bào tử của Agaricus là đơn bội và nảy mầm để sinh ra hệ sợi phát triển dưới
đất. Sự kết hợp của sợi nấm từ các dòng kết đôi khác nhau tạo nên hệ sợi song nhân
phát triển không có sự kết hợp nhân và cuối cùng cho ra một hoặc một số thể mang
bào tử được gọi là cây nấm (basidiocarp). Đó là cây nấm có cấu tạo nhìn thấy được
ở trên mặt đất. Mỗi cây gồm một cuống thẳng đứng đở lấy một mũ ở phía trên. Cây
nấm phát triển thì cái mép của mũ vở ra từ vòng mô phiến và các phần phiến máng
giẹp phẳng ra để lộ nhiều mang nấm dạng phiến xếp táa tròn từ tâm ra. Bề mặt của
mang được phủ một lớp mang bào tử được gọi là màng bào (hymenium). Bên trong
lớp này có sự kết hợp nhân xảy ra ngay và tiếp theo đó là sự giảm phân tạo nên các
nhân đơn bội tách tời nhau thành bào tử đảm hay là bào tử bầu (basidiospore).
Những bào tử này phát triển ở tận cùng của các cấu trúc hình que đặc trưng được
gọi là đảm hay bầu (basidium). Bào tử được phát tán do cơ chế nổ và bắn ra ngoài
giữa các mang. Hàng triệu bào tử được giải phóng và chuyển đi nhờ gió.
Trang 15
Cấu trúc & chu trình sống của Claviceps purpurea

5.4 Ngành Deuteromycota
Ngành Deuteromycota hay nấm bất toàn (là một nhóm do người ta
miễn cưởng tập hợp lại) gồm khoảng 20.000 loài mà chỉ biết đến các giai đoạn

sinh sản vô tính của chúng. Các giai đoạn hữu tính thì chưa bao giờ được quan sát
thấy hoặc hoàn toàn không có. Phần lớn nấm bất toàn được cho là phát sinh từ nấm
túi do những sự giống nhau trong cấu trúc của hệ sợi và sự hình thành bào tử vô
tính, hoặc bào tử đỉnh. Ngành này gồm loài mốc Penicillium chrysogenum, loài
chiết xuất ra được chất kháng sinh penixilin. Mặc dù những số lượng lớn hệ sợi đã
được nuôi trồng, nhưng các giai đoạn hữu tính thì chưa bao giờ được quan sát thấy.
Tuy thế sức tái tổ hợp di truyền vẫn sinh ra và có thể do quá trình đồng tính trong
đó các nhân khác nhau về di truyền kết hợp víi nhau. Sự giảm phân xảy ra và các
nhân đơn bội mới được tạo nên và phát triển trực tiếp thành hệ sợi mới.
Một đại diện khác của ngành là nấm đất Dactylaria loại nấm bắt và tiêu hóa
các giun tròn. Có những vòng đặc biệt đính víi sợi nấm có thể được thít chặt lại khi
có sự tiếp xúc với các con giun chui qua. Cơ chế thít là ở sự thẩm thấu và trương
Trang 16
Cấu trúc & chu trình sống của Agaricus ampestris
khi hấp thụ nhanh nước. Con giun bị bắt bị các sợi nấm xuyên vào mô của nó dần
dần bị tiêu hóa đi.
6. Vai trò với hệ sinh thái
Dù không dễ thấy, nhưng nấm lại có mặt ở tất cả các môi trường trên Trái
Đất và đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái. Cùng với vi khuẩn, nấm là
sinh vật phân hủy chính ở hầu hết các hệ sinh thái trên cạn (và có thể dưới nước),
bởi vậy nên chúng cũng có vai trò quan trọng các chu trình sinh địa hóa và ở nhiều
lưới thức ăn. Khi sống hoại sinh hay cộng sinh, chúng phân hủy những vật chất hữu
cơ thành những phân tử vô cơ, rồi sau đó những chất này sẽ được đồng hóa ở thực
vật hay những sinh vật khác.
6.1 Cộng sinh
Nấm có mối quan hệ cộng sinh với hầu hết tất cả các giới. Quan hệ của
chúng có thể hỗ trợ hoặc đối nghịch nhau, hay với những nấm hội sinh thì không
đem lại bất cứ lợi ích hay tác hại rõ ràng nào đối với vật chủ.

6.1.1 Với thực vật

Trang 17
Các vòng bắt giun tròn của Dactylaria
Nấm lỗ phát triển trên một cây ở Borneo
Nấm rễ là một hình thức cộng sinh giữa thực vật và nấm, chia làm hai loại:
nấm rễ trong (endomycorrhiza, tức nấm kí sinh đơn bào sống bên trong tế bào rễ
cây) và nấm rễ ngoài (ectomycorrhiza, tức rễ của nấm bám dày đặc xung quanh đầu
rễ cây và xâm nhập vào giữa các tế bào rễ cây). Đây là quần hợp nấm-thực vật được
biết nhiều nhất và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của thực vật
cũng như nhiều hệ sinh thái, hơn 90% các loài thực vật có quan hệ với nấm theo
hình thức nấm rễ và phụ thuộc vào mối quan hệ này để tồn tại. Sự cộng sinh nấm rễ
đã có lịch sử xa xưa, ít nhất là từ hơn 400 triệu năm về trước. Chúng thường làm
tăng khả năng hấp thu các hợp chất vô cơ của thực vật, như nitrat và photphat, từ
những đất có nồng độ những nguyên tố thiết yếu thấp. Ở một số nấm rễ, thành phần
nấm có thể đóng vai trò trung gian giữa thực vật với thực vật, vận chuyển
carbohydrate và các chất dinh dưỡng khác. Những cộng đồng nấm rễ đó được gọi là
"mạng lưới nấm rễ chung". Một số nấm có khả năng kích thích sự sinh trưởng của
cây bằng cách tiết ra các hoóc môn thực vật như axít idolaxetic (IAA).
Địa y là dạng cộng sinh giữa nấm (hầu hết các loài nấm nang và một số nấm
đảm) với tảo hay vi khuẩn lam (gọi chung là đối tác quang hợp), trong đó những tế
bào quang hợp được gắn vào những mô nấm. Giống với nấm rễ, những đối tác
quang hợp sẽ cung cấp cacbohyđrat được tạo ra trong quá trình quang hợp, đổi lại
nấm cung cấp cho chúng các chất khoáng và nước. Những chức năng của toàn bộ
cơ thể địa y gần như giống hệt với một cơ thể đơn độc. Địa y là những sinh vât tiên
phong và xuất hiện ở những nơi nguyên thủy như đá tảng hay nham thạch núi lửa đã
nguội. Chúng có thể thích nghi cực tốt với những điều kiện khắc nghiệt như giá
lạnh hay khô hạn và là những ví dụ tiêu biểu nhất của sự cộng sinh.
Một số loài nấm sống trong cây có thể tiết ra những độc tố nấm để ngăn cản
những động vật ăn cỏ ăn vật chủ của chúng.

Trang 18

Một nấm rễ thạch nam tách từ Woollsia
pungens
6.1.2 Với côn trùng
Nhiều côn trùng có mối quan hệ hỗ trợ với nhiều loại nấm. Vài loại kiến
trồng những loài nấm thuộc bộ Nấm mỡ (Agaricales) để làm nguồn thức ăn chính,
trong khi đó những loài bọ cánh cứng Ambrosia trồng nhiều loài nấm trong lớp vỏ
cây mà chúng cư trú. Loài mối ở xavan châu Phi cũng được biết có khả năng trồng
nấm.
6.1.3 Mầm bệnh và kí sinh
Tuy vậy, nhiều loại nấm lại kí sinh trên thực vật, động vật (cả con người) và
nấm khác. Những loài nấm gây bệnh trên cây trồng có thể gây thiệt hại rộng lớn cho
ngành nông nghiệp và lâm nghiệp, ví dụ như nấm đạo ôn (Magnaporthe oryzae)
gây bệnh cho lúa, Ophiostoma ulmi và Ophiostoma novo-ulmi gây ra bệnh du Hà
Lan, còn Cryphonectria parasitica là nguyên nhân của bệnh thối cây dẻ. Những loài
gây bệnh cho cây thuộc các chi Fusarium, Ustilago, Alternaria và Cochliobolus,
còn những loài có khả năng gây bệnh cho người lại thuộc các chi như Aspergillus,
Candida, Cryptoccocus, Histoplasma và Pneumocystis. Chúng có thể gây ra những
bệnh ngoài da ở người như nấm chân hay hắc lào cho đến những bệnh nguy hiểm có
thể gây chết người như viêm màng não (nấm Cryptococcus neoformans) hay viêm
phổi. Nấm gây ra nhiều bệnh cơ hội, tức những bệnh tấn công những người bị suy
giảm miễn dịch, trong đó có những người bị HIV/AIDS, ví dụ như bệnh candidiasis
(nấm Candida, gây ra chứng lở miệng ở trẻ em và âm đạo phụ nữ), histoplasmosis
(Histoplasma capsulatum), cryptococcosis (Cryptococcus neoformans),
aspergillosis (Aspergillus), coccidioidomycosis (Coccidioides immitis hay C.
posadasii), viêm phổi pneumocystis (Pneumocystis jirovecii) và rất nhiều bệnh
khác.
Có khoảng 70 loài nấm sinh bào tử là những tác nhân gây dị ứng. Chúng có
thể là nấm mốc trong nhà hay ngoài trời, đa phần là nấm sợi như các chi Alternaria,
Aspergillus, Cladosporium, Helminthosporium, Epicoccum, Penicillium,
Fusarium , chỉ có vài loài là nấm đơn bào như Candida, Rhodotorula, có một số

loài là nấm lớn như Agaricus, Coprinus, Fomes, Ganoderma Bào tử nấm có thể
gây ra những chứng như hen suyễn, viêm mũi dị ứng, các bệnh nấm dị ứng phế
quản phổi và viêm phổi quá mẫn
Trang 19

Bệnh đạo ôn ở lúa do Magnaporthe oryzae gây ra
6.2 Săn mồi
Một số loài nấm là những kẻ săn giun tròn. Chúng có thể biến đổi sợi nấm để
tạo thành những cấu trúc đặc biệt có chức năng bẫy giun tròn, nên được gọi với tên
chung là nấm bẫy mồi. Những loại bẫy thường thấy là: mạng dính hay lưới dính,
bọng dính, vòng không thắt, cột dính, vòng thắt và bào tử dính. Các loài nấm bắt
mồi theo kiểu này thường thuộc các chi Arthrobotrys, Dactylaria, Dactylella và
Trichothecium. Có vài loài như Zoopage phanera thì lại tiết chất dính ra toàn bộ
mặt ngoài sợi nấm và cũng có khả năng bẫy mồi tương tự.
6.3 Dinh dưỡng và khả năng tự dưỡng
Sự phát triển của nấm dưới dạng sợi nấm ở những môi trường rắn cũng như
dưới dạng đơn bào ở môi trường nước, đều được điều chỉnh để hút các chất dinh
dưỡng hiệu quả nhất từ môi trường, bởi chúng đều có tỉ lệ diện tích bề mặt trên thể
tích cao. Sự thích nghi hình thái đã được bổ sung bởi những enzym thủy phân trong
những môi trường tiêu hóa có phân tử hữu cơ lớn, như polysaccarit, protein, lipit và
những chất nền dinh dưỡng khác. Những phân tử này bị thủy phân thành những
phân tử nhỏ hơn, sau đó trở thành những chất dinh dưỡng được hấp thu vào tế bào
nấm.
Thông thường nấm được coi là những sinh vật dị dưỡng, tức những cơ thể
chỉ có thể lấy cacbon từ những sinh vật khác cho quá trình trao đổi chất, tuy nhiên
nấm đã tiến hóa khả năng chuyển hoá mà cho phép chúng sử dụng đa dạng những
loại chất nền hữu cơ để phát triển, bao gồm các hợp chất đơn giản như nitrat,
amoniac, axetat hay êtanol. Những nghiên cứu gần đây cho thấy khả năng rằng nấm
đã sử dụng sắc tố melanin để lấy năng lượng từ những phóng xạ ion hóa, như tia
Trang 20

gamma, gọi nôm na là "vô tuyến dưỡng". Người ta cho rằng quá trình này có điểm
tương đồng với quá trình quang hợp ở thực vật, tuy nhiên hiện nay đang thiếu
những bằng chứng sinh hóa có giá trị ủng hộ cho giả thuyết này.
7.Vai trò đối với con người
Nấm đã được con người sử dụng để chế biến và bảo quản thức ăn một cách
rộng rãi và lâu dài: nấm men được sử dụng cho quá trình lên men để tạo ra rượu, bia
và bánh mì, một số loài nấm khác được sử dụng để sản xuất xì dầu và tempeh.
Trồng nầm và hái nấm là những ngành kinh doanh lớn ở nhiều nước. Nhiều loại
nấm được sử dụng để sản xuất chất kháng sinh, gồm các kháng sinh β-lactam như
penicillin và cephalosporin. Những loại kháng sinh này đều được sử dụng rộng rãi
trong việc chữa trị các bệnh do vi khuẩn, như lao, phong cùi, giang mai và nhiều
bệnh khác ở đầu thế kỷ 20 và tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong hóa học trị
liệu kháng khuẩn. Môn khoa học nghiên cứu về lịch sử ứng dụng và vai trò của nấm
được gọi là nấm học dân tộc.
7.1 Chế biến thực phẩm

Nấm men khô, dạng kết tinh của men được sử dụng thương mại

Bình Kombucha đang lên men
Trang 21
Nấm men bánh mì với loài chính là Saccharomyces cerevisiae, một nấm đơn
bào, được sử dụng rộng rãi trong việc làm bánh mì và những sản phấm từ bột mì
khác, như pizza hay bánh bao. Trong quá trình lên men rượu dưới điều kiện yếm
khí, nấm men sẽ sản sinh ra rượu etanol và khí cacbonic (CO
2
) có vai trò làm nở bột
mì. Một số loài nấm men của chi Saccharomyces cũng được sử dụng để sản xuất đồ
uống có cồn, như bia hay rượu vang thông qua quá trình lên men rượu. Nấm men và
vi khuẩn acetic được sử dụng trong quá trình chuẩn bị Kombucha, một loại trà ngọt
lên men. Những loại men tìm thấy trong trà rất đa dạng, như Brettanomyces

bruxellensis, Candida stellata, Schizosaccharomyces pombe, Torulaspora
delbrueckii và Zygosaccharomyces bailii. Ngoài ra, Vegemite và Marmite, những
chiết xuất nấm men, đã được sử dụng rộng rãi làm gia vị để chế biến thức ăn trong
đời sống.

Vân xanh pho mát Stilton với nấm Penicillium roqueforti.
Một số loài nấm sợi thường được sử dụng để sản xuất sinh khối protein. Mốc
Aspergillus oryzae được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước, như sản xuất nước tương
(xì dầu), súp miso và rượu sake ở Nhật Bản hay làm tempeh ở Java. Mốc hoa cau
được dùng để sản xuất tương, loại thực phẩm phổ biến ở Việt Nam, cũng chính là
A. oryzae, tuy nhiên tương sản xuất thủ công lại có độ an toàn không cao, bởi những
loại mốc tốt và không độc như A. oryzae và Aspergillus sojae lại rất dễ lẫn lộn với
những loại mốc nguy hiểm có độc tố gây ung thư khác là A. flavus và A.
parasiticus. Quorn là loại thực phẩm giàu protein được sản xuất từ mốc Fusarium
venenatum
[58]
, và được dùng trong việc chế biến đồ ăn chay. Nhiều loại thực phẩm
khác cũng được chế biến bởi mốc như chao (ủ nhờ mốc Actinomucor elegans,
Mucor racemosus hay Rhizopus), ang-kak (gạo lên men với mốc đỏ Monascus
purpureus), salami (một loại xúc xích, lên men nhờ P. nalgiovense, P.
chrysogenum). Trong sản xuất pho mát, một kinh nghiệm thông thường là cấy bào
Trang 22
tử nấm vào sữa đông để tạo mốc, việc này sẽ cho ra hương vị và kết cấu đặc biệt
độc nhất của pho mát. Ở những loại pho mát xanh, như Stilton hay Roquefort, thì
những vân xanh được tạo ra bởi loài nấm Penicillium roqueforti.
7.2 Nấm ăn và nấm độc

Những loại nấm châu Á, từ trái qua phải: nấm kim trâm, buna-shimeji,
bunapi-shimeji, nấm sò vua và nấm hương


Nấm mỡ được trồng tại một trang trại ở Hungary
Những loài nấm quả thể được biết đến với hai dạng: nấm ăn được và nấm
độc. Nấm ăn được sử dụng rộng rãi làm thực phẩm, chúng có thể sử dụng trong rất
nhiều món ăn, ở nhiều nền ẩm thực khác nhau. Nấm là thực phẩm có giá trị dinh
dưỡng cao, có độ đạm cao và ít chất béo, chứa nhiều vitamin nhóm B và C. Dù nấm
không phải là nguốn vitamin D đáng kể, nhưng hàm lượng vitamin D có thể tăng
lên khi được phơi với ánh sáng (nhất là tia cực tím) dù điều này làm thẫm lớp vỏ
của chúng. Nấm cũng chứa nhiều nguyên tố vi lượng, như sắt, selen, natri, kali,
magiê và phốt pho.
Những loại nấm ăn được thường xuyên bày bán ở các chợ và siêu thị đều
được trồng ở các trang trại nấm. Loại nấm phổ biến nhất là nấm mỡ (Agaricus
bisporus), được trồng ở ít nhất 70 quốc gia trên thế giới. Những dạng khác của
A.bisporus là portabella và nấm mũ (crimini) cũng được trồng thương mại. Nhiều
loại nấm châu Á cũng được trồng và tiêu thụ rộng rãi là nấm rơm (Volvariella
volvacea), nấm hương (Lentinula edodes), nấm sò (Pleurotus ostreatus), mộc nhĩ
Trang 23
(Auricularia auricula-judae), enokitake (nấm kim trâm, Flammulina) và nấm múa
(Grifola frondosa).

Nấm tử thần Amanita phalloides
Có nhiều loại nấm được thu hoạch từ tự nhiên để cho cá nhân hay để bán như
nấm sữa (Lactarius deliciosus), nấm nhăn (nấm bụng dê, Morchella), nấm mồng gà
(Cantharellus), nấm cục (Tuber), nấm kèn đồng (Cantharellus) và nấm thông
(Boletus edulis), chúng thường đắt tiền và dành cho những người sành ăn. Hái nấm
là hoạt động phổ biến ở nhiều vùng của Châu Âu và tây bắc Hoa Kỳ. Tuy nhiên
những người đi hái nấm phải rất chú trọng về việc phân biệt nấm ăn và nấm độc. Có
nhiều loại nấm đặc biệt độc đối với con người, độc tính của nấm có thể nhẹ và gây
ra bệnh tiêu hóa hay dị ứng cũng như ảo giác, nhưng cũng có thể đủ mạnh để gây
liệt các cơ quan và chết người. Có khoảng 10.000 loại nấm thịt, trong đó có một nửa
là ăn được và 100 loài có độc tố cao.Những loại nấm gây chết người thuộc về các

chi Inocybe, Entoloma, Hebetoma, Cortinarius và nổi tiếng nhất là Amanita. Những
loài thuộc chi cuối như "thiên thần hủy diệt" A. virosa hay nấm tử thần A.
phalloides là những loại nấm độc chết người thông dụng nhất. Loại nấm moscela
giả (Gyromitra esculenta) khi nấu chín là một thức ăn ngon, nhưng lại độc khi ăn
sống. Nấm Tricholoma equestre đã từng được cho là ăn được cho đến khi nó bị phát
hiện là gây ra bệnh Rhabdomyolysis (hủy hoại cơ bắp).
Trang 24

Loài nấm gây ảo giác Amanita muscaria
Nấm màu đỏ Amanita muscaria gây độc không thường xuyên, khi ăn vào nó
có thể trở thành loại thuốc kích thích và sinh ảo giác. Trong lịch sử, những tu sĩ cổ
đại người Celt ở Bắc Âu và người Koryak ở Siberi đã sử dụng loại nấm này với
mục đích tôn giáo và làm phép. Cũng có nhiều loài nấm gây ảo giác khác, chúng
được gọi là "nấm ma thuật", "mush" hoặc "shroom", thuộc nhiều chi khác nhau như
Psilocybe, Panaeolus, Gymnopilus, Copelandia, Conocybe Chúng có thể tác động
lên trí tuệ và hành vi của con người, tạo cảm giác hư ảo hưng phấn, và cũng có vai
trò trong việc chữa trị truyền thống ở một số địa phương.
Để phân biệt được nấm ăn được và nấm độc thì có nhiều kinh nghiệm cùng
với các cơ sở nghiên cứu: không ăn nấm sặc sỡ, có mùi hắc, không ăn nấm quá non
hay quá già, không ăn nấm có chảy sữa Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp ngoại
lệ, như có nấm độc có màu sắc và hình dạng giống nấm thường. Vì thế rất khó để có
thể nhận biết được nấm an toàn và nấm độc nếu không có đủ kinh nghiệm và kiến
thức, và lời khuyên tốt nhất là hãy coi tất cả nấm ở trong rừng là nấm độc và bỏ qua
nó.
7.3 Dược liệu và chiết xuất
Nhiều loại nấm ăn đã được sử dụng trong y học truyền thống hàng ngàn năm
nay. Những loại nấm như nấm múa, nấm hương (đông cô), nấm chaga, nấm linh
chi đã được tập trung nghiên cứu bởi khả năng chống ung thư, chống virus và
tăng cường hệ miễn dịch của chúng. Loài nấm Đông trùng hạ thảo (Cordyceps
sinensis) được coi là một dược liệu quý hiếm và đã được sử dụng ở Trung Quốc từ

lâu . Loài nấm cổ linh chi (Ganoderma applanatum) cũng từng được coi là một
"thần dược" ở Việt Nam, mặc dù không có bằng chứng cụ thể nào về khả năng trị
bệnh của nó. Psilocybin và LSD, những chất gây ảo giác được chiết xuất từ nấm, có
thể dùng để chữa các bệnh về tâm thần, như chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Trang 25

×