BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
DỰ ÁN
XÂY DỰNG MẠNG LƯỚI QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG PHỤC VỤ
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Đơn vị thực hiện:
- Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I, II và III
- Viện nghiên cứu Hải sản.
- Các Chi cục Thuỷ sản/ NTTS các tỉnh trọng điểm
Đơn vị chủ trì: Tổng cục Thủy sản
Hà Nội, tháng 7 năm 2012
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG HỆ THỐNG TRẮC MÔI TRƯỜNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 3
CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG DỰ ÁN 6
MỤC TIÊU CỦA DỰ ÁN 6
1.1 Mục tiêu chung 6
1.2 Mục tiêu cụ thể 6
HIỆN TRẠNG QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG NTTS Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC 7
1.3 Kinh nghiệm quan trắc môi trường thuỷ sản ở một số nước 7
1.4 Hiện trạng mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS 8
1.4.1 Mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS 8
1.4.2 Cơ chế thực hiện nhiệm vụ quan trắc môi trường 10
1.4.3 Quan trắc và cảnh báo thông tin 11
1.4.4 Đối tượng nuôi, vị trí, bộ thông số và tần suất quan trắc 12
1.5 Kết quả và những hạn chế của mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS 13
1.5.1 Kết quả 13
- Thiết lập và duy trì hoạt động của mạng lưới quan trắc môi trường thủy sản 13
- Xây dựng được cơ sở vật chất trang thiết bị và đội ngũ quan trắc viên 13
- Xây dựng được phương pháp luận quan trắc môi trường phục vụ NTTS 13
- Xây dựng được cơ sở dữ liệu, trang Web phục vụ cảnh báo 14
1.5.2 Hạn chế 14
- Bất cập trong quản lý nhiệm vụ quan trắc theo hình thức đề tài 14
- Thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực 14
- Thiếu kinh phí thường xuyên cho hoạt động quan trắc 14
- Sự phối hợp giữa các bên tham gia còn rất hạn chế 15
- Cơ chế xử lý thông tin phục vụ sản xuất còn chưa hiệu quả 15
- Thiếu bộ thông số thống nhất và cơ chế xử lý thông tin đồng bộ 15
1.6 Nguyên nhân 16
CÁCH TIẾP CẬN CỦA DỰ ÁN 16
1.7 Kế thừa và nâng cao năng lực trang thiết bị và nhân lực hiện có 16
1.8 Thống nhất đầu mối quản lý gắn với cơ quan quản lý và chỉ đạo sản xuất 17
1.9 Tin học hóa, tự động hóa, ứng dụng GIS và viễn thám 17
2
NỘI DUNG CỦA DỰ ÁN 17
1.10 Xây dựng cơ cấu tổ chức của mạng lưới quan trắc (Sơ đồ 1) 17
1.11 Nâng cấp trang thiết bị và phòng thí nghiệm 21
1.12 Nâng cấp cơ sở hạ tầng thông tin cảnh báo 21
1.13 Triển khai nhiệm vụ quan trắc môi trường thường xuyên phục vụ NTTS 21
1.14 Thống nhất bộ thông số quan trắc môi trường trên toàn quốc 22
1.15 Bổ sung, đào tạo nhân lực và hợp tác quốc tế 26
1.16 Tổ chức các nghiên cứu nhằm bổ trợ cho hoạt động quan trắc 26
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN DỰ ÁN 26
KẾT QUẢ DỰ KIẾN VÀ SẢN PHẨM CỦA DỰ ÁN 28
KINH PHÍ THỰC HIỆN DỰ ÁN 29
1.17 Nguồn kinh phí để thực hiện dự án 29
1.18 Nhu cầu kinh phí cho từng nội dung của dự án 29
CÁC RỦI RO CÓ THỂ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN DỰ ÁN VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 31
TỔ CHỨC THỰC HIỆN 32
1.19 Tổng cục Thủy sản 32
1.20 Các trung tâm quan trắc và trạm vùng trực thuộc 32
1.21 Các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh tham gia dự án 32
PHỤ LỤC 33
1.22 PHỤ LỤC 1: CHI TIẾT NỘI DUNG VÀ KINH PHÍ 33
1.23 PHỤ LỤC 2: XÂY DỰNG MỘT SỐ VĂN BẢN QUẢN LÝ PHỤC VỤ
HOẠT ĐỘNG CỦA MẠNG LƯỚI 35
1.24 PHỤ LỤC 3: QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG THƯỜNG XUYÊN PHỤC VỤ
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN GIAI ĐOẠN 2012-2020 36
1.25 PHỤ LỤC 4. TỔNG KINH PHÍ MUA SẮM TRANG THIẾT BỊ BỔ SUNG
CHO CÁC TRUNG TÂM 56
1.26 PHỤ LỤC 5. TỔNG KINH PHÍ MUA SẮM TRANG THIẾT BỊ CHO CÁC
TRẠM VÙNG 62
SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG HỆ THỐNG TRẮC MÔI TRƯỜNG
TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Trong những năm qua, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) Việt Nam đã có bước phát
triển mạnh mẽ, thu được những thành tựu to lớn, góp phần giảm nghèo, tạo thu nhập
và công ăn việc làm cho một bộ phận lực lượng lao động ở nông thôn, đóng góp tích
cực cho kinh tế nông nghiệp nói riêng và kinh tế đất nước nói chung.
3
Hình 1. Sản lượng khai thác và NTTS của Việt Nam trong những năm gần đây
NTTS được đánh giá là một trong những ngành sản xuất có tốc độ tăng trưởng
rất nhanh (Hình 1). Theo thống kê của Tổng cục thủy sản, năm 1994, sản lượng thuỷ
sản nuôi trồng và khai thác nội địa mới chỉ đạt 397,168 tấn, chiếm 30.86% tổng sản
lượng thủy sản. Đến năm 2006, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 1,694,000 tấn; năm
2007 đạt 2,100,000 tấn, chiếm trên 50% tổng sản lượng thuỷ sản. Đến năm 2011, tổng
sản lượng sản phẩm thủy sản đã đạt xấp xỉ 5.3 triệu tấn với giá trị kim ngạch xuất khẩu
của toàn ngành đạt 6.18 tỷ USD trong đó sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 3.052 triệu
tấn chiếm 58% tổng sản lượng. Hiện nay, NTTS đang đóng vai trò vô cùng quan trọng
đối với kinh tế - xã hội với kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm thủy sản đạt 4% GDP,
tạo công ăn việc làm cho khoảng trên 4 triệu lao động.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng, NTTS nước ta cũng đang phải đối mặt
với một số vấn đề tồn tại về môi trường, dịch bệnh. Biểu hiện rõ nét là tình hình bệnh
thủy sản và môi trường suy thoái có chiều hướng gia tăng. Việc tăng diện tích và sản
lượng NTTS cũng tỷ lệ thuận với việc suy giảm chất lượng môi trường nuôi và diện
tích tôm bị bệnh. Bệnh xảy ra với các đối tượng thuỷ sản nuôi đã gây thiệt hại từ vài
chục tỷ đồng đến hàng trăm tỷ đồng trên mỗi vụ nuôi. Tôm nuôi nước lợ thường xảy ra
dịch bệnh, có lúc rải rác ở các vùng miền có lúc xảy ra hàng loạt, gây thiệt hại lớn cho
một số vùng nuôi trọng điểm như Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre, Trà Vinh, Thừa Thiên
Huế, Quảng Ninh… Đặc biệt, thống kê năm 2011 cho thấy tôm nuôi bị dịch bệnh trên
diện rộng, gây thiệt hại khoảng trên 97,000 ha tập trung ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc
Liêu. Năm 2012, dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, tập trung nhiều ở tỉnh Trà Vinh
và đến nay vẫn chưa xác định chính xác nguyên nhân chính gây ra dịch bệnh. Hiện
tượng ngao chết hàng loạt xảy ra hàng năm rải rác từ tháng 12 và tỷ lệ chết cao nhất
thường xuất hiện vào tháng 3 - 4 dương lịch ở miền Nam và từ tháng 4 và tỷ lệ chết
tăng dần từ tháng 6 đến hết tháng 8. Năm 2011, ngao nuôi ở miền Nam bị chết hàng
loạt tại các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Bạc Liêu với tổng diện tích thiệt hại 2.980 ha,
tương đương khoảng 30.000 tấn, ước giá trị thiệt hại khoảng 648 tỷ đồng (Báo cáo tại
hội nghị phát triển nuôi ngao và phòng chống dịch bệnh cho ngao). Trong ba năm gần
4
đây, bệnh cá rô phi đã xuất hiện có tính chất dịch trên toàn miền Bắc do vi khuẩn
Streptococcus sp gây ra vào thời kỳ nắng nóng kéo dài từ tháng 6-9. Cá nuôi lồng trên
biển cũng thường gặp dịch bệnh gây chết rải rác và thường chết hàng loạt khi các yếu
tố môi trường bất lợi ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Khánh Hoà và Bà
Rịa-Vũng Tàu.
Hiện trạng dịch bệnh trên đây cho thấy việc tăng cường quản lý để kiểm soát
dịch bệnh là rất cấp bách. Khác với các loài động vật sống trên cạn, các đối tượng
NTTS phụ thuộc và gắn chặt với môi trường nước và khi đã xảy ra dịch bệnh thì rất
khó chữa trị. Việc kiểm soát dịch bệnh hoàn toàn phụ thuộc vào công tác phòng ngừa,
hạn chế các mối nguy gây ra dịch bệnh. Có thể nói việc quản lý dịch bệnh trong NTTS
hoàn toàn phụ thuộc và việc kiếm soát chất lượng môi trường nước. Công tác quan
trắc môi trường trong NTTS do vậy đóng vai trò cực kỳ quan trọng để giảm thiểu nguy
cơ dịch bệnh, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Ở nước ta, công tác quan trắc môi trường và dự báo khí tượng thuỷ văn đã có từ
rất lâu nhằm phục vụ các nhóm ngành nghề và đối tượng khác nhau. Đối với lĩnh vực
nông nghiệp, đã có mạng lưới quan trắc chất lượng nước phục vụ thủy lợi. Từ năm
2001, Bộ Thủy sản (nay thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã từng bước
hình thành mạng lưới quan trắc phục vụ NTTS và môi trường biển thuộc 4 Viện I, II,
III và Viện NCHS. Hoạt động quan trắc, cảnh báo môi trường, bệnh của các trung tâm
đã đi vào hoạt động và góp phần không nhỏ trong việc quan trắc môi trường vùng nuôi
để đưa ra được những cảnh báo sớm cho người dân nuôi trồng thuỷ sản có những biện
pháp quản lý và phòng tránh những rủi ro do môi trường, bệnh gây ra cho đối tượng
nuôi của mình. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế như nguồn kinh phí chưa đủ để thực
hiện quan trắc, ảnh hưởng tới quá trình thực hiện về phạm vi, đối tượng quan trắc và
tần số quan trắc; các bộ tiêu chuẩn (TCVN, TC ngành) còn nhiều bất cập nên đã ảnh
hưởng đến quá trình đánh giá; một số tỉnh còn nuôi theo hình thức nhỏ lẻ do vậy việc
quản lý vùng nuôi còn gặp nhiều khó khăn; các thiết bị quan trắc, phân tích còn thiếu
và lạc hậu; chưa có chế tài rõ ràng về việc thông báo các kết quả quan trắc chất lượng
môi trường, bệnh nên việc đưa thông tin quan trắc đến được với các hộ dân còn chậm,
hiệu quả còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, mạng lưới kiểm soát và cảnh báo môi
trường, bệnh của các Chi cục Thủy sản/ NTTS tại các địa phương về nhân lực cũng
như kinh phí còn thiếu nên khó kiểm soát được toàn bộ khu vực nuôi như mong muốn.
Ngoài ra, biến đổi khí hậu và những hiện tượng thời tiết bất thường không theo qui
luật, hiện tượng bão lũ, hạn hán đã có những tác động không nhỏ đến sản xuất
NTTS. Hậu quả là hiện tượng môi trường suy thoái và bệnh vẫn xảy ra đối với nhiều
đối tượng nuôi, gây thiệt hại không nhỏ đối với kết quả hoạt động sản xuất NTTS.
Những bất cập trên đây cho thấy hoạt động Quan trắc môi trường, bệnh ngày càng trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với sự tồn tại và phát triển NTTS.
Hiện nay, công tác quản lý sản xuất NTTS đang được Bộ NN&PTNT quan tâm
chỉ đạo để tăng cường quản lý sản xuất theo hướng phát triển bền vững, góp phần thiết
thực đảm bảo an ninh lương thực và thực phẩm, tăng kim ngạch xuất khẩu và bảo vệ
5
môi trường sinh thái. Công tác cảnh báo môi trường trong NTTS hiện nay rất cần phải
nâng cấp và cần phải gắn kết chặt chẽ với cơ quan quản lý và chỉ đạo sản xuất. Việc
xây dựng dự án “Xây dựng mạng lưới quan trắc, cảnh báo môi trường phục vụ nuôi
trồng thuỷ sản đến năm 2020” là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất và
phát triển NTTS bền vững.
CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG DỰ ÁN
- Luật Thuỷ sản được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua ngày 26/11/2003;
- Luật Bảo vệ Môi trường của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số
52/2005/QH 11 ngày 29 tháng 11 năm 2005;
- Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá
tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường;
- Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg: Về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể hệ
thống quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020” ban hành
ngày 29/01/2007;
- Quyết định số 10/2007/QĐ-BTNMT ngày 5/7/2007 của Bộ trưởng Bộ TN&MT
về việc ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật hoạt động quan trắc môi trưởng
không khí xung quanh và nước mặt;
- Thông tư số 10/2007/TT-BTNMT ngày 22/10/2007 của Bộ TN&MT hướng dẫn
bảo đảm chất lượng và kiểm soát chất lượng trong quan trắc môi trường;
- Quyết định 3244/QĐ-BNN-KHCN ngày 02 tháng 12 năm 2010 Phê duyệt Đề
án Tăng cường năng lực quan trắc môi trường nông nghiệp, nông thôn giai đoạn
2011 – 2020;
- Thông báo 215/TB-BNN-VP ngày 22/6/2011 về ý kiến của Bộ trưởng Cao Đức
Phát về việc lập dự án điều tra nguồn lợi thủy sản và dự án xây dựng mạng lưới
quan trắc môi trường.
MỤC TIÊU CỦA DỰ ÁN
1.1 Mục tiêu chung
Xây dựng được mạng lưới quan trắc môi trường đáp ứng yêu cầu cảnh báo
dịch bệnh trong NTTS phục vụ quản lý và chỉ đạo sản xuất NTTS bền vững, có
hiệu quả.
1.2 Mục tiêu cụ thể
- Xây dựng được mạng lưới quan trắc môi trường có nguồn nhân lực và trang
thiết bị đầy đủ, đồng bộ và hiện đại, đáp ứng được nhu cầu cảnh báo trong chỉ đạo sản
xuất NTTS.
6
- Triển khai được các hoạt động quan trắc môi trường và dịch bệnh trong NTTS
đáp ứng yêu cầu chỉ đạo và điều hành sản xuất.
HIỆN TRẠNG QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG NTTS Ở VIỆT NAM VÀ KINH
NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1.3 Kinh nghiệm quan trắc môi trường thuỷ sản ở một số nước
Hoạt động quan trắc trên thế giới được tiến hành trên nhiều lĩnh vực, phục vụ
nhiều mục tiêu khác nhau như khí tượng thuỷ văn, động đất và sóng thần… Đối với
NTTS, hoạt động quan trắc môi trường có những nét đặc thù và mỗi nước có cách tiến
hành khác nhau. Bản Quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm của FAO cũng đó đề cập
đến việc bắt buộc phải có hoạt động quan trắc môi trường đối với các vực nước trong
phạm vi một quốc gia hay các hệ sinh thái liên quốc gia. Cơ sở dữ liệu quan trắc phải
được chia sẻ (FAO, 1995).
Một số bang ở Mỹ có những chương trình quan trắc chi tiết cho các khu vực
NTTS trong đó các thông số chất lượng nước, cấu trúc và chức năng của quần xã sinh
vật đáy, tảo, dịch bệnh được giám sát kỹ lưỡng. Ở Thái Lan, hoạt động quan trắc trong
NTTS do Cục nghề cá đảm nhận và có sự phân cấp hoạt động cho các tỉnh. Hệ thống
quan trắc có 218 trạm quan trắc chất lượng nước bao gồm cả thủy sinh. Hoạt động
quan trắc chất lượng nước trong NTTS biển là việc bắt buộc phải thực hiện theo Luật
thuỷ sản (National Offshore Aquaculture Act of 2000) do một uỷ ban liên ngành gồm
các cơ quan của chính phủ (Gerstenfeld và Biederman, 2002).
Ở Nauy, trong khi đệ trình dự án, chủ trại phải chỉ ra rằng mình có khả năng
thực hiện việc quan trắc và xử lý môi trường theo yêu cầu của các nhà quản lý môi
trường. Ở Scottland, Cục Bảo vệ Môi trường (SEPA) yêu cầu chủ trại phải thực hiện
việc quan trắc và kinh phí quan trắc tự chi trả. Việc giám sát công tác quan trắc môi
trường (gồm cả việc sử dụng thuốc và hoá chất) do nhiều cơ quan khác nhau phối hợp
và các cơ quan địa phương đóng vai trò quan trọng. Cục nghề cá Ireland yêu cầu chủ
trại có sản lượng hàng năm trên 100 tấn phải có báo cáo đánh giá hoạt động và giám
sát môi trường (Cicin-Sain, 2001). Việc giám sát môi trường trong NTTS ở Canada
cũng có nhiều chồng chéo và phức tạp. Luật nghề cá sửa đổi của Úc cũng có đề cập
các điều khoản về quan trắc môi trường.
Giám sát và quản lý tảo độc, sự nở hoa của tảo và đặc biệt là các loài thuộc lớp
Dinophyceae và tảo Silic biển gây nên sự nhiễm độc cho thuỷ, hải sản từ đó ảnh hưởng
đến ngành công nghiệp nuôi và đánh bắt các thuỷ, hải sản. Nhiều nước đã đặt nhiệm
vụ cấp bách phải kiểm tra giám sát quản lý độc tố trong thuỷ hải sản và trong thực vật
phù du (Andersen P, 1996).
Canada có hệ thống giám sát thủy hải sản từ năm 1943, hệ thống giám sát của
nước này đã chia vùng nuôi trồng và đánh bắt hải sản thành các mạng lưới hoặc các
trạm, thường xuyên kiểm tra định kỳ các mẫu hải sản đánh bắt và các mẫu thực vật
phù du gây độc (Đặng Đình Kim, 1999). Đến năm 1996, có ít nhất 33 quốc gia ven
biển đã thiết lập hệ thống quan trắc tảo độc hại thường xuyên (Andersen, 1996).Cộng
7
đồng châu Âu (EU) yêu cầu các vùng nguyên liệu thân mềm hai mảnh vỏ nhập khẩu
vào thị trường của khối liên minh này phải được quan trắc thường xuyên. Trong đó,
hàm lượng độc tố PSP không được vượt quá 0,08 mg/1kg thịt và độc tố DSP không
được quá 0,020 mg/1kg thịt (Cộng đồng EU, 1991). Tại Đan Mạch hệ thống giám sát
thủy hải sản có rất sớm, riêng vùng đánh bắt sò xanh được chia thành hệ thống gồm
nhiều mạng lưới và việc đánh bắt hải sản sẽ bị cấm trừ khi các mẫu hải sản và nước
được kiểm tra từ tuần trước đó về độc tố và tảo độc nằm trong ngưỡng cho phép.
Có thể thấy, xu hướng hoạt động quan trắc môi trường nước nhìn chung phát
triển theo hướng mở rộng quy mô, đa dạng về hình thức, phân cấp mạnh và ngày càng
có nhiều bên tham gia. Việc quan trắc cần gắn trực tiếp với sản xuất, vừa là nghĩa vụ,
vừa là nhu cầu đối với sản xuất NTTS.
1.4 Hiện trạng mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS
1.4.1 Mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS
Năm 2001, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường phối hợp với Bộ Thuỷ Sản
tổ chức khởi đầu hoạt động “Quan trắc, cảnh báo môi trường và dịch bệnh thủy sản”
cho ngành Thuỷ sản nhằm tìm ra hình thức hoạt động quan trắc môi trường phù hợp
với đặc thù hoạt động của ngành Thủy sản. Bộ Thuỷ sản đã phân công các cơ quan
chức năng trong Ngành tham gia thực hiện đề tài nghiên cứu về “Quan trắc, cảnh báo
môi trường và dịch bệnh phục vụ ngành thuỷ sản”. Theo đó 4 Trung tâm quan trắc mới
về dự báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh phục vụ nuôi trồng và bảo vệ nguồn
lợi thủy sản được thiết lập. Đây là cơ sở để tiến tới hình thành mạng lưới quan trắc
cảnh báo môi trường và dịch bệnh phục vụ nuôi trồng thuỷ sản cho ngành thủy sản. Từ
năm 2004, các trung tâm quan trắc ngành thủy sản từng bước hoà nhập với mạng lưới
quan trắc môi trường chung của quốc gia.
Hiện nay 04 Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và dịch bệnh cho NTTS
thuộc 04 Viện nghiên cứu NTTS là các Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, II, III
và Viện nghiên cứu hải sản (gọi tắt là Viện I, II, III và Viện NCHS). Ngoài chức năng
quan trắc và cảnh báo, các Trung tâm này đều có chức năng nghiên cứu phục vụ
những vấn đề đặc thù của các Viện quản lý trực tiếp giao cho. Cơ cấu tổ chức của các
Trung tâm bao gồm: Ban Giám đốc, Văn phòng, các phòng chuyên môn. Bốn trung
tâm này còn có một số trạm vùng trực thuộc ở những vùng nuôi trọng điểm đặc thù.
Bảng 1 thể hiện nhân sự tham gia vào mạng lưới quan trắc. Tổng số cán bộ thực
hiện quan trắc, cảnh báo môi trường nuôi trồng thuỷ sản khoảng 119 cán bộ. Trong đó,
có khoảng 57 cán bộ chuyên làm về công tác Quan trắc và 22-37 cán bộ làm hợp đồng.
Bảng 1: Nhân sự của mạng lưới quan trắc môi trường thủy sản
Tên cơ quan Tổng
số cán
Cán bộ
chuyên
Lao động
hợp đồng
Số
trạm
Số
điểm
8
bộ trách vùng đo
Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường 03
1
Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường
và phòng ngừa dịch bệnh Miền Bắc
37 20 30 8 51
Trung tâm quốc gia quan trắc môi trường
biển
17 05 02 0 60
Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường
và phòng ngừa dịch bệnh Miền Trung
21 14 - 4 22
Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường
và phòng ngừa dịch bệnh Nam Bộ
35 18 - 5 53
Tổng số cán bộ làm công tác quan trắc
môi trường thủy sản
119
Trong số 04 Trung tâm quan trắc, chỉ có Trung tâm Quan trắc miền Nam thuộc
Viện II đã được đầu tư từ năm 2005 với cơ sở vật chất tương đối đầy đủ và hiện đại;
03 trung tâm còn lại đều chưa được đầu tư cơ sở hạ tầng. Các trang thiết bị phục vụ
nghiên cứu môi trường và bệnh nói chung, phục vụ hoạt động quan trắc nói riêng của
03 trung tâm trên chủ yếu là từ các nguồn đầu tư nhỏ lẻ hàng năm hay từ các đề tài
khác nên chưa được đồng bộ và thiếu rất nhiều trang thiết bị thiết yếu.
Cho đến nay, “Nhiệm vụ Quan trắc và Cảnh báo Chất lượng Môi trường và
Dịch bệnh Thủy sản” được Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường chỉ đạo các Trung
tâm Quan trắc trực thuộc các Viện I, II, III và Trung tâm Quan trắc Môi trường biển
thuộc Viện Nghiên cứu Hải sản thực hiện theo hình thức giao nhiệm vụ hàng năm.
Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh Miền Bắc
thuộc Viện I, gồm có các phòng chuyên môn là Phòng Bệnh động vật thủy sản, Phòng
Môi trường, Phòng thông tin và Cảnh báo cùng các phòng thí nghiệm chuyên môn và
Văn phòng. Ngoài các đơn vị trực thuộc tại Trung tâm còn có 8 trạm vùng: Trạm Cát
Bà, Quý Kim, Hải Dương, Nam Định, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Sơn La và Tuyên
Quang. Trên thực tế, chỉ mới có các trạm vùng có cơ sở vật chất và nhân lực nằm trên
các đơn vị của Viện I đã thực hiện chức năng của trạm ở các mức độ khác nhau, các
trạm vùng không thuộc Viện chưa được xây dựng. Hoạt động hợp tác trong nhiệm vụ
quan trắc thường niên với các đơn vị quản lý thủy sản nơi có các trạm vùng không
thuộc Viện cũng chưa được phối hợp chặt chẽ ngoại trừ với Chi Cục NTTS Thừa
Thiên Huế.
Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh Nam Bộ -
Viện II gồm 3 phòng chức năng chính là Phòng bệnh học thủy sản, Phòng Môi trường,
Phòng thông tin, tổng hợp. Các trạm thu mẫu được phân chia thành trạm cấp I (7 trạm)
và cấp II. Trạm cấp I là các trạm tối thiểu giúp thu thập các tài liệu cơ bản để phân tích
đánh giá chất lượng nước của một tiểu vùng. Trạm cấp II là các trạm mở rộng theo yêu
cầu và điều kiện cho phép. Các địa điểm chính là Bán đảo Cà Mau, Đồng Tháp Mười,
Sông Tiền, Sông Hậu, Tứ giác Long Xuyên.
1
Hiện chỉ có 03 cán bộ phụ trách trực tiếp lĩnh vực môi trường thủy sản.
9
Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh Miền Trung
- Viện III, thực hiện quan trắc môi trường tại các tỉnh Nam Trung bộ và các tỉnh Tây
nguyên gồm 7 trạm đo.
Trung tâm quốc gia Quan trắc môi trường biển thuộc Viện nghiên cứu Hải sản,
tham gia vào trạm quan trắc phân tích môi trường biển quốc gia (Trạm quan trắc biển
khơi 5) và phụ trách quan trắc môi trường biển vùng biển khơi Côn Đảo, Trung và
Đông Nam Bộ, Tây Nam bộ.
Trong những năm qua với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ thực hiện công tác quan
trắc môi trường, đã góp phần không nhỏ cho việc cảnh báo sớm những diễn biến bất
lợi về môi trường nuôi trồng thuỷ sản theo khu vực và từng địa phương. Đặc biệt là
cảnh báo đối với các đối tượng nuôi chủ lực như tôm sú, cá tra, tôm hùm, nhuyễn thể
đã giúp người dân tránh được không ít những rủi ro trong sản xuất như có kế hoạch
thu hoạch sớm, thả giống đúng thời điểm môi trường thuận lợi, tránh lấy nước vào ao
nuôi khi môi trường bất lợi
Tuy nhiên do NTTS ngày càng phát triển về diện tích và sản lượng nên với số
lượng cán bộ làm công tác quan trắc hiện có đã rất khó khăn để có mặt tại hiện trường
với địa bàn hoạt động rộng khắp. Các Trung tâm đã phải linh hoạt phối hợp với Chi
cục tại địa phương thực hiện nhiệm vụ quan trắc. Cũng do kinh phí hạn chế nên việc
phối hợp còn chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Việc bồi dưỡng kiến thức
chuyên sâu về môi trường, bệnh, các phương pháp thống kê số liệu quan trắc đồng bộ,
phương pháp lấy mẫu còn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, kinh phí hàng năm
chưa đảm bảo để các cán bộ được tham gia nhiều khoá đào tạo nâng cao trình độ năng
lực trong nước và nước ngoài.
1.4.2 Cơ chế thực hiện nhiệm vụ quan trắc môi trường
Nhiệm vụ hàng năm được tổ chức thực hiện theo kinh phí Vụ Khoa học Công
nghệ và Môi trường dự kiến cho mỗi trung tâm quan trắc. Theo đó, các trung tâm xây
dựng kế hoạch theo dạng đề tài và được Hội đồng Khoa học của các Viện thông qua
sau được Hội đồng Khoa học của Bộ xét duyệt. Sau mỗi năm thực hiện hoạt động
quan trắc theo đề cương đã được phê duyệt, các trung tâm quan trắc tiến hành tổng kết
nhiệm vụ của mình thông qua Hội đồng khoa học của các Viện; sau đó hồ sơ nghiệm
thu cơ sở được gửi lên Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường để nghiệm thu cấp Bộ.
Về cơ chế hoạt động, tùy theo điều kiện của từng trung tâm và các trạm vùng,
điểm đo mà một số hoạt động quan trắc được phân nhánh cho các trạm vùng. Đối với
Trung tâm Quan trắc miền Bắc, trạm vùng Hải Phòng, trạm vùng Nghệ An và trạm
vùng Thừa Thiên Huế thực hiện các hoạt động quan trắc trong địa bàn của mình theo
dạng hợp đồng nhánh sau khi đã có sự thống nhất về nội dung quan trắc theo đề cương
đã được Bộ phê duyệt.
10
Hiện nay kinh phí chi cho hoạt động quan trắc cảnh báo hàng năm rất hạn chế
trong khi nhu cầu quan trắc rất lớn (Bảng 2). Các trung tâm không thể tiến hành quan
trắc trên nhiều đối tượng nuôi, nhiều điểm đo và tần suất quan trắc cao.
Bảng 2: Kinh phí hàng năm từ 2005-2008
Tên đơn vị Kinh phí hàng năm
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
TTQT CBMT và PNDB Miền Bắc 250 450 750 960 960 960 400
TTQG QTCB môi trường biển 400 600 1.10
0
- 1150 1150 500
TTQG QTCB MT và PNDB Miền Trung 350 550 800 1.200 1200 1200 600
TTQG QTCBMT và PNDB Nam Bộ 350 550 900 - 1600 2800 600
1.4.3 Quan trắc và cảnh báo thông tin
Trong quá trình thực hiện quan trắc, các báo cáo định kỳ hàng quý được gửi lên
Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Các bản tin quan trắc được gửi cho người
nuôi; vùng nuôi và cơ quan quản lý NTTS của địa phương (tùy vào từng địa phương
cơ quan quản lý NTTS tham gia vào hoạt động quan trắc với các trung tâm có thể là
trung tâm khuyến ngư, chi cục NTTS hay chi cục Thủy sản); Vụ Khoa học Công nghệ
và Môi trường và Tổng cục Thủy sản. Riêng tại Trung tâm Quan trắc Miền Bắc, với sự
phối hợp với Chi Cục NTTS Thừa Thiên Huế, thông tin quan trắc môi trường và bệnh
được đưa lên Đài truyền hình tỉnh 1 lần/tuần và có phát lại.
Số liệu quan trắc phục vụ các bản tin được xử lý bằng cách đối chiếu với các tiêu
chuẩn ngành (TCN), tiêu chuẩn quốc gia (TCQG) cho từng đối tượng nuôi hay loại
hình thủy vực đã tương ứng. Nhiều thông số do không có các tiêu chuẩn sẵn có được
suy diễn căn cứ vào kinh nghiệm và sự tham khảo của các tác giả khác để tổng hợp và
đưa ra nhận định.
Các bản tin đồng thời được đưa lên trang Web của Vụ Khoa học Công nghệ và
Môi trường. Khi trang Web chỉ mới phục vụ thông tin về môi trường thủy sản, các bản
tin được đăng tải đều đặn theo các hoạt động thu mẫu của các trung tâm. Sau khi được
mở rộng và cấu trúc lại nhằm mục đích chuyển tải thông tin môi trường nông nghiệp
nói chung từ năm 2010, trang Web này mới chỉ đang trong quá trình thử nghiệm và
thông tin quan trắc thủy sản được đưa lên mạng không thường xuyên.
Việc duy trì liên lạc thường xuyên trong mạng lưới còn yếu, đặc biệt là giữa các
trung tâm với các vùng nuôi do tính phân tán của các hoạt động NTTS. Bên cạnh đó,
yếu tố chủ quan là sự phối hợp giữa trung tâm với các trạm vùng, trung tâm với các
tỉnh còn nhiều bất cập nên việc tiếp nhận phản hồi từ người dân về tính hữu ích của
thông tin cảnh báo chưa cao.
11
1.4.4 Đối tượng nuôi, vị trí, bộ thông số và tần suất quan trắc
Căn cứ vào điều kiện NTTS của từng miền, nguồn kinh phí và yêu cầu về mặt
khoa học của những thông số cần quan trắc các trung tâm đã đưa ra hình thành nên
mạng lưới quan trắc trong vùng quản lý của mình với mạng lưới các trạm vùng, điểm
đo, bộ thông số và tần suất đo phục vụ những đối tượng nuôi cụ thể.
Ở miền Bắc, quan trắc môi trường và bệnh khu vực nuôi tôm sú, tôm chân trắng
ở các tỉnh ven biển; cá biển nuôi lồng ở Quảng Ninh và Hải Phòng; cá rô phi nuôi
thâm canh tại Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hà Nội; nhuyễn thể tại các tỉnh
Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa và Nghệ An.
Ở miền Trung, quan trắc môi trường và bệnh tại các khu vực nuôi tôm sú, tôm
chân trắng, tôm hùm và cá biển từ Đà Nẵng đến Bình Thuận.
Miền Nam chủ yếu quan trắc môi trường phục vụ nuôi tôm và nhuyễn thể ở các
tỉnh ven biển Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Bến Tre,
Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, nuôi cá biển ở Vũng Tàu, Kiên Giang; cá
Tra ở các tỉnh Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Cần Thơ, Hậu
Giang.
Thông số quan trắc được chia làm 4 nhóm gồm thủy lý hóa, thủy sinh, trầm tích
và bệnh. Các thông số này có thể có một số khác biệt giữa các trung tâm quan trắc trên
từng đối tượng nuôi cụ thể.
• Các thông số về chất lượng nước: Nhiệt độ, Oxy, pH, Thế oxy - hóa khử, độ
muối, độ trong, CO
2
, độ cứng, kiềm tổng số, Phosphate, Ammonia, NH
3
,
Nitrate, Nitrite, nhu cầu ô xy hóa học (COD), nhu cầu oxy sinh học (BOD),
Sulfide, Sắt tổng số, tổng N, tổng P, Chloropyll-a, dư lượng váng dầu, Chì,
Cadmium, Đồng, Thủy ngân, Asen và Kẽm.
• Các thông số về bệnh: Vi khuẩn hiếu khí; Vi khuẩn Vibrio; Coliform; vi khuẩn
trên tôm và cá; Virut đốm trắng, đầu vàng và Taura trên tôm; mô, nấm, ký sinh
trùng, virut trên cá.
• Các thông số và động thực vật thủy sinh: Thực vật phù du, Tảo độc hại, Động
vật phù du và động vật đáy.
• Các thông số về môi trường trầm tích như: Thành phần cơ giới, hô hấp đất, pH
đất, thế Oxy hóa-Khử, Tổng N đáy, tổng P đáy, tổng C đáy, tổng lưu huỳnh,
tổng sắt trong đất, nấm trong đất và vi khuẩn Vibrio.
Tần suất quan trắc định kỳ của các Trung tâm cũng có khác biệt giữa các đối
tượng nuôi khác nhau và thậm chí trên cùng một đối tượng. Tần suất quan trắc thường
từ 3 - 6 lần/năm tập trung vào 06 tháng mùa vụ sản xuất chính trong năm. Ví dụ nhóm
các yếu tố dinh dưỡng được quan trắc 1 lần/tháng ở miền Bắc, 0.25 lần/tháng ở miền
Trung đối với tôm Sú. Ngoài quan trắc định kỳ, quan trắc đột xuất tiến hành khi có
12
hiện tượng dịch bệnh xảy ra trên diện rộng đối với các đối tượng như tôm, cá biển và
cá nước ngọt, nhuyễn thể.
1.5 Kết quả và những hạn chế của mạng lưới quan trắc môi trường trong NTTS
1.5.1 Kết quả
- Thiết lập và duy trì hoạt động của mạng lưới quan trắc môi trường thủy sản
Mạng lưới quan trắc môi trường thủy sản được hình thành dựa vào 04 trung tâm
quan trắc thuộc Viện I, II, III và Viện NCHS với mục tiêu là cung cấp được cho người
nuôi và các nhà quản lý diễn biến môi trường và bệnh để điều hành và chỉ đạo sản xuất
cũng như đánh giá tác động của NTTS lên môi trường. Mạng lưới gồm có các trung
tâm ở ba miền hoạt động theo yêu cầu quan trắc môi trường từ Vụ Khoa học Công
nghệ và Môi trường. Dưới các trung tâm là các trạm vùng và dưới các trạm vùng là
các điểm đo phân bố ở tại một số vùng nuôi trọng điểm, vùng nuôi tập trung.
- Xây dựng được cơ sở vật chất trang thiết bị và đội ngũ quan trắc viên
Cơ sở vật chất trang thiết bị tham gia vào hoạt động quan trắc đã được nâng cấp
từ nhiều nguồn, dự án khác nhau. Trung tâm quan trắc miền Nam đã được xây dựng cơ
sở hạ tầng và trang thiết bị khá đầy đủ. Các trung tâm còn lại cũng đã được phê duyệt
dự án xây dựng, nâng cấp trang thiết bị. Nhân lực thực hiện quan trắc được bổ sung
dần vừa là để đáp ứng nhu cầu quan trắc, vừa để thực hiện các nhiệm vụ môi trường và
bệnh phục vụ NTTS. Lực lượng này cũng được tập huấn, đào tạo thêm về nghiên cứu
và quan trắc môi trường nước được lồng ghép trong các nhiệm vụ môi trường hàng
năm ở các cấp trung tâm và một số ít ở các trạm trạm vùng.
- Xây dựng được phương pháp luận quan trắc môi trường phục vụ NTTS
Từ đặc thù NTTS nhỏ lẻ và phân tán gồm nhiều đối tượng loài nuôi, loại hình
nuôi dẫn đến môi trường và bệnh trong NTTS diễn biến rất phức tạp. Trong khi đó
kinh phí được cấp hàng năm, cơ sở vật chất cũng như đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu
so với nhu cầu, các trung tâm quan trắc đã xác định được cách thức tiếp cận tương đối
hợp lý. Đến nay các trung tâm đã xây dựng được đối tượng nuôi, địa điểm, bộ thông số
và tần suất quan trắc cho từng miền, từng khu vực.
Ngoài ra, trong những năm qua, các Trung tâm đã thực hiện một số nhiệm vụ cấp
bộ, các nhiệm vụ môi trường về quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch
bệnh thuỷ sản phục vụ trực tiếp hay gián tiếp hỗ trợ hoạt động quan trắc và cảnh báo.
Hoạt động “Đánh giá sức tải của khu vực nuôi cá lồng bè theo phương pháp MOM của
Nauy” do Trung tâm Quan trắc miền Bắc tiến hành ở Cát Bà (Hải Phòng) và Vân
Phong (Khánh Hòa) đã bổ sung thêm phương pháp luận trong việc quan trắc môi
trường nuôi cá lồng bè ở Việt Nam. Đề tài “Đánh giá sức tải môi trường nuôi cá tra”
do Trung tâm Quan trắc Miền Nam tiến hành đã và đang góp phần vào việc đánh giá
tác động môi trường của việc nuôi đối tượng chủ lực là cá tra lên môi trường và giúp
cho việc cảnh báo các ảnh hưởng tiêu cực của việc nuôi cá lên môi trường và các
ngành kinh tế khác.
13
- Xây dựng được cơ sở dữ liệu, trang Web phục vụ cảnh báo
Do đặc thù sản xuất NTTS ở từng vùng khác nhau, việc thống nhất được cách
thức tiếp cận, phương pháp triển khai và xây dựng cơ sở dữ liệu chung trên phạm vi
toàn quốc là rất khó. Tuy nhiên, mạng lưới đã có những thống nhất và xây dựng được
CSDL mà qua đó có thể phục vụ phân tích xu hướng diễn biến, cung cấp thông tin cho
người nuôi, nhà quản lý. “Nhiệm vụ ứng dụng CNTT trong quan trắc, cảnh báo môi
trường, bệnh thủy sản” do Trung tâm Quan trắc Miền Bắc thực hiện đã xây dựng được
CSDL môi trường, bệnh, công cụ mô hình hóa, GIS, module cảnh báo suy diễn. Bộ đã
đánh giá cao và cho tiếp tục phát triển với quy mô lớn hơn cho toàn bộ lĩnh vực môi
trường nông nghiệp. Hiện nay, các bản tin cảnh báo đã có thể được tải lên trang Web
. Dữ liệu này có thể được truy cập trên mạng
Internet từ trang Web hiện có. Các bản tin quan trắc định kỳ của các trung tâm, tin tức
và những sự cố môi trường, dịch bệnh có đã và đang được đăng tải ngày một nhiều.
1.5.2 Hạn chế
- Bất cập trong quản lý nhiệm vụ quan trắc theo hình thức đề tài
Việc phê duyệt và tổng kết nhiệm vụ quan trắc được thực hiện giống như một
nhiệm vụ khoa học. Cách quản lý nhiệm vụ quan trắc là nhiệm vụ hàng năm theo hình
thức đề tài có nhiều bất cập do hoạt động quan trắc có đặc thù về mùa vụ cần phải thực
hiện kịp thời. Trong khi đó, việc phê duyệt và nghiệm thu nhiệm vụ thường rất chậm
so với nhu cầu sản xuất nên không thể đáp ứng thực tiễn sản xuất.
- Thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực
Tuy mạng lưới hiện nay đã được hình thành và đi vào hoạt động nhưng chủ yếu
các trung tâm quan trắc vẫn dựa trên cơ sở phòng thí nghiệm, trang thiết bị máy móc
của các Viện được đầu tư từ nhiều nguồn đề tài, dự án, tài trợ nhỏ lẻ phục vụ nghiên
cứu là chủ yếu chứ chưa được đầu từ quy mô, đồng bộ nhằm phục vụ quan trắc môi
trường (trừ đầu tư cho Trung tâm Quan trắc Miền Nam). Các trạm vùng của trực thuộc
các trung tâm hầu như chưa được đầu tư và trang thiết bị thiết yếu cho quan trắc hiện
trường cũng như phòng thí nghiệm. Bởi vậy, nhiều thông số môi trường như kim loại
nặng, thuốc trừ sâu phải thuê kiểm nghiệm ở nơi khác làm giảm tính thời sự của thông
tin quan trắc.
Nhân lực tham gia vào quan trắc môi trường thủy sản hiện nay còn thiếu nhiều,
chủ yếu được đào tạo về các chuyên ngành liên quan đến NTTS, hóa học và môi
trường trong khi họ ít được đào tạo về quan trắc và cảnh báo môi trường dịch bệnh là
lĩnh vực vừa có tính chuyên môn sâu nhưng cũng vừa có tính tổng hợp rất cao. Việc
bổ sung nhân lực gặp nhiều khó khăn do khung biên chế dành cho các trung tâm chỉ
chiếm khoảng 25% tổng nhu cầu nhân lực.
- Thiếu kinh phí thường xuyên cho hoạt động quan trắc
Kinh phí được cấp cho hoạt động quan trắc cho đến nay chỉ dựa vào nguồn sự
nghiệp môi trường và nhỏ hơn rất nhiều so với nhu cầu quan trắc. Mặt khác, kinh phí
14
cũng không được cấp đều giữa các năm nên việc giảm số điểm đo, tần suất đo, thông
số đo thường xảy ra. Năm 2011, cả 04 trung tâm quan trắc chỉ được cấp khoảng 2 tỷ
đồng, giảm 60% so với năm 2010. Điều này dẫn đến sự gián đoạn của cơ sở dữ liệu,
khó đưa ra được xu hướng diễn biến môi trường và dịch bệnh. Mặt khác, thiếu nguồn
kinh phí dự phòng nên khi có những sự cố môi trường và bệnh xảy ra, các trung tâm
không thể tổ chức ứng phó kịp thời.
- Sự phối hợp giữa các bên tham gia còn rất hạn chế
Mạng lưới quan trắc môi trường tuy đã được hình thành, đã xác định được mục
đích và đối tượng tiếp nhận thông tin quan trắc nhưng thiếu cơ chế hợp tác rõ ràng
giữa các bên tham gia trong việc lập kế hoạch, tổ chức quan trắc thường niên và chia
sẻ thông tin. Phân cấp quan trắc giữa các trung tâm với các trạm vùng, điểm đo, hợp
tác giữa các trung tâm với các đơn vị quản lý nhà nước của các tỉnh về môi trường và
bệnh thủy sản chưa rõ ràng, thống nhất. Sự tham gia của các cơ quan trực tiếp chỉ đạo
NTTS từ trung ương tới địa phương trong việc lập kế hoạch, triển khai các hoạt động
thu, phân tích dữ liệu, tiếp nhận và xử lý thông tin quan trắc còn nhiều hạn chế. Do
vậy, thực hiện các hoạt động quan trắc chưa đồng bộ, thông tin quan trắc được chưa
phát huy hiệu quả, chưa phải là công cụ hữu hiệu góp phần chỉ đạo sản xuất NTTS.
- Cơ chế xử lý thông tin phục vụ sản xuất còn chưa hiệu quả
Một trong những mục tiêu cơ bản của mạng lưới được xác định là đưa ra được
những thông tin cảnh báo kịp thời về môi trường và bệnh thủy sản phục vụ trực tiếp
cho chỉ đạo điều hành và quản lý sản xuất. Tuy nhiên, việc xác định quan trắc môi
trường nuôi đối tượng gì, quan trắc ở đâu và thông tin quan trắc được phổ biến tới các
cơ quan quản lý trung ương cũng như địa phương và người nuôi như thế nào chưa
được chính những cơ quan này tham gia ngay từ khâu lên kế hoạch hàng năm. Các cơ
quan quản lý và chỉ đạo sản xuất nhận được thông tin từ các trung tâm một cách bị
động do chưa có một cơ chế ràng buộc, thống nhất và việc gửi thông tin quan trắc
được. Việc phối hợp và trao đổi thông tin giữa các Trung tâm quan trắc với nhau và
với các đơn vị quan trắc ngoài ngành nông nghiệp còn chưa kịp thời, chưa phục vụ
tích cực cho hoạt động quản lý sản xuất NTTS.
- Thiếu bộ thông số thống nhất và cơ chế xử lý thông tin đồng bộ
Hiện nay, tuy đã có nhiều nỗ lực thống nhất về cách thức tiếp cận chung và
phương pháp quan trắc, bộ thông số, tần suất quan trắc, cách xử lý số liệu, quản lý dữ
liệu và phương pháp cảnh báo, gửi thông tin của các trung tâm thuộc các Viện I, II, III
vẫn còn nhiều khác biệt. Nhiều thông số môi trường nuôi chưa có tiêu chuẩn cụ thể,
chưa có các tiêu chuẩn về thủy sinh vật, bệnh, kim loại nặng, hoặc có các tiêu chuẩn
nhưng chưa có tiêu chuẩn riêng cho NTTS. Việc áp dụng các tiêu chuẩn, chỉ số,
phương pháp đánh giá của nước ngoài vào điều kiện NTTS đặc thù nhỏ lẻ, phân tán và
đa dạng loài nuôi, hình thức nuôi không thể tránh khỏi khiên cưỡng do đặc thù sản
xuất khác nhau. Những hạn chế trên dẫn đến mạng lưới quan trắc thiếu hẳn tính thống
15
nhất, làm cho cơ quan quản lý sản xuất và người sản xuất rất khó tiếp cận và xử lý
thông tin thu được.
1.6 Nguyên nhân
Những hạn chế trên đây của mạng lưới quan trắc môi trường xuất phát từ các nguyên
nhân chính sau đây:
• Ngành thủy sản chưa có chiến lược phát triển mạng lưới quan trắc môi trường
phục vụ NTTS hợp lý và đồng bộ về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và cơ chế
vận hành.
• Việc đầu tư cho hoạt động quan trắc môi trường (cơ sở vật chất, phòng thí
nghiệm, nhân lực …) còn manh mún, thiếu sự đồng bộ, thiếu nhất quán, bị gián
đoạn.
• Việc điều phối hoạt động quan trắc môi trường chưa có sự gắn kết với công tác
quản lý và chỉ đạo sản xuất, thiếu sự tham gia tích cực và trực tiếp của cơ quan
quản lý nhà nước về NTTS ở trung ương cũng như các địa phương và vùng
nuôi.
• Chưa có sự thống nhất về phương pháp luận trong hoạt động quan trắc, bộ
thống số, phương pháp xử lý số liệu phục vụ đặc thù cho sản xuất NTTS.
• Chưa có nguồn ngân sách dành riêng cho hoạt động quan trắc. Kinh phí quan
trắc thường xuyên phải lấy từ kinh phí sự nghiệp môi trường và nguồn này
thường xuyên thay đổi.
CÁCH TIẾP CẬN CỦA DỰ ÁN
1.7 Kế thừa và nâng cao năng lực trang thiết bị và nhân lực hiện có
Để nhanh chóng triển khai hiệu quả công tác quan trắc môi trường, dự án sẽ kế
thừa mạng lưới quan trắc hiện có gồm 04 T rung tâm, các trạm vùng và điểm đo cũng
như cơ chế thực hiện các nhiệm vụ quan trắc hàng năm . Mạng lưới này là một bộ
phận của hệ thống quan trắc môi trường nông nghiệp đã được Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn chỉ đạo xây dựng theo Quyết định 3244/QĐ-BNN-KHCN ngày
02 tháng 12 năm 2010 phê duyệt Đề án tăng cường năng lực quan trắc môi trường
nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 – 2020.
Mạng lưới quan trắc hiện nay chưa đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị cũng như
nhân lực để triển khai đồng bộ mạng lưới cảnh báo môi trường và dịch bệnh trên toàn
quốc. Thực hiện được việc nâng cấp mạng lưới cần thời gian dài và kinh phí lớn, từ
nhiều nguồn khác nhau. Các Trung tâm Quan trắc đã và đang được đầu tư theo những
dự án cụ thể do các Viện NTTS I, II, III và Viện NCHS chủ trì. Do vậy, dự án này chỉ
đầu tư bổ sung một số trang thiết bị phục vụ nhu cầu quan trắc trước mắt. Những
trang thiết bị này kết hợp với trang thiết bị khi các dự án đầu tư của các Trung tâm đã
và đang được phê duyệt chính thức được triển khai sẽ đảm bảo hoạt động quan trắc
có đầy đủ bộ thông số, tần suất và địa điểm theo nhu cầu của từng đối tượng nuôi.
16
1.8 Thống nhất đầu mối quản lý gắn với cơ quan quản lý và chỉ đạo sản xuất
Để hoạt động quan trắc môi trường đảm bảo hiệu quả, Dự án sẽ thống nhất cơ
quan đầu mối quản lý về chuyên môn là TCTS - cơ quan quản lý nhà nước về hoạt
động sản xuất NTTS. Ban quản lý Dự án thuộc TCTS sẽ được thành lập để quản lý
thống nhất hoạt động quan trắc môi trường. Đây sẽ là hoạt động thường xuyên, được
cấp kinh phí theo kế hoạch hàng năm để kịp thời cung cấp dữ liệu cần thiết phục vụ
công tác chỉ đạo sản xuất.
1.9 Tin học hóa, tự động hóa, ứng dụng GIS và viễn thám
Cần ứng dụng công nghệ GIS và viễn thám vào mạng lưới quan trắc cảnh báo
môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản vì nhờ các thông tin thu thập được từ
mạng lưới quan trắc, công nghệ GIS và viễn thám sẽ tạo được cơ sở dữ liệu thuộc tính
trên nền bản đồ số và ảnh vệ tinh về các khu vực NTTS. Công nghệ này đồng thời
giúp cho việc khoanh vùng những vùng nhạy cảm, ô nhiễm môi trường hoặc dịch bệnh
dựa trên các dữ liệu thuộc tính được cập nhật định kỳ theo chu kỳ quan trắc; các thông
tin từ mạng lưới quan trắc giúp cho việc xây dựng mô hình GIS về xu hướng biến
động của môi trường và lan truyền dịch bệnh, sự thay đổi của các thông số môi trường
và dịch bệnh theo định kỳ quan trắc, từ đó đưa ra các cảnh báo kịp thời, trước tiên là
đến người nuôi trồng, sau đến là các bên liên quan và đưa ra giải pháp tháo gỡ. Nhờ
vào công nghệ GIS và viễn thám, các cơ quan nghiên cứu và các cơ quan cấp cao
chuyên ngành thuỷ sản có thể dự báo xu hướng nuôi trồng, xu thế biến động vùng
nuôi, môi trường, dịch bệnh, quy hoạch vùng nuôi, và các vùng ô nhiễm. dịch bệnh
Mặt khác, nhờ GIS và viễn thám các cơ quan chuyên môn khác có thể tham khảo các
thông tin này một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
Các thông tin thu được từ các điểm đo sẽ được báo về trạm vùng và trạm vùng sẽ
thông báo tiếp tục về trung tâm. Các trung tâm sẽ tổng hợp và phân tích, lập thành bản
đồ GIS về các thông số môi trường và dịch bệnh gửi lên cơ quan quản lý nhà nước về
NTTS phục vụ kịp thời cho công tác cảnh báo. Thông tin sau đó phải được đăng tải lên
trang Web của mạng lưới.
Để đưa ra được cảnh báo nhanh cần phải dựa trên nhiều thông tin từ cơ sở dữ liệu
quan trắc được cũng như về khí tượng thuỷ văn, các dự báo thời tiết, các thông tin cập
nhật trong khu vực, các xu thế để phân tích và hình thành các dự báo biến động môi
trường, dịch bệnh đối với từng vùng và khu vực. Điều này đòi hỏi số liệu được tích luỹ
một cách có mạng lưới và những quy luật được được phát hiện nhờ tính mạng lưới đó
của số liệu. Chính vì vậy cần có sự tham gia của các chuyên gia về nuôi, bệnh, môi
trường và tin học để xây dựng những phần mềm, module phân tích và đưa ra cảnh báo.
NỘI DUNG CỦA DỰ ÁN
1.10 Xây dựng cơ cấu tổ chức của mạng lưới quan trắc (Sơ đồ 1)
Thành phần chính trong mạng lưới quan trắc môi trường và bệnh thủy sản:
17
• Ban quản lý Dự án quan trắc môi trường thuộc Tổng cục thủy sản
• 4 Trung tâm quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh
thuỷ sản miền (được gọi tắt là Trung tâm quan trắc) thuộc các Viện
Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, II, III và Viện nghiên cứu Hải sản;
• 23 Trạm quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa bệnh thuỷ sản
vùng (được gọi tắt là Trạm quan trắc hay Trạm vùng) thuộc 4 Trung tâm
quan trắc;
• 27 Ban quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa bệnh thuỷ sản
(được gọi tắt là Ban quan trắc) trực thuộc Chi cục NTTS/ Thuỷ sản các
tỉnh/ thành phố có vùng nuôi tập trung lớn (Sơ đồ 1).
- Tổng cục thủy sản là cơ quan đầu mối, chịu trách nhiệm quản lý môi trường
thuỷ sản trong phạm vi toàn quốc, xây dựng chiến lược quản lý, giám sát môi trường
phòng ngừa bệnh dịch thuỷ sản, xây dựng kế hoạch hoạt động thường niên của mạng
lưới quan trắc, cảnh báo môi trường trong NTTS và chỉ đạo thực hiện kế hoạch quan
trắc cảnh báo môi trường của các đơn vị trong mạng lưới. TCTS tiếp nhận và cập nhật
các thông tin về quan trắc, cảnh báo môi trường, bệnh qua văn bản và hệ thống mạng
thông tin từ các trung tâm quan trắc để có các hình thức xử lý thông tin bằng các thông
báo, văn bản pháp quy mang theo cấp vùng, khu vực và quốc gia.
- Các Trung tâm quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa bệnh thuỷ sản
miền (được gọi tắt là Trung tâm quan trắc) thuộc Viện I, II, III và Viện NCHS. Các
trung tâm này sẽ được nâng cấp và được cấp kinh phí duy trì hoạt động hàng năm;
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, quan trắc, cảnh báo môi trường, dịch bệnh; thiết
lập mạng lưới quan trắc để tiếp nhận kết quả quan trắc môi trường NTTS từ các Trạm
vùng trực thuộc địa phương và cơ sở thuộc địa bàn quản lý, tổng hợp, xử lý và truyền
tải thông tin, báo cáo về TCTS. Ngoài ra, các trung tâm tham gia nghiên cứu cơ sở
khoa học của hoạt động quan trắc và cảnh báo môi trường, bệnh và ứng dụng công
nghệ thông tin cho hoạt động quan trắc, cảnh báo môi trường, dịch bệnh trong nuôi
trồng thuỷ sản.
- Các Trạm quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản
vùng (được gọi tắt là Trạm quan trắc hay trạm vùng): thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu và quan trắc cảnh báo môi trường, dịch bệnh trên địa bàn thuộc phạm vi trạm quản
lý, báo cáo kết quả về Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường trực tiếp quản lý đơn
vị; phối hợp với các ban quan trắc tại các tỉnh thực hiện các nhiệm vụ quan trắc và
thông báo kết quả quan trắc kịp thời về cho Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
trên địa bàn hoạt động.
- Các Ban quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản
trực thuộc Chi cục Nuôi trồng thuỷ sản hoặc Chi cục quản lý Thuỷ sản các tỉnh hoặc
thành phố trực thuộc Trung ương (được gọi tắt là Ban quan trắc) được nâng cấp và cấp
kinh phí từ ngân sách địa phương để duy trì các hoạt động quan trắc, phối hợp với các
18
trạm quan trắc để có thông báo kịp thời về số liệu quan trắc cho các trạm quan trắc và
tại địa bàn quản lý hoạt động thuỷ sản để có phương án dự báo, cảnh báo kịp thời cho
người dân đang tham gia hoạt động sản xuất thuỷ sản để có phương án quản lý điều
hành hoạt động sản xuất. Ban quan trắc sẽ thực hiện quan trắc tại các điểm đo là các
thủy vực thuộc các vùng NTTS tập trung (nguồn cấp, ao đầm nuôi hay kênh mương
thải).
19
20
SƠ ĐỒ 1. MẠNG LƯỚI QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Các Trạm quan trắc trực
thuộc (7 trạm: Cát Bà, Sơn
La, Hải Dương, Nam Định,
Nghệ An, Quảng Bình, Thừa
Thiên Huế
Trung tâm Nghiên cứu
Quan trắc Cảnh báo Môi
trường và Phòng ngừa
Dịch bệnh Thủy sản Khu
vực miền Bắc
TỔNG CỤC THỦY SẢN
(Văn phòng Ban quản lý Dự án quan trắc Môi trường)
Trung Tâm Quốc gia Quan
Trắc, Cảnh báo Môi
trường và PN Dịch bệnh
Thủy sản Khu vực Nam
Bộ
Trung tâm Quan trắc Quan
trắc Cảnh báo Môi trường
và Phòng ngừa Dịch bệnh
Thủy sản Thủy sản Miền
Trung
Trung tâm Quốc gia
QTCB môi trường biển
Các Trạm quan trắc trực
thuộc (7 trạm: Đà Nẵng,
Quảng Nam, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hoà, Ninh
Thuận, Bình Thuận)
Các Trạm quan trắc trực
thuộc (8 trạm: Cái Bè, Vùng
Tàu, Cà Mau, Bạc Liêu, Bến
Tre, An Giang, Đồng Tháp,
Kiên Giang)
Ban quan trắc trực thuộc các Chi cục Thủy sản/Nuôi trồng thủy sản/ Cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản cấp tỉnh/tp trược thuộc Trung ương có vùng
nuôi trồng thủy sản tập trung
Trạm Quan trắc cảnh báo môi
trường biển tại Bà Rịa - Vũng
Tàu
1.11 Nâng cấp trang thiết bị và phòng thí nghiệm
Việc duy trì và phát huy hoạt động của hệ thống trang thiết bị và phòng thí
nghiệm môi trường và bệnh thuỷ sản hiện đang có tại các Viện I, II, III và Viện NCHS
được thực hiện thông qua đầu tư nâng cấp các trang thiết bị, phòng thí nghiệm để đáp
ứng kịp thời yêu cầu thực tế. Những trang thiết bị bổ sung trong dự án này được xác
định trên cơ sở tham chiếu với các dự án đầu tư xây dựng các Trung tâm đã được Bộ
Thuỷ sản trước đây và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện nay phê duyệt.
1.12 Nâng cấp cơ sở hạ tầng thông tin cảnh báo
- Thiết lập hệ thống thông tin cho Văn phòng Dự án quản lý quan trắc cảnh báo
môi trường, dịch bệnh tại TCTS. Đây là đầu mối quản lý tập trung thông tin về các
hoạt động quan trắc môi trường, dịch bệnh trong NTTS trên toàn quốc.
- Nâng cấp, xây dựng hệ thống thông tin, quản lý cơ sở dữ liệu, truyền nhận số
liệu từ các điểm, trạm quan trắc về Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường, bệnh và
tới TCTS; chia sẻ thông tin về tình hình môi trường, dịch bệnh thủy sản giữa TCTS
với các Trung tâm vùng, Trạm quan trắc và điểm quan trắc trên toàn quốc thông qua
mạng trung tâm đặt tại TCTS.
1.13 Triển khai nhiệm vụ quan trắc môi trường thường xuyên phục vụ NTTS
Điểm quan trắc sẽ đặt tại các vùng nuôi trọng điểm, khu vực nuôi tập trung và
với đối tượng nuôi chủ lực. Địa điểm, bộ thông số, tần suất, thời gian quan trắc thay
đổi theo tình hình thực tế NTTS ở từng khu vực với các đối tượng nuôi, điều kiện môi
trường và bệnh.
Trung tâm Quan trắc Cảnh báo môi trường và Phòng ngừa dịch bệnh miền Bắc
thực hiện quan trắc tại 8 trạm thuộc các tỉnh: Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Nghệ
An, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Sơn La, Tuyên Quang. Tần suất quan trắc thực
hiện 4 lần/năm chủ yếu cho các đối tượng nuôi chủ lực là tôm nước lợ, nhuyễn thể
(ngao, hầu), rô phi, cá biển, cá nước lạnh; các trạm trại ương nuôi thủy sản (Bảng 3).
Bảng 3: Đối tượng chủ lực và địa điểm nuôi cần quan trắc môi trường tại miền Bắc
Đối tượng quan trắc Vùng quan trắc tại các tỉnh miền Bắc
Tôm nước lợ Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình,
Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế.
Nhuyễn thể Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá,
Nghệ An, Hà Tĩnh
Rô phi Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Quảng Ninh.
Nghệ An.
Cá biển Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An,
Thừa Thiên Huế
21
Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo môi trường và Phòng ngừa dịch bệnh
miền Trung đặt 8 trạm quan trắc tại Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Các đối tượng nuôi chủ lực là tôm
hùm, nhuyễn thể, cá biển lồng, bè; vùng nuôi tôm và các trại ương tôm giống tập trung
(Bảng 4).
Bảng 4: Đối tượng chủ lực và địa điểm nuôi cần quan trắc môi trường tại miền Trung
Đối tượng quan trắc Vùng quan trắc tại các tỉnh Nam Trung bộ
Tôm nước lợ Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận.
Nhuyễn thể Khánh Hoà, Ninh Thuận
Tôm hùm Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận
Cá biển Phú Yên, Khánh Hoà.
Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo môi trường và Phòng ngừa dịch bệnh
miền Nam có 3 trạm quan trắc vùng đang hoạt động tại 3 tỉnh Cà Mau, Cái Bè (Tiền
Giang) và Vũng Tàu. Các đối tượng cần được quan trắc, cảnh báo chủ yếu là tôm
nước lợ, nhuyễn thể, cá biển, cá tra. Một số trạm quan trắc ở Bến Tre, Trà Vinh, Bạc
Liêu, Kiên Giang, An Giang sẽ được đưa vào hoạt động (Bảng 5).
Bảng 5: Đối tượng chủ lực và địa điểm nuôi cần quan trắc môi trường tại miền Nam
Đối tượng quan trắc Vùng quan trắc tại các tỉnh Nam Bộ
Tôm nước lợ Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu
Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang.
Nhuyễn thể Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh,
Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang.
Cá biển Vũng Tàu, Kiên Giang
Cá tra Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Cần
Thơ, Hậu Giang.
Trung tâm Quốc gia quan trắc, cảnh báo môi trường biển, Viện NCHS được
giao thực hiện nhiệm vụ triển khai các hoạt động quan trắc, cảnh báo MT biển ven bờ;
cung cấp thông tin, số liệu về hiện trạng, cảnh báo chất lượng môi trường biển, khu
vực nuôi biển, khu bảo tồn biển trên toàn quốc.
1.14 Thống nhất bộ thông số quan trắc môi trường trên toàn quốc
Cần phải xây dựng bộ thông số quan trắc môi trường thống nhất cho tất cả các
điểm quan trắc trên phạm vi toàn quốc. Việc xác định bộ thông số và tần suất quan trắc
cho từng đối tượng được căn cứ trên đặc thù nuôi của từng loài, tính chất thay đổi của
bản thân từng thông số theo điều kiện thời tiết và hoạt động nuôi, điều kiện môi trường
22
và tình hình bệnh ở từng khu vực cụ thể. Những yếu tố này có thể được điều chỉnh
theo hướng thông số, nhóm thông số nào có xu hướng biến động lớn, có nguy cơ ảnh
hưởng lớn lên đối tượng nuôi sẽ phải được quan trắc với tần suất cao hơn. Khi có biểu
hiện bất thường hay sự cố cần phải lấy mẫu và phân tích đầy đủ các thông số ở mức có
thể để xác định nguyên nhân gây chết hay nguồn, tác nhân gây ô nhiễm hay gây bệnh.
Bảng 6: Bộ thông số và tần suất quan trắc môi trường nuôi tôm
Thông số quan trắc Tần suất
quan trắc
định kỳ
Thu mẫu đột
xuất
Nhiệt độ, độ mặn, pH, độ trong, Oxy hòa tan (DO) 2 lần/ngày
NO
2
-
, NH
4
+
, độ kiềm, 1 lần/tuần
NO
3
-
, PO
4
3-,
SO
4
2-
, H
2
S, TSS (tổng chất rắn lơ lửng),
COD, Nhu cầu Oxy sinh học (BOD5), sắt tổng số
1 lần/tháng
Mật độ và thành phần thực vật phù du, mật độ và thành
phần tảo độc hại, mật độ và thành phần động vật phù du,
động vật đáy, Coliforms, vi khuẩn hiếu khí tổng số,
Vibrio spp.
1 lần/tháng Khi có hiện
tượng nở hoa của
tảo lấy mẫu
TVPD và tảo độc
Kim loại nặng (Cu, As, Cd, Zn, Hg và Pb), BVTV (gốc
clo, phosphore, carbamate).
2 lần/vụ (đầu
vụ và cuối vụ)
Vi rút, vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng trên tôm 1 lần/tháng Khi có dấu hiệu
về bệnh
Thành phần cơ giới, pH đất, thế Oxy hóa-Khử, Tổng N
đáy, tổng P đáy, tổng C đáy, nấm trong đất và vi khuẩn
Vibrio.
3 lần/vụ (đầu,
giữa và cuối
vụ)
Bảng 8: Bộ thông số và tần suất quan trắc môi trường nuôi cá Rô phi
Thông số quan trắc Tần suất
quan trắc
định kỳ
Thu mẫu đột
xuất
Nhiệt độ, pH, độ trong, Oxy hòa tan (DO) 2 lần/ngày
NO
2
-
, NH
4
+
, độ kiềm 2 lần/tháng
NO
3
-
, PO
4
3-,
SO
4
2-
, H
2
S, TSS (tổng chất rắn lơ lửng),
COD, Nhu cầu Oxy sinh học (BOD5), sắt tổng số
1 lần/tháng
Mật độ và thành phần thực vật phù du, động vật phù du,
động vật đáy, mật độ và thành phần tảo độc hại,
1 lần/tháng Khi có hiện tượng
nở hoa của tảo lấy
23
Coliforms, vi khuẩn hiếu khí tổng số, Aeromonas tổng
số
mẫu TVPD và tảo
độc
Kim loại nặng (Cu, As, Cd, Zn, Hg và Pb), BVTV (gốc
clo, phosphore, carbamate)
1 lần/vụ
Vi rút, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng 1 lần/tháng Khi có dấu hiệu
về bệnh
Thành phần cơ giới, hô hấp đất, pH đất, thế Oxy hóa-
Khử, Tổng N đáy, tổng P đáy, tổng C đáy.
3 lần/vụ
(đầu, giữa và
cuối vụ)
Bảng 9 : Bộ thông số và tần suất quan trắc môi trường nuôi nhuyễn thể
Thông số quan trắc Tần suất quan
trắc định kỳ
Thu mẫu đột xuất
Nhiệt độ, pH, độ muối, 2 lần/ngày (khi
triều cao và
triều kiệt)
NO
2
-
, NH
4
+
, NO
3
-
, PO
4
3-,
, H
2
S, TSS (tổng chất rắn
lơ lửng), COD, Nhu cầu Oxy sinh học (BOD5), độ
kiềm, độ cứng
1 lần/tháng
Mật độ và thành phần thực vật phù du, mật độ và
thành phần tảo độc hại, Coliforms, vi khuẩn hiếu
khí tổng số, Vibrio tổng số
1 lần/tháng Khi có hiện tượng nở
hoa của tảo lấy mẫu
TVPD và tảo độc
Kim loại nặng (Cu, As, Cd, Zn, Hg và Pb), BVTV
(gốc clo, phosphore, carbamate)
1 lần/vụ (vào
cuối vụ)
Khi có sự cố nhuyễn
thể chết hàng loạt
Vi rút, vi khuẩn, Perkinsus 1 lần/tháng Khi có dấu hiệu về
bệnh
Thành phần cơ giới, pH đất, thế Oxy hóa-Khử 3 lần/vụ (đầu,
giữa và cuối vụ)
Bảng 10: Bộ thông số và tần suất quan trắc môi trường nuôi cá Tra
Thông số quan trắc Tần suất
quan trắc
Thu mẫu đột xuất
24
định kỳ
Nhiệt độ, pH, độ trong, Oxy hòa tan (DO) 2 lần/ngày
NO
2
-
, NH
4
+
1 lần/tháng
NO
3
-
, PO
4
3-,
SO
4
2-
, H
2
S, TSS (tổng chất rắn lơ
lửng), COD, Nhu cầu Oxy sinh học (BOD5), độ
kiềm, độ cứng
1 lần/tháng
Mật độ và thành phần thực vật phù du, mật độ và
thành phần tảo độc hại, Coliforms, vi khuẩn tổng
số.
1 lần/tháng Khi có hiện tượng nở
hoa của tảo lấy mẫu
TVPD và tảo độc
Kim loại nặng (Cu, As, Cd, Zn, Hg và Pb), BVTV
(gốc clo, phosphore, carbamate)
1 lần/vụ
Vi rút, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng 1 lần/tháng Khi có dấu hiệu về bệnh
Thành phần cơ giới, hô hấp đất, pH đất, thế Oxy
hóa-Khử, Tổng N đáy, tổng P đáy, tổng C đáy.
2 lần/vụ (đầu
và cuối vụ)
Bảng 11: Bộ thông số và tần suất quan trắc môi trường nuôi cá biển lồng bè
Thông số quan trắc Tần suất quan
trắc định kỳ
Thu mẫu đột xuất
Nhiệt độ, pH, độ muối, Oxy hòa tan (DO), tốc độ
dòng chảy
2 lần/ngày
NO
2
-
, NH
4
+
, độ kiềm 2 lần/tháng
NO
3
-
, PO
4
3-,
SO
4
2-
, H
2
S, TSS (tổng chất rắn lơ
lửng), COD, Nhu cầu Oxy sinh học (BOD5), sắt
tổng số
1 lần/tháng Khi có sự cố cá chết
hàng loạt
Mật độ và thành phần thực vật phù du, động vật
phù du, động vật đáy, mật độ và thành phần tảo
độc hại, Coliforms, vi khuẩn hiếu khí tổng số,
Aeromonas tổng số
1 lần/tháng Khi có hiện tượng nở
hoa của tảo lấy mẫu
TVPD và tảo độc
Kim loại nặng (Cu, As, Cd, Zn, Hg và Pb), BVTV
(gốc clo, phosphore, carbamate)
1 lần/vụ Khi có sự cố cá chết
hàng loạt.
Vi rút, vi khuẩn, , nấm, ký sinh trùng 1 lần/tháng Khi có dấu hiệu về
bệnh
Màu sắc của nền bùn đáy, thành phần cơ giới, hô
hấp đất, pH đất, thế Oxy hóa-Khử, Tổng N đáy,
3 lần/vụ (đầu,
giữa và cuối
Khi có sự cố cá chết
hàng loạt.
25