MỤC LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Việc chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO là một bước
ngoặt quan trọng đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Sân chơi
mới mở ra trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội đầy triển vọng
nhưng đồng thời, đó cũng là những thử thách vô cùng to lớn bởi cơ hội của họ cũng
được chia đều cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Hội nhập kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn không ngừng đổi mới
để đáp ứng kịp thời những biến đổi đa dạng của nhu cầu thị trường, từ đó mà tồn
tại được trong môi trường cạnh tranh đầy gay gắt. Một thực tế đáng buồn của
nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là sức cạnh tranh kém do công nghệ sản
xuất lạc hậu. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là nguồn vốn tự có của các
doanh nghiệp hạn hẹp, trong khi nhiều công cụ và hình thức huy động vốn trong
nền kinh tế thị trường để đổi mới thiết bị công nghệ chưa được các doanh nghiệp
sử dụng triệt để và hiệu quả. Khả năng tự chủ về tài chính cao đồng nghĩa với
việc cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp cũng lớn hơn.
Chính vì vậy, việc tăng cường huy động vốn ở các doanh nghiệp là một vấn đề
cần được quan tâm hàng đầu. Để làm được điều này, phải xem xét tới rất nhiều yếu
tố. Mỗi một yếu tố có vai trò và mức độ ảnh hưởng khác nhau tới doanh nghiệp,
lĩnh vực hoạt động, mục tiêu khi thành lập,
Trong số đó, vốn được xem là một điều kiện cần và đủ để tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khả năng tự chủ về tài
chính cao đồng nghĩa với việc cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp cũng lớn hơn.
Qua quá trình học tập ở trường, tìm hiểu thực tế ở công ty Cổ phần thương
mại và dịch vụ Kim Lợi em đã chọn đề tài nghiên cứu :”giải pháp nâng cao hiệu
quả huy động vốn tại công ty Cổ phần thương mại và dịch vụ Kim Lợi” để làm
báo cáo tốt nghiệp.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tiếp cận kế thừa có chọn lọc những thông
tin luận điểm, ý kiến của các chuyên gia trên sách báo tạp chí kết hợp với tình hình
thực tế ở công ty, chuyên đề đi vào phân tích điểm mạnh điểm, điểm yếu của công
ty cũng như cơ hội, thách thức của môi trường kinh doanh để từ đó tìm ra những
định hướng và giải pháp cụ thể. Do phạm vi đề tài nghiên cứu rộng, trong khuôn
khổ báo cáo tốt nghiệp chỉ tập trung vào những khâu những điểm quan trọng trong
quá trình hoạt động của công ty.
2
Kết cấu của báo cáo gồm 3 phần cơ bản
Chương 1: Huy động vốn của Doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của Công ty Cổ phần thương mại và
dịch vị Kim Lợi
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Công ty Cổ phần
thương mại và dịch vụ Kim Lợi
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo hướng dẫn Tiến sĩ:Đặng Anh Tuấn
và các cơ chú, anh chị trong công ty đã nhiệt tình giúp đỡ em thực hiện đề tài này.
HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2011
SV THỰC TẬP
NGUYỄN NGỌC LINH
TCA-K39-ĐHKTQD
3
Chương 1
HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm về vốn của doanh nghiệp
Nói đến kinh doanh là phải nói đến vốn.Vốn là một thuật ngữ rất phổ thông
mà mọi người đều nghe nói tới.Tuy nhiên để hiểu được một cách tương dối chính
xác về vốn thì cũng không phải điều đơn giản. Từ trước tới nay có rất nhiều quan
niệm khác nhau về vốn xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau. Một cách
chung nhất có thể hiểu vốn là tất cả các nguồn lực các yếu tố có thể phục vụ cho
quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo nghĩa hẹp thì "Vốn của doanh nghiệp là các quĩ tiền, vốn mà các
doanh nghiệp dựng vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Vốn thực chất
là một số tiền mà các doanh nghiệp ứng ra trước một chu kỳ sản xuất kinh
doanh và nó phải được thu hồi đầy đủ(bảo toàn về giá trị) sau mỗi chu kỳ sản
xuất, kinh doanh."
Một số đặc trưng cơ bản của vốn là:
Thứ nhất, vốn phải được đại diện cho một lượng tài sản nhất định, có nghĩa là
vốn phải được biểu hiện bằng giá trị tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp.
Thứ hai, vốn phải được vận đông sinh lời đạt được mục tiêu kinh doanh của
doanh nghiệp.
Thứ ba, vốn phải được tích tụ tập trung độn một lượng nhất định,có như vậy
mới phát huy được tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô
chủ không ai quản lý.
Thứ năm, vốn phải được quan niệm như một loại hàng hoá đặc biệt, có thể
mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường.
Thứ sáu, Vốn luôn vận động chuyển hoá hình thức trong quá trình kinh doanh
Đối với mỗi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì
trước hết phải nắm vững khái niệm và các đặc trưng cơ bản của vốn.Trong khuân
khổ đề tài nghiên cứu này chỉ xem xét vốn trên giác độ là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.
1.1.2. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Hoạt động của công ty đòi hỏi phải có vốn, đầu tiên là nó giúp cho hoạt động
4
kinh doanh được thực hiện (xảy ra hoạt động), sau đó là duy trì hoạt động và xây
dựng kế hoạch kinh doanh cụ thể và chắc chắn. Khi vốn phát triển, nó sẽ giúp doanh
nghiệp mở rộng được sản xuất về cả chiều rộng và chiều sâu, qua đó lại tác động
ngược lại làm tăng lượng vốn sẵn có của doanh nghiệp. Trong kinh doanh vốn là
công cụ cần thiết hàng đầu để doanh nghiệp thực hiện ý định kinh doanh của mình.
Rất nhiều người đã không thể tham gia kinh doanh vì không đủ vốn. Nói cách khác
nó là "chiếc rìu" của ông tiều phu. Do đó doanh nghiệp phải tổ chức huy động, sử
dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất, muốn vậy phải xem xét, cân nhắc phương
thức huy động vốn, cơ cấu vốn hợp lý với chi phí sử dụng vốn vay thấp nhất và làm
gia tăng lợi ích của vốn chủ sở hữu. Nền kinh tế thị trường với chính sách phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế
tự bỏ vốn đầu tư. Vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu, là điều kiện tiên quyết
của mọi quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Vốn kinh doanh là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt phục vụ cho sản xuất kinh
doanh tức là mục đích tích luỹ chứ không phải là mục đích tiêu dùng như một số
quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh phải có trước khi diễn ra hoạt
động sản xuất kinh doanh. Sau khi ứng ra, vốn được sử dụng vào kinh doanh và sau
một chu kỳ hoạt động phải được thu về để đáp ứng tiếp cho chu kỳ hoạt động sau.
Vốn kinh doanh không thể bị tiêu mất đi, mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa
với nguy cơ phá sản.
Đầu tư vốn của doanh nghiệp
Là quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp vào quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm mục tiêu tạo ra lợi nhuận. Trong quá trình đầu tư vốn của doanh
nghiệp, có thể chia hai loại:
- Đầu tư vào trong nội bộ của các doanh nghiệp: đầu tư vào các yếu tố trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ví dụ như đầu tư để mua
sắm tài sản cố định, nguyên- nhiên vật liệu, trả lương cho công nhân viên
- Đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp. Chủ yếu các doanh nghiệp dựng vốn của
mình để góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác hay đầu tư trên thị trường
chứng khoán.
Dự đầu tư bên trong hay ngoài doanh nghiệp thì đều nhằm mục tiêu hướng tới
lợi nhuận, tối đa hoá giá trị vốn của chủ sở hữu. Các doanh nghiệp căn cứ vào một
số yếu tố cơ bản sau để đầu tư vốn:
+ Căn cứ vào khả năng sinh lời của dự án đầu tư và thời gian thu hồi vốn đầu tư.
5
+ Căn cứ vào số lượng sản phẩm hoặc dịch vụ sẽ được sản xuất ra và khả năng
tiêu thụ của sản phẩm, dịch vụ đó trên thị trường.
+ Các doanh nghiệp phải căn cứ vào sự lựa chọn công nghệ trong quá trình
đầu tư.
+ Các doanh nghiệp phải xác định được nguồn tài trợ cho vốn kinh doanh của mình.
+ Căn cứ vào mô hình tổ chức và quản lý dự án đầu tư.
1.1.3. Phân loại vốn
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau có thể chia vốn thành các loại sau.
- Phân loại căn cứ vào tính chất sở hữu của vốn: vốn của doanh nghiệp chia
làm 2 loại:
Vốn của chủ sở hữu (vốn tự có của doanh nghiệp):
Là các nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp đó. Nó có thể là do
chủ sở hữu đầu tư, vốn tự bổ xung từ lợi nhuận và từ các quĩ của doanh nghiệp, vốn
tài trợ của Nhà nước (nếu có). Nó được sử dụng 1 cách lâu dài mà không phải cam
kết thanh toán, gồm có vốn kinh doanh và các quỹ của doanh nghiệp.
Cần phân biệt vốn điều lệ và vốn pháp định. Vốn pháp định là số lượng vốn
tổi thiểu mà một doanh nghiệp cần phải có khi nó hình thành, hoạt động và do pháp
luật quy định.
Tóm lại, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là vốn thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của doanh nghiệp.
Vốn vay:
Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh
nghiệp có nhiệm vụ phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế như: ngân hàng thương
mại, tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế khác, tiền vay từ phát hành trái phiếu, các
khoản nợ phải trả cho người bán, cho Nhà nước, cho cán bộ công nhân viên
Một doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả, với mức sinh lời cao và đảm
bảo khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường thì ngoài nguồn chủ sở hữu, nó
phải vay vốn trên thị trường để hình thành vốn của mình. Trong nền kinh tế thị trư-
ờng, vốn vay của doanh nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với vốn
chủ sở hữu. Đây là nguồn vốn cung cấp chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của đơn
vị. Nguồn này có thể được hình thành bằng một số biện pháp sau: nguồn vốn vay từ
các tổ chức tín dụng, các ngân hàng, từ việc phát hành trái phiều công ty, từ nguồn
tín dụng thương mại, tín dụng thuê mua, hoặc có thể từ một số nguồn vốn vay khác
- Phân loại theo tính chất luân chuyển của vốn thì vốn của doanh nghiệp có
6
thể được chia ra làm 2 loại:
Vốn cố định: Vốn cố định là giá trị biểu hiện bằng tiền của tổng tài sản cố
định (TSCĐ) trong doanh nghiệp. Tài sản cố định thuộc loại tài sản có giá trị lớn và
có thời gian sử dụng lâu dài. Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Đặc trưng của tài sản cố định là không thay đổi hình thái vật chất sau mỗi chu
kỳ sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, giá trị của nó giảm dần do có hao mòn. Có hai
loại hao mòn tài sản cố định là hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình. Để chống
hao mòn cần phải trích quỹ khấu hao nhằm bù đắp cho hao mòn tài sản cố định. Tất
nhiên nó không trăng khít với số tiền tài sản thực tế bị hao mòn (có thể lớn hoặc
nhỏ hơn). Tài sản cố định bao gồm TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. Trong đó,
TSCĐ hữu hình: Là những tài sản có hình thái, vật chất (như nhà cửa, vật kiến trúc,
máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn, thiết bị, dụng cụ quản
lý ) và TSCĐ vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện những
lượng giá trị lớn mà doanh nghiệp đã đầu tư, liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh
(như Quyền sử dụng đất, Chi phí thành lập doanh nghiệp, Chi phí về bằng phát
minh sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, nhãn hiệu thương mại )
Vốn lưu động: Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về
các đối tượng lao động của doanh nghiệp. Nói dưới góc độ tài sản thì vốn lưu động
được sử dụng để chỉ những tài sản lưu động. Đó là những tài sản ngắn hạn thường
xuyên luôn chuyển trong quá trình kinh doanh.
Trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp thì tài sản lưu động của nó chủ
yếu được thể hiện ở các bộ phận là tiền mặt, các chứng khoán có thanh khoản cao,
khoản phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp
kinh doanh thương mại thường chiếm tỷ lệ lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản. Quản
trị và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất lớn đối với việc
hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
Vốn cố định và lưu động là hai loại vốn tồn tại song song trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ từng loại hình kinh doanh mà tỷ lệ giữa 2
loại vốn này là khác nhau
Việc nghiên cứu các phương pháp phân loại vốn trên đây có tác dụng giúp cho
các doanh nghiệp một mặt tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn hiện có,
mặt khác có thể đa dạng hoá các kênh huy động vốn.
1.2. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
Việc huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác
7
động bởi nhiều yếu tố. Về cơ bản như đã xem xét ở trên thì vốn của doanh nghiệp khi
xem xét theo tính chất sở hữu thì có thể chia làm 2 và tương ứng như vậy là có 2 nhóm
hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp theo tiêu chí này.
1.2.1. Các hình thức huy động vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu ban đầu, như đã nói ở trên được hình thành từ việc đóng góp
của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi chạm tới ngưỡng tăng trưởng chín muồi thì vốn
chủ sở hữu ban đầu không đủ đáp ứng cho các hoạt động tài chính, để tiếp tục phát
triển, doanh nghiệp thường tiến hành các hoạt động đầu tư chiến lược mở rộng đáng
kể năng lực sản xuất hoặc bước sang lĩnh vực hoạt động mới và đi cùng với nó là
việc huy động thêm vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu bao gồm các nguồn sau:
- Vốn điều lệ của các doanh nghiệp: được hình thành từ nguồn nào thì nó tuỳ
thuộc vào hình thức sở hữu của các doanh nghiệp.
+ Nếu doanh nghiệp nhà nước: thì nguồn hình thành là ngân sách nhà nước.
+ Nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu cổ phần: thì nguồn hình thành do cổ đông,
người mua cổ phiếu, cổ phần
+ Nếu doanh nghiệp của tư nhân: do tư nhân bỏ ra.
- Vốn từ việc phát hành cổ phiếu:
Cổ phiếu là một giấy chứng nhận việc đầu tư vốn vào công ty cổ phần và
quyền được nhận một phần lợi nhuận từ công ty cổ phần ấy, quyền được chia tài sản
từ công ty cổ phần ấy.
Có hai loại cổ phiếu:
+ Cổ phiếu có ghi tên: ghi rõ họ tên của chủ sở hữu. Nó không được tự do
chuyển nhượng, mua bán. Nó chỉ có thể được chuyển nhượng trong điều kiện được
sự đồng ý của hội đồng quản trị của công ty cổ phần đó. Nó dành cho các nhà sáng
lập viên của công ty cổ phần. Đây là hình thức pháp luật ràng buộc các người sáng
lập viên với công ty cổ phần đó.
+ Cổ phiếu không ghi tên(vô danh): trên cổ phiếu không ghi rõ họ tên của ai.
Nó được tự do chuyển nhượng mua bán. Người nào cầm cổ phiếu là người đó có
quyền chia tài sản Người ta chia hai loại:
Các cổ phiếu ưu đãi(đặc quyền): trong cổ phiếu ghi rõ về thu nhập mà cổ
phiếu đó được hưởng(có tính chất cố định). Ví dụ: 6%/năm. Tuy nhiên cổ đông
cũng không được hưởng một số quyền kiểm soát doanh nghiệp(như bầu cử hội đồng
quản trị, ban kiểm soát ).
Các cổ phiếu thông thường: là loại cổ phiếu mà thu nhập của nó(lợi tức cổ
8
phiếu) lên hay xuống tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Đây là loại cổ phiếu có rủi ro cao nhất.
- Các quỹ được tạo nên trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp:
+ Quỹ dữ trữ: thông thường được trích trên lãi ròng hàng năm của các doanh
nghiệp, theo tỷ lệ phần trăm nhất định với mục tiêu để bổ sung và làm tăng thêm
vốn điều lệ của các doanh nghiệp. Quỹ được trích lập thường xuyên, nhưng được
đưa vào vốn điều lệ, việc đưa vào bao nhiêu do các cơ quan chức năng của các
doanh nghiệp đó quyết định.
+ Quỹ dữ trữ đặc biệt: được trích lập theo tỷ lệ nào đó trên cơ sở lãi ròng hàng
năm của các doanh nghiệp. Mục đích để trang trải rủi ro trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp.
+ Các quỹ khác: coi như vốn tự có của các doanh nghiệp. Ví dụ: quỹ phúc lợi,
quỹ khấu hao, quỹ đầu tư phát triển
Ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp không chịu sự kiểm soát của
các chủ nợ, không phụ thuộc vào khả năng vay của doanh nghiệp. Nguồn này cũng
được nhà nước khuyến khích (như giảm thuế cho phần lợi nhuận tái đầu tư). Tuy
nhiên việc sử dụng nguồn này cũng có một số bất lợi như: vốn chủ sở hữu của các
doanh nghiệp thường nhỏ, không đủ để chi cho các dự án đầu tư lớn.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn nợ
- Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, các ngân hàng:
Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng
nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn
liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có
việc cung ứng các nguồn vốn.
Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng
tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương
trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm
bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo
có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có ưu điểm nhưng tồn tại song song là những
hạn chế nhất định:
- Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương
9
mại cần đáp ứng những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh
nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu
cầu. Ngân hàng sẽ phân tích hồ sơ xin vay vốn trước khi quyết định cho doanh
nghiệp vay hoặc từ chối.
- Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các
ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay vốn phải có các bảo đảm tiền vay, phổ
biến nhất là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều
trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay, kể cả những
thủ tục pháp lý về giấy tờ. Do đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận
nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
- Sự kiểm soát của ngân hàng: Một khi đã vay vốn của ngân hàng thì doanh
nghiệp phải chấp nhận chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử
dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gay khó khăn lớn nhưng trong
một số trường hợp, nó dặt doanh nghiệp vào thế bị động.
- Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất
vốn vay ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời
kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn
lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp . Có những thời kỳ ở nước ta, lãi suất
vay vốn khá cao và thiếu tính cạnh tranh do đó không tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh.
- Phát hành trái phiếu công ty:
Trái phiếu công ty là công cụ nợ dài hạn được một doanh nghiệp phát hành để
huy động vốn của tổ chức cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu vốn sản
xuất kinh doanh. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa
chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình
hình trên thị trường tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì nó có liên quan đến chi
phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước
khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái
phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước, hiện nay thường lưu hành những loại
trái phiếu doanh nghiệp như sau:
- Trái phiếu có lãi suất cố định: Loại trái phiếu này thường được sử dụng
nhiều nhất, tức là phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất
được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Việc
10
thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ. Để huy động vốn theo
phương thức này, phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu, nó phụ thuộc vào:
+ Lãi suất của trái phiếu: Lãi suất của trái phiếu phải được đặt trong tương
quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh
với trái phiếu của các công ty khác và trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, một ràng
buộc khác là chi phí lãi vay mà công ty phải trả cho các trái chủ. Nếu đưa thêm các
yếu tố khuyên khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất.
+ Kỳ hạn của trái phiếu: Đây là yếu tố rất quan trọng, không những đối với
công ty phát hành mà cả đối với nhà đầu tư. Khi phát hành, doanh nghiệp phải căn
cứ vào tình hình thị trường vốn và tâm lý dân cư mới có thể xác định kỳ hạn hợp lý.
+ Uy tín của doanh nghiệp: Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu
hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh
nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua. Các doanh nghiệp có uy tín và vững
mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động
vốn.
+ Trong việc phát hành trái phiếu cũng cần chú ý đến mệnh giá, vì nó có thể
liên quan đến sức mua của công chúng. Đặc biệt, ở Việt Nam, khi phát hành trái
phiếu, doanh nghiệp cần xác định một mức mệnh giá vừa phải để nhiều người có
thể mua được, tạo sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Loại trái phiếu này có lãi suất biến động theo
sự biến động của thị trường vốn. Trong điều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi
suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại
trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo theo sự giao động của lãi suất
thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thỏa đáng khi so sánh với
tình hình thị trường. Vì vậy, một số người ưa thích trái phiếu thả nổi. Tuy nhiên,
nhược điểm của loại trái phiếu này là doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi
phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn cho việc lập kế hoạch tài chính.
Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông
báo các lần điều chỉnh lãi suất.
- Trái phiếu có thể thu hồi: Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành
những trái phiếu có thể thu hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời
gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người
mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi
doanh nghiệp mua lại trái phiếu. Thông thường, người ta quy định thời hạn tối thiểu
11
mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi. Ưu điểm của loại trái phiếu này là có thể sử dụng
như một cách điều chỉnh lượng vốn hoạt động. Khi không cần thiết, doanh nghiệp
có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài
chính khác thông qua việc mua lại các trái phiếu đó.
- Chứng khoán có thể chuyển đổi: Là loại trái phiếu có thể chuyển đổi
thành một lượng nhất định các cổ phiếu phổ thông (đối với công ty cổ phần).
Trái phiếu này cho phép người sở hữu có thể chuyển nợ phải thu thành vốn góp
cổ phần, khi đó người có trái phiếu có quyền nhận cổ tức và mọi quyền lợi như
cổ đông khác. Việc huy động vốn bằng hình thức này có ưu điểm là tạo ra sự gắn
bó giữa người mua trái phiếu với doanh nghiệp. Ngoài ra, do hấp dẫn hơn, hình
thức này có thể huy động được nguồn vốn có chi phí thấp hươn các hình thức
khác đồng thời đa dạng hóa các công cụ huy động vốn.
- Một số loại trái phiếu khác: Doanh nghiệp có thể lựa chọn một số loại trái
phiếu khác như: Trái phiếu có đảm bảo (là trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản của
công ty) hoặc trái phiếu không co bảo đảm (là loại trái phiếu không được bảo đảm
bằng một tài sản cụ thể nào), trái phiếu trả một lần và trái phiếu trả nhiều đợt.
Có thể nói, huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu công ty có ưu điểm là
tiết kiệm được chi phí đầu tư, kiềm chế được lạm phát (do không làm tăng lượng
tiền cung ứng cho lưu thông, chỉ nhằm sử dụng có hiệu quả hơn lượng tiền sẵn có
trong lưu thông), chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn có sẵn và tiềm năng của
các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Nếu tận dụng được những ưu điểm này thi
đây chính là phương thức tối ưu và khả thi cho giải pháp về vốn dài hạn của doanh
nghiệp trong nước, đồng thời có lợi cho toàn cảnh của nền kinh tế quốc dân.
Giữa cổ phiếu và trái phiếu công ty có một số điểm giống và khác nhau căn
bản như sau:
- Khi các công ty phát hành cổ phiếu thì công ty đó tập trung được nguồn
vốn chủ sở hữu. Khi các công ty phát hành trái phiếu ra thị trường thì công ty đó
tăng thêm nguồn vốn đi vay của mình. Đồng thời khi phát hành cổ phiếu công ty
cổ phần không có trách nhiệm hoàn trả tiền cho người mua cổ phần, còn khi phát
hành trái phiếu thì phải hoàn trả lại tiền(bao gồm cả gốc và lãi).
- Người mua cổ phiếu của công ty họ có quyền làm chủ sở hữu của công ty,
cho nên họ có quyền tham gia quản lý và điều hành công ty cổ phần. Người mua
trái phiếu là chủ nợ của công ty và không có quyền tham gia quản lý và điều hành
công ty.
12
- Những người mua cổ phiếu của công ty thì phần thu nhập chủ yếu phụ thuộc
vào hiệu quả, chất lượng hoạt động của công ty. Người mua trái phiếu công ty, thu
nhập của họ phụ thuộc vào lãi suất ngân hàng.
- Nguồn vốn tín dụng thương mại:
Đây là khoản mua chịu từ người cung cấp hoặc ứng trước của khách hàng mà
doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tín dụng thương mại luôn luôn đi kèm với một
luồng hàng hoá cụ thể, gắn với quan hệ thanh toán cụ thể nên nó chịu tác động của
cơ chế thanh toán, chính sách tín dụng khách hàng doanh nghiệp được hưởng. Khối
lượng vốn doanh nghiệp huy động từ hình thức này lớn nhỏ tuỳ thuộc vào tính chất
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khoản tín dụng này thường
có thời gian ngắn từ một đến ba tháng nhưng nó đáp ứng phần nào lượng vốn của
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
- Nguồn vốn tín dụng thuê mua:
Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua việc cho
thuê máy móc thiết bị, các động sản và bất động sản khác. Người cho thuê (chủ sỡ
hữu tài sản) chuyển giao tài sản cho người thuê (người sử dụng tài sản) được sử
dụng trong một thời gian nhất định và người thuê phải trả cho chủ sở hữu tài sản
một khoản tiền thuê tương xứng với quyền sử dụng. Hình thức thuê mua giúp doanh
nghiệp tránh được những sai lầm khi tự đi vay và tự tìm mua sắm thiết bị vì các
công ty thuê mua không chỉ đơn thuần thay thế tín dụng ngân hàng mà còn cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp mua sắm và thuê thiết bị như: chuyển giao công
nghệ, đào tạo công nhân kỹ thuật và bảo hành, bảo trì, tư vấn hợp lý hóa sản xuất và
hiện đại hóa hệ thông trang thiết bị kỹ thuật. Thuê tài chính là một hình thức tài trợ
tín dụng thông qua cho thuê các loại tài sản, máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển là nhu cầu mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mong muốn để đổi mới
máy móc, thiết bị, hiện đại hóa công nghệ sản xuất kinh doanh. Đặc trưng của
phương thức này là đơn vị cho thuê là chủ sở hữu tài sản sẽ chuyển giao tài sản cho
người thuê, tức là người sử dụng tài sản được quyền sử dụng và hưởng những lợi
ích kinh tế mang lại từ các tài sản đó trong một thời gian nhất định. Người thuê có
nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền
hưởng dụng. Điều này cũng nói lên việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài
chính không đòi hỏi sự đảm bảo tài sản có trước, tạo cho doanh nghiệp tiếp cận hình
thức tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về tài sản đảm bảo nếu phải vay từ ngân
hàng. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính có thể mua tài sản của doanh nghiệp
13
và cho thuê lại tài sản đó nếu doanh nghiệp thiếu vốn lưu động do đó tập trung vốn
để đầu tư mua sắm tài sản cố định. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử
dụng, vừa có vốn để kinh doanh.
Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê hoạt động và
thuê tài chính.
- Thuê hoạt động (Operating Lease).
Thuê hoạt động hoàn toàn phù hợp đối với những hoạt động có tính chất thời
vụ. Hình thức thuê hoạt động được coi là một loại hợp đồng để chấp hành, tài sản
đi thuê không được phản ánh trong sổ sách kế toán của người thuê, số tiền thuê trả
theo hợp đồng được ghi như một chi phí bình thường khác.
Thuê hoạt động có hai đặc trưng chính:
- Thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của tài
sản, điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong một thời gian ngắn.
- Người thuê chỉ phải trả tiền thuê theo thỏa thuận, người cho thuê phải chịu
mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản cùng
với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản.
- Thuê tài chính (Finance Lease)
Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hay dài hạn theo hợp
đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà người
mua cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua lại tài sản từ người cho
thuê. Trong nhiều trường hợp, một công ty bán ngay tài sản của mình cho người
thuê rồi thuê lại. Trong hợp đồng thuê tài chính thì thời hạn thuê tài sản của bên
thuê phải chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ
các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt
đầu hợp đồng.
Thông thường hết giai đoạn thuê tài chính người cho thuê thường ủy quyền
cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Nếu người thuê quản lý sử dụng tài sản tốt thì
giá trị thực tế của tài sản có thể lớn hơn nhiều so với giá tiền còn lại dự kiến trong
hợp đồng, họ có thể mua lại và cũng có thể bán được giá cao hơn họ sẽ được hưởng
phần chênh lệch.
Trong hợp đồng thuê tài chính, các loại chi phí bảo dưỡng, vận hành, phí bảo
hiểm, thuế tài sản cũng như những chi phí rủi ro khác đối với tài sản do bên thuê
phải chịu cũng như tương tự của công ty mua sắm.Cũng vì lý do đó các khoản tiền
thuê mà người cho thuê nhận được coi là giá trị thừa của tài sản nên hình thức thuê
14
này cũng được gọi là thuê mua thuần.
- Nguồn vốn liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau. Tức là
nguồn vốn mà các doanh nghiệp góp vốn theo phương thức cùng hợp tác kinh
doanh, cùng chia sẻ rủi ro nếu có và cùng phân chia lợi nhuận.
- Nguồn vốn ODA (Official development assistance).
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước
ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức
tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF (Official
development finance) – Tài trợ phát triển chính thức) nào khác.
Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn
vay tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố
hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Yếu tố không hoàn lại (thành tố hỗ trợ) của từng khoản vay được xác định dựa
vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong các
năm và tỷ suất chiết khấu.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các
điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển
giao vốn và thị trường ). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt
thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không,
việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế.
Điều này còn hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn
cần có nghệ thuật thỏa thuận, để vừa có thể nhận vốn, vừa đảm bảo được các mục
tiêu có tính nguyên tắc.
1.3 . NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.3.1. Nhóm yếu tố chủ quan
1.3.1.1. Chi phí sử dụng vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp
• Chi phí vốn: là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn, được tính bằng số lợi
nhuận kỳ vọng đạt được trên vốn đầu tư vào được dự án hoặc doanh nghiệp để
giữ không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Các nhà đầu tư chỉ chấp
nhận cấp vốn cho doanh nghiệp khi họ được trả một khoản lãi xứng đáng. Thông
thường, người cho vay luôn mong muốn một lãi suất cao, ngược lại, doanh
nghiệp đi vay muốn trả lãi thấp, vì vậy, lãi suất vay vốn và lãi suất cân bằng tại
đó người cho vay và người đi vay đều chấp nhận được.
15
• Cơ cấu vốn: Một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiếm khi chỉ sử
dụng một nguồn vốn để tài trợ cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình ngay cả
khi đó là nguồn có chi phí thấp hơn các nguồn khác. Nguồn vốn của một doanh
nghiệp được chia thành: Nguồn vốn tự có (vốn chủ sỡ hữu) và vốn vay.
Để thiết lập một cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp, các nhà quản trị tài chính
cần xem xét bốn nhân tố chủ yếu sau:
- Rủi ro kinh doanh: Là một trong những nhân tố có tác động đến việc lựa
chọn nguồn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Rủi ro đề cập đến ở đây là rủi
ro cố hữu trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp khi không sử dụng nợ vay.
Như vậy, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có rủi ro kinh doanh
lớn thì vay nợ nhiều khi không phải là giải pháp tối ưu. Nói cách khác, rủi ro kinh
doanh càng lớn, tỷ lệ tối ưu càng thấp.
- Chính sách thuế: Thuế thu nhập doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chi phí của
nợ vay thông qua điều tiết phần tiết kiệm nhờ thuế. Thuế suất cao sẽ khuyến khích
doanh nghiệp sử dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên, vì khi đó, phần lãi
vay phải trả sẽ được tính vào chi phí hợp lý trước khi tính thuế thu nhập doanh
nghiệp.
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Các nhà quản lý tài chính biết rằng,
tài trợ vốn vững chắc là một trong những điều kiện cần thiết để doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả. Họ cũng biết rằng khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trong nền
kinh tế hoặc khi một doanh nghiệp đang trải qua khó khăn trong hoạt động, những nhà
đầu tư muốn tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp có tình hình tài chính lành
mạnh. Như vậy, nhu cầu vốn tương lai và những hậu quả thiếu vốn có ảnh hưởng quan
trọng đối với mục tiêu cơ cấu vốn.
- Tính quyết đoán của nhà quản lý: Chính là sự lựa chọn giữa hai quan điểm:
Sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn bất chấp mức đọ rủi ro cao nhằm thu lợi nhuận cao
và sử dụng vốn chủ sở hữu chấp nhận mức lợi nhuận thấp nhưng an toàn.
Rõ ràng là, chi phí vốn và cơ cấu vốn có ảnh hưởng trực tiếp một cách mạnh
mẽ tới việc huy động vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ huy động nguồn vốn
nào, với quy mô là bao nhiêu không chỉ phụ thuộc vào chi phí phải trả cho nguồn
vốn đó mà còn phụ thuộc vào cơ cấu vốn tối ưu mà doanh nghiệp đã đặt ra.
1.3.1.2. Năng lực hoạt động của doanh nghiệp
Nhìn chung, một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tình hình tài chính lành
mạnh luôn dễ dàng được các tổ chức tín dụng, ngân hàng cho vay vì khả năng hoàn
16
trả nợ cao. Vì vậy, năng lực kinh doanh tốt là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến
khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
1.3.1.3. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh
đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Một doanh nghiệp có hiệu quả sử dụng
vốn cao đỗng nghĩa với việc doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao. Trong nền
kinh tế thị trường, đây là một yếu tố quyết định khả năng mở rộng sản suất kinh
doanh của doanh nghiệp theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Nói cách khác, khi phân
chia vốn vào các mục đích sử dụng một cách hợp lý và được bảo toàn, doanh
nghiệp có thể tiết kiệm được vốn và tránh được lãng phí, nâng cao uy tín đồng thời
tăng khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
1.3.2. Nhóm yếu tố khách quan
1.3.2.1. Chính sách kinh tế vĩ mô
Là một chủ thể của nền kinh tế, mọi hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là
hoạt động huy động vốn luôn chịu ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế vĩ mô của từng
quốc gia.
Điều quan trọng ở đây là các doanh nghiệp cần quan tâm dự đoán và thường
xuyên cập nhật các chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước trong mỗi
thời kỳ vì các chính sách này sẽ có ảnh hưởng nhất định đến khả năng huy động
vốn, đặc biệt khi thị trường tài chính phát triển. Chẳng hạn, chính sách tiền tệ thắt
chặt luôn gây khó khăn cho doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng do lãi suất cho
vay cao, thủ tục vay vốn chặt chẽ hơn. Tương tự như vậy, chính sách khuyến khích
hay hạn chế phát triển đối với một ngành nghề cũng sẽ cũng tạo điều kiện hoặc hạn
chế khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề đó. Có
thể kể tới những nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp:
- Lãi suất ngân hàng là yếu tố đầu tiên mà mọi doanh nghiệp phải cân nhắc
khi lựa chọn nguồn vốn cho kế hoạch tài trợ của mình. Đây là yếu tố ảnh hưởng đến
chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phải tính toán hiệu quả
đầu tư, cân đối và lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp giữa vay ngân hàng hay phát hành
trái phiếu
- Thu nhập dân cư cũng là một nhân tố tác động đến khả năng huy động vốn
của doanh nghiệp. Thu nhập dân cư ở mức cao đồng nghĩa với khả năng tích lũy
17
cao, tiết kiệm lớn dẫn đến đầu tư lớn và lượng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế tăng
lên. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách dễ
dàng hơn thông qua các công cụ của thị trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu hoặc
các công cụ có thể chuyển đổi, đặc biệt là ở những nước có thị trường tài chính phát
triển.
- Lạm phát là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của
doanh nghiệp. Lạm phát cao làm đồng tiền mất giá, Ngân hàng Trung ương có xu
hướng thắt chặt tiền tệ còn người dân thì có tâm lý rút vốn để đầu cơ tích trữ những
tài sản ít bị ảnh hưởng như vàng, bất động sản, làm giảm lượng vốn xã hội dành
cho đầu tư sản xuất kinh doanh. Mặt khác, lạm phát cao cũng dẫn tới lãi suất huy
động cao hơn , lãi suất cho vay cao hơn để duy trì một lãi suất thực dương và gây
khó khăn cho doanh nghiệp khi vay vốn.
- Lãi suất trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế: Trong một nền kinh tế mở.
lãi suất có ảnh hưởng tới dòng chảy của vốn vì vốn luôn có xu hướng di chuyển về
những thị trường có lãi suất cao.
- Thuế là chính sách cơ bản của Nhà nước nhằm phân phối lại thu nhập của
nền kinh tế, huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Chính sách thuế có
ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Ví dụ, nếu thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp cao sẽ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bằng nguồn vốn
vay, thuế suất thuế thu nhập cá nhân cao sẽ khuyến khích cổ đông sử dụng cổ tức
được chia để tái đầu tư hơn là sử dụng cho chi tiêu. Đối với các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, chính sách ưu đãi về thuế đã và đang thu hút lượng vốn đầu
tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặcđầu tư 100%vốn
nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng cơ hội này sể huy động vốn
đầu tư thông qua hình thức liên doanh, liên kết, hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.3.2.2. Sự phát triển của thị trường tài chính
Hiện nay, nguồn vốn dài hạn của ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp còn
rất hạn chế vì nguồn huy động của ngân hàng phần lớn là tiết kiệm ngắn hạn và tiền
gửi trên tài khoản thanh toán, không thể sử dụng toàn bộ để cho vay dài hạn. Giải
pháp cho các doanh nghiệp là tìm kiếm vốn đầu tư dài hạn thông qua thị trường tài
chính với hai hình thức cơ bản là phát hành cổ phiếu và trái phiếu
Thị trường tài chính, với chức năng là cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền
kinh tế, có ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp:
- Thị trường chứng khoán: Các doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp tại thị
18
trường sơ cấp thông qua các tổ chức bảo lãnh phát hành. Quy mô và thời gian huy
động phụ thuộc vào hiệu quả của dự án, uy tín của doanh nghiệp phát hành và tổ
chức bảo lãnh phát hành cũng như sự phát triển của thị trường chứng khoán
- Thị trường tiền tệ: Thị trường vốn là nơi diễn ra việc mua bán các công cụ
vay nợ ngắn hạn như tín phiếu, thương phiếu, hối phiếu, Mặc dù thị trường tiền tệ
có mức giao động giá nhỏ, ít rủi ro nhưng nguồn vốn huy động thường nhỏ và ngắn
hạn. Thị trường tài chính Việt Nam nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng chưa
phát triển một cách hoàn thiện, các tổ chức trung gian tài chính chưa đủ tiềm lực để
đáp ứng nhu cầu vốn trung hạn và vốn dài hạn mà hoạt động tài trợ ngắn hạn cũng
chưa phát huy hết hiệu quả. Đối với Việt Nam hiện nay, hệ thống ngân hàng vẫn là
kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế khi mà thị trường chứng khoán mặc dù đã
hình thành nhưng chưa phát huy được vai trò tạo ra các hình thức đầu tư, chưa mở
rộng các kênh chu chuyển vốn trung và dài hạn để tạo cơ hội huy động nguồn lực
xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất. Vì vậy, khả năng huy động vốn của các doanh
nghiệp còn nhiều hạn chế, nhất là đối với những doanh nghiệp cần huy động vốn
cho những dự án đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản, có quy mô lớn và thời gian
thu hồi vốn kéo dài.
1.3.2.3. Sự tác động của kinh tế thế giới
- Sự tác động của toàn cầu hóa và việc Việt nam gia nhập WTO:
Việc toàn cầu hóa mở ra cho các doanh nghiệp Việt nam một cơ hội lớn để
huy động vốn trên thị trường quốc tế. Niêm yết tại thị trường chứng khoán quốc tế
đem lại những lợi ích rất lớn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn quốc tế, tăng
tính thanh khoản của giao dịch, mở rộng cơ sở cổ đông, đồng thời, quảng bá hình
ảnh ra khỏi biên giới quốc gia, đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế về quản trị
công ty và tính minh bạch. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam, việc huy động vốn theo
hình thức này gặp một số trở ngại nhất định từ phía cơ quan quản lý và cả doanh
nghiệp. Về phía cơ quan quản lý, nguồn lực quản lý, cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu
cầu kết nối giám sát chung và cơ sở pháp lý chưa hoàn thiện là những khó khăn chủ
yếu. Đối với doanh nghiệp, khó khăn trong việc đáp ứng tiêu chuẩn niêm yết về tài
chính, công bố thông tin cũng như chi phí và nguồn lực để duy trì niêm yết tại hai
thị trường là những rào cản lớn để tiếp cận kênh vốn này. Tìm hiểu và hướng đến
thị trường vốn quốc tế là một cách làm đang được nhiều doanh nghiệp Việt Nam
quan tâm. Hơn nữa, kể từ khi trở thành thành viên đầy đủ của WTO vào tháng
1/2007 là một trong những yếu tố khuyến khích Việt Nam nhận được luồng vốn
19
chảy vào lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài và như vậy đem lại nhiều cơ hội hơn
trong việc huy động vốn cho các doanh nghiệp trong nước. Những công ty niêm yết
mới trên thị trường đã thúc đẩy quá trình cổ phần hoá đi nhanh hơn. Một số công ty
nhà nước lớn đã được cổ phần hóa xong làm cho thị trường mở rộng không chỉ về
lượng mà cả về chất.
- Ảnh hưởng của biến động các thị trường tài chính trên thế giới:
Trong thời đại ngày nay, thị trường tài chính trong nước có mối liên quan cực
kỳ mật thiết với thị trường tài chính tài chính quốc tế. Thị trường trong nước và
nước ngoài đã thông thương với nhau ở mức độ nhất định, và vì vậy ví dụ như khi
Cục dự trữ liên bang của Mỹ (FED) cắt giảm lãi suất USD thì cũng sẽ cũng ảnh
hưởng đến lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay và việc huy động vốn nói chung ở
Việt Nam. Tương tự như vậy, với các thay đổi về giá của các nguyên liêụ chiến
lược như dầu mỏ, vàng cũng ngược lại tác động đến lãi suất cũng như khả năng
huy động vốn tại Việt nam.
20
Chương 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ KIM LỢI TRONG THỜI GIAN
QUA
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ
DỊCH VỤ KIM LỢI
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Kim Lợi được thành lập năm 1996, có
trụ sở giao dịch tại số 6 lô 3 khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính-Cầu Giấy-Hà Nội, là
công ty liên doanh giữa các cổ đông Việt Nam và Nhật Bản. Ngành nghề kinh
doanh của công ty là sản xuất và bán các sản phẩm gang và thép đúc chất lượng
cao, cung cấp các dịch vụ cơ khí. Quy mô đầu tư của công ty là 7.800.000 USD,
trong đó vốn chủ sở hữu 2.350.080 USD và phần còn lại là vốn vay từ ngân hàng
EXIM Bank Nhật bản. Cơ cấu vốn đầu tư ban đầu của công ty được xác định như
sau:
Vốn cố định: 6.140.000 USD
Chi phí trước hoạt động: 450.000 USD
Vốn lưu động: 1.210.000 USD
Ngay sau khi bắt đầu ký hợp đồng liên doanh và góp vốn, công ty đã nhanh
chóng triển khai việc xin giấy phép và ngày 25/1/1996 công ty đã được Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cấp giấy phép. Khi có giấy phép đầu tư, công ty đã tiến hành xây
dựng, mua sắm thiết bị và lắp đặt. Tới ngày 20/10/1996 đã bắt đầu chạy thử và tới
18/4/1997 đã chính thức bắt đầu đi vào hoạt động.
Năm 1999 là năm đánh dấu bước chuyển mình về cơ bản của Công ty cổ phần
thương mại và dịch vụ Kim Lợi khi phía Việt Nam mua lại cổ phần của các đối tác
Nhật Bản và nắm đa số trong công ty. Hướng kinh doanh của công ty là phục vụ các
khách hàng trong nước, vì các kênh phân phối sản phẩm ra nước ngoài đã bị mất
cùng với việc rút ra khỏi công ty của các đối tác Nhật Bản.
Kể từ năm 2004, sau một thời gian dài liên tục tăng trưởng về doanh thu và sản
21
lượng, Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Kim Lợi đã lấy lại được thương hiệu
của mình trên thị trường và bắt đầu quay trở lại con đường xuất khẩu. Vì chỉ có xuất
khẩu mới có thể tạo được lượng đơn hàng lớn, hàng loạt và giúp công ty ổn định
được chất lượng, sản lượng lớn và có lãi.
2.1.2. Bộ máy tổ chức của Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Kim Lợi
Bộ máy tổ chức của công ty được xây dựng như theo bảng ở dưới đây.
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức của công ty
Nguồn: Sổ tay chất lượng (ISO 9001-2000) của công ty
Cơ cấu tổ bộ máy tổ chức của Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Kim Lợi
bao gồm:
• Khối văn phòng Công ty:
- Ban Giám đốc: Gồm 1 Giám đốc và 2 Phó Giám đốc.
Giám đốc Công ty là người được HĐQT Công ty bổ nhiệm, giao nhiệm vụ
HĐQT
Giám đốc
PGĐ 1 PGĐ2
P. Kỹ thuật Phân xưởng
P. KCS
Cơ điện- Bảo
dưỡng
Kế Toán
trưởng
P. HC-Tổng
hợp
P. Kinh
doanh
22
quản lý, điều hành Công ty, là người có thầm quyền cao nhất chịu trách nhiệm về
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty theo đúng pháp luật. Giám đốc
công ty đồng thời phụ trách phòng Kinh doanh (mua và bán hàng), phòng Tổng hợp
(Hành chính, kế toán, nhân sự)
Phó Giám đốc Kỹ thuật chịu trách nhiệm quản lý mảng kỹ thuật, thiết kế, giám
sát chất lượng.
Phó Giám đốc sản xuất phụ trách xưởng sản xuất, bộ phận cơ điện- bảo dưỡng.
- Các phòng ban nghiệp vụ chức năng: Các phòng này nhiệm vụ giúp lãnh
đạo Công ty triển khai, giám sát tình hình hoạt động của toàn Công ty, đảm bảo cho
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển ổn định, bao gồm:
+ Phòng Tổng hợp (Hành chính, kế toán, nhân sự): Thực hiện đồng thời các
công việc quản lý hành chính, công văn giấy tờ và quản lý các công việc nhằm bảo
đảm hoạt động nội bộ được trơn tru. Các công việc như quản lý xe ôtô, căng-tin,
bảo vệ cũng thuộc phòng này.
- Phần công việc kế toán-tài chính: Hạch toán kế toán công tác tài chính của
Công ty theo chế độ nhà nước hiện hành, thiết lập và quản lý hệ thống kế toán của
công ty,xây dựng kế hoạch thu chi tài chính hàng năm, kế hoạch sử dụng các nguồn
vốn để đầu tư phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phần công việc tổ chức-đào tạo: đảm bảo cung ứng cho công ty nguồn
nhân lực, xây dựng các kế hoạch quản lý nguồn nhân lực (đào tạo mới và đào tạo
lại), đảm bảo quyền lợi cho người lao động theo đúng các chế độ chính sách của
Nhà nước.
+ Phòng Kinh doanh: gồm có các mảng công việc mua hàng, bán hàng, kế
hoạch và xuất nhập khẩu:
- Mảng công việc mua hàng: tổ chức các hoạt động để thực hiện việc mua
hàng cho công ty từ việc lập kế hoạch mua hàng, tìm kiếm nhà cung cấp, lấy các
báo giá, so sánh và lựa chọn nhà cung cấp, tiến hành làm hợp đồng và theo dõi cho
tới khi nhận hàng. Thực hiện các công việc quản lý, lưu kho và cấp phát vật tư.
- Phần công việc bán hàng: tổ chức các hoạt động marketing, tìm kiếm khách
hàng tiềm năng và duy trì các khách hàng hiện tại. Tính toán chào giá bán hàng theo
23
từng sản phẩm, đàm phán lập hợp đồng với khách hàng. Theo dõi việc thực hiện
hợp đồng cho tới khi hoàn tất giao hàng cho khách hàng. Thu thập các ý kiến phản
hồi và thực hiện các hoạt động chăm sóc khách hàng sau khi bán hàng.
- Kế hoạch tổng hợp: Dựa trên các yêu cầu đa dạng của từng khách hàng và
việc tự dự báo để lập nên các kế hoạch sản xuất, bán hàng theo năm, quý tháng. Tổ
chức công tác điều độ sản xuất theo tháng, tuần. Đồng thời thu nhận thông tin, tổng
hợp và phân tích để đưa ra các dự báo tiếp theo.
- Xuất nhập khẩu: thực hiện các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để làm các thủ
tục xuất, nhập khẩu hàng hoá và vật tư. Đồng thời tổ chức việc vận tải sản phẩm,
vật tư trong nội địa.
+ Phòng kỹ thuật: Chịu trách nhiệm về các vấn đề kỹ thuật chuyên ngành,
thiết kế và theo dõi việc hoàn thành sản phẩm các sản phẩm mới. Theo dõi và đảm
bảo việc thực hiện đúng các công đoạn sản xuất tại xưởng. Xây dựng kế hoạch áp
dụng tiến bộ công nghệ và các sáng kiến cải tiến kỹ thuật vào hoạt động sản xuất
của Công ty.
- Một chức năng khác nữa của phòng Kỹ thuật là thực hiện các dịch vụ tư
vấn thiết kế, chủ yếu phục vụ cho các công trình xây dựng có thiết kế từ Nhật Bản.
+ Xưởng sản xuất: Là nơi thực hiện các hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm
cho công ty. Sơ đồ công nghệ của công ty là như sau:
24
Sơ đồ 2.2: Sơ lược quy trình sản xuất
Nguồn: Sổ tay chất lượng (ISO 9001-2000) của công ty
Với quy trình sản xuất sơ lược như trên, thì thời gian kể từ khi bắt đầu tiến
hành sản xuất tới khi có được thành phẩm khoảng 2 tuần. Như vậy, với mỗi đơn
hàng thì thường cần thời gian ít nhất 1 tháng để thực hiện công đoạn thiết kế
trước đó, cộng với thời gian sản xuất cho đủ được hàng loạt. Như vậy nó cũng
ảnh hưởng ngược lại tới vốn lưu động của công ty, cần dự trữ lượng nguyên liệu
lớn và vòng quay sản xuất cũng khá dài. Sản phẩm của công ty chỉ là các phôi
đúc, khách hàng mua về sẽ cần thời gian để gia công, nhằm có được các kích
thước thẳng, cong chính xác như ý muốn. Như vậy, tính từ lúc thực hiện cho tới
khi có xác nhận sản phẩm không bị lỗi sau khi khách hàng gia công có khi lên
tới 2~3 tháng (tính thêm cả thời gian vận chuyển kể cả xuất khẩu và thời gian gia
công). Điều này cũng làm tăng thêm thời gian quay vòng của 1 chu kỳ sản xuất
và thu hồi vốn. Các sản phẩm chủ yếu của công ty là:
Vật tư làm khuôn (cát,
chất kết dính )
Máy làm khuơn (tạo các
hộp cát rỗng theo hỡnh
sản phẩm)
Lò điện cao tần nấu
nóng chảy nguyên liệu
Rút gang, thộp núng
chảy
Lấy sản phẩm ra khi đã nguội
bằng việc phỏ bỏ khuôn cát
Sản phẩm đúc
(phôi đúc)
Gia nhiệt để khử ứng suất dư
của sản phẩm sau khi đúc
25
Vật tư nấu luyện (thép vụn,
gang thỏi, phụ gia
Các khuôn đúc (tạo
hình sản phẩm khi rút
kim loại vào trong
Mỏy làm sạch sản
phẩm (loại bỏ cát
dính, cắt bavia )