Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong luật bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.67 KB, 10 trang )

Chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong luật bảo hiểm xã hội
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 1.1.2009, tại Việt Nam một loại hình bảo hiểm mới đã bắt đầu có hiệu lực nhằm bảo vệ,
hỗ trợ những đối tượng là lao động thất nghiệp. Đó là bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Sự ra đời
của loại hình bảo hiểm này thực sự là một bước tiến lớn trong con đường phát triển của ngành
bảo hiểm Việt Nam nói riêng và nỗ lực đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta nói
chung.
BHTN ở Việt Nam ra đời gắn với giai đoạn đầy khó khăn, khủng hoảng của nền kinh tế
Việt nam cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải chứng kiến nhiều doanh nghiệp
phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Sau 2 năm thực hiện, bảo hiểm thất
nghiệp đã mang lại những thành công nhất định, cũng như tác dụng tích cực về mặt kinh tế xã
hội.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, cũng không tránh khỏi những vướn mắc, thiếu sót. Vì vậy,
thông qua bài thuyết trình hôm nay, nhóm chúng tôi muốn đề cập đến thực trạng áp dụng BHTN
cũng như những giải pháp để hoàn thiện nó.
I/ Khái quát về BHTN
1/ Khái niệm
Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong
thời gian mất việc thì mục đích chính của bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào
tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm
mới thích hợp và ổn định.
2/ Đối tượng áp dụng
– Người lao động: Là công dân Việt Nam giao kết các loại HĐLĐ (HĐLĐ xác định thời hạn
từ đủ 12 tháng đến 36 tháng; HĐLĐ không xác định thời hạn), HĐ làm việc (HĐ làm việc xác
định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng; HĐ làm việc không xác định thời hạn) với người sử
dụng lao động có sử dụng từ 10 người lao động trở lên.
– Người sử dụng lao động: các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng từ 10 người
lao động trở lên.
Lưu ý: Đối tượng được nhận bảo hiểm thất nghiệp là những người bị mất việc không do lỗi
của cá nhân họ. Họ vẫn đang cố gắng tìm kiếm việc làm, sẵn sàng nhận công việc mới và luôn


nỗ lực nhằm chấm dứt tình trạng thất nghiệp. Những người này sẽ được hỗ trợ một khoản tiền
theo tỉ lệ nhất định so với khoản thu nhập cũ nhận trong những thời kì cụ thể.
Bảo hiểm thất nghiệp không áp dụng cho những người thất nghiệp vì tự ý bỏ việc hay những
ngưòi vừa mới ra trường và chưa tìm được công ăn việc làm, những người thuộc vào diện thất
nghiệp.
3/ Mục đích của BHTN
- Giúp ổn định thu nhập đời sống cho những người thất nghiệp không tự nguyện, đáp ứng
cho họ những chi tiêu ccàn thiết mà kong gây ra tình trạng nợ nần.
- Giúp những người thất nghiệp sớm có cơ ội tìm được việc làm, những người có kĩ năng sẽ
tìm đựơc công việc pù hợp thay vì phải làm những công việc khác với mức lương không tương
xứng.
- Giúp ổn định nền kinh tế, góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc độ cá thể và kinh tế vĩ mô,
thúc đẩy tìm việc làm hiệu quả - tạo điều kiện kết nối tốt hơn giữa cung và cầu trong thị trường
lao động.
- Giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh nghiệp.
1
4/ Về nguồn hình thành quỹ BHTN
Việc hình thành quỹ BHTN của các quốc gia đều tập trung vào hai hoặc ba đối tượng: người
lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Kinh nghiệm của các nước thực hiện BHTN cho
thấy: hầu hết các quốc gia đều có sự hỗ trợ hoặc đóng góp trực tiếp cho việc hình thành quỹ. Do
vậy nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của ba bên là hợp lý. Sự đóng góp này tạo ra sự
ràng buộc giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHTN. Quỹ phải được
thực hiện trên nguyên tắc hạch toán độc lập và tự chủ, được bảo toàn về giá trị và tránh những
rủi ro về tài chính, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu chi trả trợ cấp cho người lao động thất
nghiệp. Về mức đóng góp phải đảm bảo nguyên tắc không làm ảnh hưởng lớn đến nhu cầu tiêu
dùng và cuộc sống trước mắt của người lao động, không ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và
hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường của doanh nghiệp do tăng giá thành sản phẩm, dịch
vụ. Do đó, Luật BHXH đã quy định người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng
đóng BHTN, người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng
BHTN của những người lao động tham gia BHTN và Nhà nước hỗ trợ hàng tháng bằng 1% quỹ

tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những người lao động tham gia BHTN, ngoài ra quỹ
còn có thể có các nguồn thu khác.
5/ Về điều kiện hưởng BHTN
Điều kiện để hưởng trợ cấp thất nghiệp phức tạp hơn nhiều so với các chế độ BHXH hiện
hành là vì ở nước ta ranh giới để phân định giữa có việc làm và không có việc làm, giữa có thu
nhập và không có thu nhập không rõ ràng. Do đó, để được hưởng trợ cấp thất nghiệp người thất
nghiệp phải có một quá trình làm việc nhất định và tham gia đóng bảo hiểm trong một thời gian
tối thiểu. Việc quy định này, nhằm đảm bảo cho quỹ có đủ điều kiện để chi trả trợ cấp thất
nghiệp. Đối với các nước quy định này rất khác nhau, chẳng hạn: ở Đức quy định là phải đóng
BHTN 12 tháng trong vòng 3 năm trước khi thất nghiệp; Pháp quy định là có ít nhất 91 ngày
hoặc 507 giờ làm việc được trả lương trong 12 tháng trước đó. Vì những lý do trên nên Luật
BHXH quy định điều kiện hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp là: người lao động đã đăng ký thất
nghiệp với cơ quan BHXH; chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp
đồng thời đã có thời gian đóng BHTN đủ 12 tháng trong vòng 24 tháng trước khi thất nghiệp,
quy định này là khá phù hợp với điều kiện tài chính của quỹ BHTN trong thời gian đầu thực
hiện.
6/ Về mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp
Mức hưởng có quan hệ mật thiết với mức đóng để đảm bảo khả năng duy trì quỹ, tránh tình
trạng quỹ vừa hình thành đã mất khả năng chi trả. Ngoài ra, mức hưởng và thời gian hưởng cũng
phải phù hợp để không gây ra hiện tượng ỷ lại vào trợ cấp, không muốn quay trở lại làm việc.
Thông thường mức hưởng phụ thuộc vào mức tiền lương làm căn cứ đóng BHTN. Các nước
thường quy định thời gian hưởng dài hay ngắn phụ thuộc vào: thời gian tham gia BHTN; mức độ
khó dễ tìm việc làm của người thất nghiệp. Nhìn chung ở các nước thời hạn hưởng khoảng từ 12
đến 52 tuần lễ, như Áo là 12 tuần, Canada là 36 tuần và mức hưởng theo tỷ lệ luỹ thoái; những
tháng đầu được hưởng tỷ lệ cao, những tháng sau tỷ lệ thấp hơn (ví dụ ở Hungari 3 tháng đầu
được hưởng 70% tiền lương, 6 tháng sau hưởng 50% và 3 tháng cuối là 40%). Vì đây là một chế
độ bảo hiểm phức tạp, nên Luật BHXH đã quy định mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng
60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của 6 tháng liền kề trước khi thất
nghiệp và thời gian hưởng trợ cấp cũng phụ thuộc vào thời gian tham gia đóng BHTN nhưng tối
đa không quá 12 tháng, đây là một quy định phù hợp để tránh gánh nặng cho quỹ trong thời gian

đầu triển khai thực hiện.
II/ Thực trạng áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp:
1/ Những kết quả đạt được:
-Về mặt tổ chức triển khai và thực hiện.
2
+ Nhìn chung các văn bản hướng dẫn và triển khai thực hiện chính sách BHTN được ban hành
kịp thời, đầy đủ và đáp ứng được yêu cầu thực tế; có sự phối hợp tốt giữa các bộ, ngành trong
việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản
Cục Việc làm (Bộ Lao động– Thương binh và Xã hội) đã phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Việt
Nam và các chuyên gia quốc tế tổ chức các hội nghị tập huấn triển khai thực hiện chính sách
BHTN cho các Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, trung tâm giới thiệu việc làm (TTGTVL)
và các cơ quan có liên quan; Tổ chức thông tin, tuyên truyền về các chế độ, chính sách này trên
các phương tiện thông tin đại chúng, xuất bản sách hỏi đáp và tờ rơi về chế độ, chính sách, xây
dựng Sổ nghiệp vụ về BHTN. Cùng với đó, Cục đã phối hợp với Tổ chức Lao động Quốc tế
(Văn phòng ILO Hà Nội) xây dựng phần mềm quản lý, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin
vào việc quản lý, xử lý hồ sơ hưởng BHTN; Tổ chức đoàn đánh giá tình hình thực hiện ở một số
địa phương (có chuyên gia của ILO tham gia),….
+ Các Sở LĐ-TBXH đã tổ chức thông tin, tuyên truyền các chế độ, chính sách về BHTN trên các
phương tiện thông tin đại chúng trên địa bàn, tập huấn cho các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp
tại địa phương; phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện các chế độ, chính sách
BHTN; giao nhiệm vụ và tăng cường cán bộ, cơ sở vật chất cho Phòng thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước về việc làm để thực hiện BHTN. Các TTGTVL trực thuộc Sở LĐ-TBXH đã khẩn
trương thành lập phòng BHTN tại trung tâm; thành lập các văn phòng đại diện, chi nhánh và các
điểm tiếp nhận đăng ký thất nghiệp và giải quyết các thủ tục hưởng BHTN tại một số quận,
huyện hoặc cụm quận, huyện để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người thất nghiệp đến đăng ký;
tuyển dụng và đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ; trang bị cơ sở vật chất để đảm bảo phục vụ nhiệm
vụ mới được giao; thực hiện tốt việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hưởng BHTN từ ngày
01/01/2010.
- Về mặt nghiệp vụ: sau khi Chinh ban hành NĐ 127/2008/NĐ-CP ngày 12-12-2008 quy định
chi tiết và thực hiện BHTN, BHXH Việt Nam đã ban hành các văn bản hướng dẫn thủ tục hồ sơ

và quy trình thu- chi BHTN. Dựa trên quy định này, các đơn vị nghiệp vụ đã phối hợp xây dựng
bổ sung các tiêu thức về thu- chi BHTN hiện có. Việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác
quản lí BHXH có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó tạo ra cơ sở dữ liệu về thu BHXH, trong đó có
BHTN với từng người lao độngkhi tham gia BHTN. Đây là căn cứ để thực hiện việc xác nhận
quá trình đóng bhtn đối với người lao động và là cơ sở để giải quyết chế độ khi người lao động
mất việc làm.
- Về công tác thu- chi BHTN: BHXH Việt Nam đã khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn về
quy trình thu, chi BHTN và tổ chức tập huấn cho toàn hệ thống:
+ Theo quy định tại Điều 140 của Luật Bảo hiểm xã hội thì bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2009. Sau 2 năm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp bước đầu đã đạt được
những kết quả khả quan, theo BHXH Việt Nam năm 2010 có 7.054.962 người tham gia BHTN,
tăng 17,7% so với năm 2009 về số thu đạt 4.864 tỷ đồng tăng 27,9% so với năm 2009, đưa tổng
quỹ bảo hiểm thất nghiệp lên 8.200 tỷ đồng.
+ Thống kê của Cục việc làm (Bộ LĐTB-XH) cho biết, nếu năm 2010 số người tham gia BHTN
là 7,05 triệu người thì đến tháng 4/2011 số người tham gia hình thức bảo hiểm này đã lến tới trên
7,4 triệu người. Theo nhận định từ ngành bảo hiểm, đến nay chưa có đơn thư, khiếu nại về việc
thực hiện chính sách BHTN. Người lao động và người sử dụng lao động ngày càng nhận thức
được quyền lợi của họ khi tham gia loại hình bảo hiểm này.
+ Theo thống kê báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và xã hội, tính đến ngày 1/3/2011: Số
lượng đăng ký thất nghiệp: TP. Hồ Chí Minh là 59.142 người, Bình Dương 56.676 người, Đồng
Nai 25.403 người, Hà Nội 4.192 người, Phú Thọ 1.104 người. Số người hưởng trợ cấp thất
nghiệp: TP. Hồ Chí Minh 50.148, Bình Dương 31.140, Đồng Nai 16.186, Hà Nội 3.910, Phú
Thọ 821. Số tiền chi trợ cấp thất nghiệp: 210.974 triệu đồng, Bình Dương 95.606 triệu đồng,
3
Đồng Nai 54.524 triệu đồng, Hà Nội 17.768 triệu đồng, Phú Thọ 2.463 triệu đồng. Số tiền chi
học nghề: Hồ Chí Minh 65 triệu đồng, Bình Dương 10 triệu, đồng Đồng Nai 1 triệu đồng, Hà
Nội 57 triệu đồng. Theo báo cáo của các địa phương về tình hình tiếp nhận và giải quyết các chế
độ bảo hiểm thất nghiệp trên toàn quốc, đến hết tháng 2/2011 có tới 225.675 số người đăng ký,
và 176.894 người đã có quyết định được hưởng bảo hiểm thất nghiệp.
2/ Những vướng mắc khi thực hiện chế độ BHTN:

2.1/Đối tượng được áp dụng BHTN
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì BHTN áp dụng bắt buộc đối người lao động là công
dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này
không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng với
người sử dụng lao động tham gia BHTN theo quy định của Luật BHXH có sử dụng từ mười lao
động trở lên (khoản 3, 4 Điều 2 Luật BHXH 2006). Như vậy, đối tượng áp dụng BHTN là những
công dân Việt Nam, nhưng không phải là công dân nào cũng được tham gia mà chỉ những công
dân đạt điều kiện luật định mới được tham gia BHTN. Việc quy định như trên cho thấy đối
tượng được tham gia BHTN theo pháp luật hiện hành của nước ta rất hẹp:
Những người có quốc tịch nước ngoài hoặc không có quốc tịch sang Việt Nam làm việc
trong thời gian dài thì không được đóng và hưởng trợ cấp BHTN; những người lao động nông
nghiệp cũng không được tham gia BHTN, trong khi họ là một lực lượng đông đảo; Luật BHXH
quy định chỉ áp dụng BHTN với người lao động làm việc theo hợp đồng xác định thời hạn từ đủ
12 tháng đến dưới 36 tháng hoặc hợp đồng không xác định thời hạn, trong khi Nghị định
127/2008/NĐ-CP của Chính phủ lại quy định rõ ngoài các trường hợp trên thì những người ký
hợp đồng làm việc không xác định thời hạn, kể cả những người được tuyển dụng vào làm việc tại
các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước lại được tham gia BHTN.
Cục Việc làm (Bộ LĐ-TB&XH) cho rằng, doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động không
thuộc diện tham gia BHTN là bất hợp lý, vì lao động làm việc trong những đối tượng này thường
có khả năng mất việc làm cao, cần quan tâm hỗ trợ thì chưa có hàng rào để bảo vệ, bên cạnh đó
nhiều doanh nghiệp loại này tìm cách lách luật, không bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
Điều đáng nói, do chưa có văn bản hướng dẫn Luật viên chức, trong khi việc phân biệt giữa
cán bộ công chức, viên chức lại khó, nên vấn đề xác định đối tượng tham gia bảo hiểm thất
nghiệp tại các đơn vị sự nghiệp nhà nước gặp khó khăn. Chưa hết, đối với trường hợp người lao
động đi nghĩa vụ quân sự hoặc đã có việc làm khác, nhưng vẫn được nhận trợ cấp 1 lần là không
hợp lý vì họ không phải là đối tượng thất nghiệp.
2.2/ Điều kiện đối với hưởng BHTN
Điều 81 Luật BHXH năm 2006 và Điều 15 Nghị định 127/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày
12/12/2008 quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật BHXH về BHTN có 3
điều kiện


(Điều 81 Luật BHXH 2006), một trong những điều kiện cần phải được nghiên cứu làm
rõ hơn là người lao động đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng
trước khi bị mất việc. Vấn đề đặt ra là trong vòng 24 tháng trước ngày người lao động bị mất
nghiệp, họ mới chỉ đóng được 11 tháng BHTN thì họ có được hưởng chế độ BHTN không? Hơn
nữa, BLLĐ hiện hành vẫn quy định về chế độ trợ cấp thôi việc cũng như trợ cấp mất việc đối với
người lao động khi họ thôi việc hoặc mất việc làm, nhưng sẽ không áp dụng các trợ cấp này với
những đối tượng được hưởng chế độ BHTN. Do vậy về mối quan hệ giữa hưởng BHTN và các
chế độ trợ cấp trên cũng cần được làm rõ.
Quy định của Luật Bảo hiểm thất nghiệp lại quá “khắc nghiệt”, trình tự, thủ tục đăng kí bảo
hiểm thất nghiệp còn rườm ra chưa hợp lý:
+ Đó là quy định: Trong vòng 7 ngày kể từ ngày mất việc, chấm dứt hợp đồng lao động, người
lao động phải đăng ký thất nghiệp; 15 ngày sau đó, người lao động phải nộp đủ hồ sơ hưởng trợ
cấp thất nghiệp. Như vậy chỉ trong vòng 22 ngày người lao động phải hoàn tất hồ sơ, nếu không
4
sẽ bị từ chối hưởng trợ cấp thất nghiệp. Vì vậy không ít người lao động mất việc bị từ chối
hưởng quyền lợi này.
+ Bên cạnh đó, quy định về thời gian nộp sổ bảo hiểm xã hội cũng là một rào cản khiến người
lao động khó tiếp cận trợ cấp từ bảo hiểm thất nghiệp. Theo Luật Bảo hiểm xã hội, trong vòng 30
ngày kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội chốt sổ bảo hiểm xã hội
cho người lao động. Trong khi đó, chỉ có 15 ngày, kể từ khi đăng ký, người lao động phải nộp sổ
bảo hiểm xã hội có xác nhận thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp mới được hưởng trợ cấp
thất nghiệp. Vì thế nhiều lúc người lao động chưa kịp nhận sổ thì đã hết thời gian nộp sổ bảo
hiểm xã hội để đăng ký bảo hiểm thất nghiệp nên không ít người đành bỏ. Mà nguyên nhân chủ
yếu ở đây chính là vấn đề chậm chốt sổ BHXH.
Tất cả những quy định thiếu tính đồng bộ này đã làm khó, khiến nhiều người lao động mất trắng
các khoản trợ cấp thất nghiệp mà lẽ ra họ phải được hưởng. Do đó, nhiều người lao động chưa
hiểu rõ và nắm bắt được hết thông tin về thủ tục, cũng như điều kiện để tham gia và nhận bảo
hiểm thất nghiệp dễ bị thiệt thòi, nhưng cũng có một phần lớn không phải do lỗi của người lao
động mà lỗi từ phía người sử dụng lao động, và thái độ làm việc thiếu nghiêm túc của một số cơ

quan có thẩm quyền.
2.3/ Căn cứ tính đóng quỹ BHTN
Việc đóng BHTN được chia theo tỷ lệ người lao động đóng 1% tiền lương, tiền công/tháng;
người sử dụng lao động đóng 1% quỹ tiền lương, tiền công/tháng của những người tham gia
BHTN và Nhà nước hỗ trợ 1% quỹ tiền lương, tiền công đóng BHTN của những người lao động
tham gia BHTN và mỗi năm chuyển một lần (Điều 25 Nghị định 127/2008/NĐ-CP ngày
12/12/2008). Thực hiện quy định này cho thấy, có hiện tượng người sử dụng lao động trả tiền
lương thực tế cho người lao động cao hơn mức ghi trong hợp đồng lao động và sử dụng mức tiền
lương thấp ghi trong hợp đồng làm căn cứ tính đóng BHTN cho người lao động; hoặc có trường
hợp cả người lao động và người sử dụng lao động cùng thỏa thuận với nhau về vấn đề này, gây
thất thoát nguồn thu cho BHXH, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động cũng như sự minh
bạch trong việc tham gia nộp và chi trả BHTN.
2.4/ Tình trạng thất nghiệp “ảo” của người lao động.
Theo phản ánh của các địa phương thì thời gian đầu năm 2011 lượng lao động đăng ký hưởng trợ
cấp thất nghiệp tăng nhanh, trong đó người hưởng mức trợ cấp cao (trên 5 triệu đồng/tháng)
đang có chiều hướng tăng. Đã xuất hiện tình trạng thất nghiệp “ảo”, phần lớn người lao động
không bị thất nghiệp mà tự ý xin nghỉ việc khi có đủ 12 tháng đóng BHTN để được hưởng 3
tháng trợ cấp thất nghiệp. do vậy, mặc dù đang trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng
thực tế vẫn đang làm việc tại doanh nghiệp khác, không khai báo cho cơ quan lao động. Hoặc
thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động, sau đó ít tháng lại quay trở lại doanh nghiệp cũ để làm
việc. Điều này cũng làm cho doanh nghiệp không ổn định về lao động, ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh. Tình trạng này tồn tại ở nhiều địa phương, nhất là ở các thành phố lớn có
nhiều khu công nghiệp, nhất là thị trường lao động phía Nam, bởi ở phía Nam thị trường lao
động phát triển mạnh, luôn biến động, nên số lượng lao động chuyển việc, nghỉ việc, thỏa thuận
chấm dứt hợp đồng lao động sau 12 tháng để hưởng trợ cấp thất nghiệp khá lớn, ngoài ra ở Đà
Năng, Hà Nội, cũng đang xuất hiện tình trạng này.
2.5/ Về chính sách hỗ trợ học nghề và hỗ trợ tìm kiếm việc làm của BHTN:
Về chính sách BHTN, hiện mức hỗ trợ học nghề thấp và thời gian ngắn, việc hỗ trợ tìm kiếm
việc làm cũng chưa thật sự hiệu quả cũng gây khó khăn cho người lao động. Nhiều người lao
động cũng cho rằng trrình tự thủ tục (từ khâu đăng ký đến giải quyết hồ sơ và nhận trợ cấp thất

nghiệp) quá phức tạp:
Về vấn đề hỗ trợ học nghề:
5
Nhu cầu học nghề và số người được hỗ trợ học nghề ở các tỉnh, thành phố là khá khiêm tốn,
chưa tương xứng với mục tiêu của chính sách hỗ trợ. Tiêu biểu như Số người được hỗ trợ học
nghề: TP. Hồ Chí Minh 44 người, Bình Dương 8 người, Đồng Nai 1 người, Hà Nội 33 người. Số
tiền chi học nghề: Hồ Chí Minh 65 triệu đồng, Bình Dương 10 triệu, Đồng Nai 1 triệu đồng, Hà
Nội 57 triệu đồng. Điều này dẫn tới tình trạng chung là đào tạo không khớp với nhu cầu, và các
doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại.
Như vậy việc đào tạo nghề như thế nào cho chất lượng và phù hợp với nhu cầu của các doanh
nghiệp luôn là vấn đề rất cần quan tâm, nhất là đối với các đối tượng lao động đang hưởng trợ
cấp thất nghiệp, để họ sẵn sàng tìm được công việc mới mà không bị áp lực tái thất nghiệp.
Về vấn đề hỗ trợ tìm việc làm:
Kết quả cho thấy, số người được tư vấn giới thiệu việc làm các tỉnh có sự khác nhau, TP Hồ Chí
Minh bình quân 5 lượt người/1 lần tư vấn, riêng Phú Thọ lên tới 1 lượt người có 3 lần tư vấn.
Bên cạnh đó, có những khó khăn trong việc giới thiệu việc làm như: Trung tâm giới thiệu việc
làm mỏng, trang thiết bị phục vụ công tác còn thiếu, chuyên môn, nghiệp vụ về hoạt động tư vấn,
giới thiệu việc làm chưa có chuyên ngành đào tạo, thị trường lao động của địa phương và cả
nước chưa phát triển đầy đủ vì chưa có cơ sở dữ liệu thông tin cho thị trường lao động.
2.6 / Một số vấn đề khác:
Một số chế độ của người lao động trong quá trình đợi BHTN:
Đến ngày được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì không được hưởng bảo hiểm y tế: điều này có hợp
lý không khi việc tai nạn, bệnh tật là điều không ai có thể nói trước nếu trong thời gian này
người lao động bị bệnh tật hoặc tai nạn thì phải làm sao, vừa thất nghiệp không có việc làm
không có thu nhập, lại không được trợ giúp từ phía bảo hiểm, điều này là bất hợp lý; BHTN cũng
chưa có chế độ mai táng cho người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Hiện tượng “lách luật” ở một số doanh nghiệp:
Với kẽ hở của một số quy định như: Doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động không thuộc diện
tham gia BHTN; Hợp đồng lao động trên 12 tháng mới bắt buộc đóng BHTN, xem ra kẽ hở cho
DN trốn đóng BHTN vẫn khá lớn. Điều này làm cho quyền lợi của những người lao động làm

trong các doanh nghiệp này không được đảm bảo, đặc biệt là lao động nữ hoặc những người lao
động từ các tỉnh nghèo nhập cư vào các thành phố lớn kiếm việc không hiểu biết về pháp luật,
nên không thể bảo vệ được quyền lợi cho mình.
III/ Nguyên nhân, giải pháp cho vướng mắc hiện tại và hướng phát triển cho bảo hiểm thất
nghiệp trong thời gian tới:
1.Nguyên nhân của vướng mắc gặp phải
1.1/ Ý thức của người lao động cũng như người sử dụng lao động chưa cao:
Trước hết tâm lý của người lao động là không muốn bỏ tiền ra đóng góp bất kỳ khoản gì, không
muốn tham gia vì ngại những thủ tục phiền hà Hiện tượng hiện nay là còn rất nhiều doanh
nghiệp cũng như người lao động không chịu đóng bảo hiểm thất nghiệp là do họ rất băn khoăn
về 3 câu hỏi:
Thứ 1 : Khi thất nghiệp sẽ phải đến đâu để nhận tiền trợ cấp.
Thứ 2 : Thủ tục đăng kí khá phiền hà.
Thứ 3 : Nhiều lao động còn tỏ ra chủ quan khi nhận định rằng những gì họ nhận được từ bảo
hiểm thất nghiệp là quá phiền phúc và từ đó có tâm lý là thà tranh thủ đi kiếm việc khác tốt hơn.
Đó là người lao động còn người sử dụng lao động thì ta thấy rằng trong điều kiện cạnh tranh rất
gay gắt, trong điều kiện hội nhập mà nước ta hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thì bất kỳ một
sự gia tăng chi phí đầu vào nào dù là nhỏ cũng sẽ gây ảnh hướng sống còn đến hoạt động, sự
sống của doanh nghiệp. Vì thế xảy ra hiện tượng “chây ỳ” trong việc đóng bảo hiểm thất nghiệp
ở các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.2/ Các cơ quan hữu quan đùn đẩy trách nhiệm cho nhau :
6
Quy định của Luật về Bảo hiểm thất nghiệp nêu: trong vòng 7 ngày kể từ ngày mất việc, chấm
dứt hợp đồng lao động, người lao động phải đăng ký thất nghiệp; 15 ngày sau đó, người lao động
phải nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Như vậy chỉ trong vòng 22 ngày người lao động
phải hoàn tất hồ sơ, nếu không sẽ bị từ chối hưởng trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên, nhiều người
lao động cho hay nơi họ làm việc cố tình gây khó khăn trong việc chốt sổ bảo hiểm xã hội. Việc
chốt sổ bảo hiểm xã hội cho người thất nghiệp đã gặp nhiều vướng mắc: nhiều người dù đã đăng
ký từ sớm nhưng chưa được chốt sổ là do các doanh nghiệp làm thủ tục chốt sổ không đúng quy
trình, nhầm lẫn thông tin của họ. Hồ sơ được gửi lên, Bảo hiểm xã hội rà soát thấy sai phải gửi

trở lại để doanh nghiệp làm lại. Việc này sẽ khiến nhiều người lao động thất nghiệp không thể
nhận được trợ cấp đúng hạn.
Còn một số đơn vị, doanh nghiệp… chưa phối hợp với công đoàn cùng cấp phổ biến chính sách,
chế độ khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp, do đó người lao động chưa nắm rõ quyền lợi và trách
nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Một bộ phận người lao động làm việc trong các đơn vị, doanh nghiệp có sử dụng trên 10 lao
động, chưa có tổ chức công đoàn (thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp) vẫn không
biết để yêu cầu tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp dẫn đến thiệt thòi về quyền lợi khi nghỉ việc
hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc.
Cơ quan chức năng lúng túng thừa nhận có nhiều vướng mắc phát sinh từ thực tế mà họ chưa
lường hết được. Đơn cử, trong trường hợp doanh nghiệp nợ bảo hiểm thất nghiệp từ 3 tháng trở
lên thì người lao động không được chốt sổ bảo hiểm xã hội, và như vậy sẽ không được nhận trợ
cấp thất nghiệp. Lỗi ở đây là của chủ doanh nghiệp, nhưng thiệt hại lại thuộc về người lao động.
Và cơ quan chức năng thì chưa biết xử lý ra sao.
Tương tự, ở doanh nghiệp có chủ bỏ trốn cũng không biết phải giải quyết quyền lợi cho người
lao động ra sao. Nếu doanh nghiệp không hợp tác trong việc chốt sổ bảo hiểm xã hội cho người
lao động đúng hạn thì cơ quan chức năng cũng chưa biết phải áp dụng biện pháp hữu hiệu nào.
Tham gia bảo hiểm thất nghiệp người lao động khi bị mất việc làm, họ được hưởng nhiều quyền
lợi như được trợ cấp thất nghiệp; Hỗ trợ kinh phí học nghề; Tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí;
Hưởng bảo hiểm y tế… Tuy nhiên, phần lớn số lao động đăng ký và hưởng bảo hiểm thất nghiệp
mới chỉ nhắm đến việc nhận tiền trợ cấp thất nghiệp mà ít quan tâm đến việc nhận sự tư vấn, giới
thiệu việc làm hay được hỗ trợ học nghề.
1.3/Tính đa dạng của thị trường lao động nảy sinh các trường hợp khó giải quyết:
Một trong những nguyên nhân gây ra thất nghiệp còn do những người lao động làm những công
việc mang tính chất mùa chất mùa vụ, những làng nghề truyền thống. Tiền lương của họ cũng
phụ thuộc vào sản lượng đặt hàng cũng như thời vụ trong năm do đó việc tính toán tiền lương
chính xác để tính phí bảo hiẻm cũng không thể rõ ràng được. Đó là chưa kể, mức độ luân
chuyển, di dời lao động ở nhiều công ty phải đến 50% mỗi năm khiến việc theo dõi, chốt sổ bảo
hiểm rất phức tạp.
Cái khó không chỉ vì không được tham gia, mà với những người đã được tham gia, không phải ai

cũng hiểu các quy định để làm thủ tục hưởng chế độ khi nghỉ việc, dù đã đủ điều kiện hưởng.
Hơn nữa, đối với NLĐ tại các huyện vùng sâu, vùng xa điều kiện đi lại khó khăn thì việc đăng
ký hưởng trợ cấp thất nghiệp trực tiếp tại Trung tâm GTVL tỉnh cũng không thực sự thuận lợi.
1.4/ Xây dựng các văn bản pháp luật BHTN:
Đến nay, các văn bản hướng dẫn về BHTN vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, được
ban hành nhanh và sửa đổi, bổ sung, thay thế, chấm dứt cũng rất nhanh. Tuy nhiên, công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về vấn đề này lại quá chậm nên người dân không biết sẽ phải áp
dụng văn bản nào để kiểm tra, đối chiếu và để thực hiện quyền lợi của mình.
2. Những giải pháp để gỡ các vướng mắc hiện nay
7
Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong thị trường lao động. Thông
qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp
trở lại làm việc. Đồng thời, nó cũng hỗ trợ một khoản tiền đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ
trong thời gian mất việc. Bảo hiểm thất nghiệp là một loại hình bảo hiểm tiến bộ không chỉ có ý
nghĩa hỗ trợ người lao động khi mất việc làm mà còn có giá trị ổn định kinh tế - xã hội, tuy nhiên
BHTN là chính sách mới nên quá trình tổ chức thực hiện đặc biệt là giai đoạn đầu còn gặp nhiều
khó khăn và vướng mắc nhất định diện bao phủ còn thấp, tình trạng trốn đóng, nợ đọng, đóng
không đầy đủ còn diển ra ở nhiều doanh nghiệp làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của
người lao động. Vì vậy, để chính sách BHTN thực sự phát huy vai trò, thu hút đông đảo người
lao động cũng như chủ sử dụng lao động tham gia, trong thời gian tới, chúng ta cần có những
giải pháp tháo gỡ những vướng mắc như sau:
Tăng cường tuyên truyền chính sách về BHTN đến tận chủ sử dụng lao động và người lao động
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hội thảo, tọa đàm, phổ biến chính sách ở các
doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các khu công nghiệp nhằm nâng cao nhận thức của chủ
sử dụng lao động cũng như bản thân người lao động về chính sách BHTN, quy trình thủ tục tham
gia, các chế độ thụ hưởng BHTN như hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, bảo hiểm y tế…
Rút ngắn thời hạn đóng bảo hiểm thất nghiệp để được hưởng bảo hiểm thất nghiệp xuống còn 8
tháng trong vòng 12 tháng trước khi mất việc. Vì 12 tháng đóng bảo hiểm loại này là hơi nhiều
nếu trường hợp người lao động làm việc cho hợp đồng làm mùa vụ hoặc có thời hạn dưới 12
tháng phải tìm việc mới thường xuyên. Đặc biệt là trường hợp họ không thể tìm được việc trong

thời gian quá lâu mà số tháng đóng BHTN vẫn chưa đủ.
Linh hoạt trong vấn đề chốt sổ bảo hiểm cho người lao động (vì trong rất nhiều trường hợp lỗi
không phải ở phía người lao động, mà là từ phía doanh nghiệp,…) để người lao động được
hưởng các quyền lợi chính đáng của mình:
+ Bảo lưu sổ thất nghiệp với các đối tượng đủ điều kiện hưởng trong vòng 2 ngày và các đối
tượng không đủ điều kiện trong vòng 15 ngày để NLĐ kịp thời gian nộp hồ sơ hưởng.
+ Mặt khác, đối với các doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp, cơ quan bảo
hiểm xã hội sẽ chấp nhận cho những doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội với một tháng phải được
chốt sổ để người lao động hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Đối với DN nợ BHTN từ 1 đến 3 tháng,
thì người sử dụng lao động cam kết sau 1 tháng sẽ trả nợ thì cơ quan BHXH sẽ thực hiện chốt sổ
để giải quyết quyền lợi cho NLĐ. Tuy nhiên cũng có những vấn đề phát sinh trong việc chi trả
bảo hiểm thất nghiệp không nằm trong tầm kiểm soát của sở, đó là các doanh nghiệp thuộc đối
tượng phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp, nhưng trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp, dù hằng tháng
vẫn thu của người lao động. Do đó, vấn đề quan trọng hiện nay là phải tuyên truyền cho người
thất nghiệp biết thời điểm đăng ký để sớm được hỗ trợ ổn định cuộc sống sau thời gian bị mất
việc làm.
Đẩy mạnh sự phối hợp giữa ngành Lao động– Thương binh và Xã hội và ngành Bảo hiểm xã hội
nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện như ban hành văn bản hướng dẫn kịp
thời, phù hợp với tình hình thực tế, xác định đối tượng đóng BHTN, xác định rõ những người có
việc làm thôi hưởng trợ cấp thất nghiệp. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của
ngành và liên ngành, kiên quyết xử lý những doanh nghiệp cố tình chay ỳ, trốn đóng BHTN hoặc
những trường hợp doanh nghiệp, người lao động có hiện tượng gian lận trong thụ hưởng chế độ
BHTN.
Cần phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động cùng
với sự phối hợp của các cấp, các ngành trong việc tuyên truyền chính sách về BHTN cũng như
giám sát việc thực hiện BHTN.
8
Về phía người lao động cần chủ động tìm hiểu nắm được chính sách BHTN, tích cực tham gia
các cuộc hội thảo, tạo đàm hoặc phổ biến chính sách về BHTN để yêu cầu về quyền lợi tham gia
BHTN khi ký kết hợp đồng với chủ sử dụng lao động, biết được quy trình, thủ tục khi thụ hưởng

chế độ BHTN.
Trong một vài trường hợp đặc biệt như: Nghỉ việc bảo lưu thời gian tham gia BHXH, nghỉ việc
hưởng chế độ thai sản, nghỉ việc để tiếp tục làm ở nước ngoài đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp
nên quy định được hưởng ở mức vừa phải, có thể là 50% so với các trường hợp bình thường.
3. Định hướng phát triển BHTN trong thời gian tới:
Bảo hiểm thất nghiệp là một loại hình bảo hiểm tiến bộ không chỉ có ý nghĩa hỗ trợ người lao
động khi mất việc làm mà còn có giá trị ổn định kinh tế - xã hội. Trên thế giới, bảo hiểm thất
nghiệp phát triển khi kinh tế thị trường phát triển. Khi đó, thị trường lao động phát triển mạnh thì
khả năng rủi ro thất nghiệp lớn. Bảo hiểm thất nghiệp chỉ có ý nghĩa trợ cấp cho người lao động
mang tính ngắn hạn. Đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp tương đối hẹp, là những người đã có
việc làm, có quan hệ lao động và đóng bảo hiểm thất nghiệp thì khi mất việc làm sẽ được hưởng
chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Thị trường lao động ở Việt Nam hiện mới hình thành và còn trong
giai đoạn phát triển thấp nên nếu áp dụng bảo hiểm thất nghiệp mà không có tính khả thi thì sẽ
làm mất đi ý nghĩa xã hội của loại hình bảo hiểm này.
Đối với các nước phát triển, hệ thống bảo hiểm thất nghiệp được coi là một công cụ hấp thụ sốc
tự động cho nền kinh tế. Nghĩa là khi kinh tế phát triển mạnh và tỷ lệ thất nghiệp giảm, dòng tiền
chảy vào quỹ cao hơn dòng tiền chi trả ra, cho nên sẽ làm giảm bớt tổng cầu. Ngược lại khi kinh
tế suy thoái, người thất nghiệp được nhận tiền từ quỹ vừa giảm bớt khó khăn cho họ, vừa ngăn
không để tổng cầu giảm quá nhanh.
Vì vậy, để BHTN thật sự mang ý nghĩa xã hội của nó, và làm công cụ đắc lực cho nền kinh tế.
Đảng và Nhà nước cần chú trọng vào đào tạo nghề, tập trung nâng cao cả về cơ sở vật chất và
chất lượng cho các trung tâm, cơ sở dạy nghề. Bên cạnh đó, cần có sự hợp tác và đóng góp của
nhiều thành phần kinh tế: các doanh nghiệp hay tổ chức chính phủ, các doanh nghiệp tư nhân,
các tổ chức phi chính phủ, hợp tác xã nông nghiệp, v.v. Các tổ chức này có bổn phận tham gia
đóng góp vào các quỹ, thu gom tiền đóng vào quỹ thất nghiệp của lao động và nộp và báo cáo
cho các quỹ bảo hiểm thất nghiệp của chính phủ trung ương và địa phương. Các báo cáo chính
xác sẽ giúp người bị mất việc được hưởng tiền thất nghiệp xứng đáng với sức lao động và sự
đóng góp của họ và giúp tránh việc trả tiền thất nghiệp sai sót và lạm dụng BHTN của các thành
phần không đóng góp khác.
KẾT LUẬN

Qua phần trình bày của nhóm chúng tôi về thực trạng và giải pháp của bảo hiểm thất nghiệp hi
vọng đã phản ánh được một phần nào về các khía cạnh của bảo hiểm thất nghiệp khi áp dụng vào
thực tế, để từ đó chúng ta có cái nhìn khách quan hơn về Bảo hiểm thất nghiệp, đặc biệt là tại các
nước đang phát triển như Việt Nam. Bảo hiểm thất nghiệp thật sự trở thành công cụ đắc lực
trong tay nhà nước góp phần điều tiết các vấn đề nảy sinh trong xã hội: vấn đề việc làm, thất
nghiệp,… đảm bảo an sinh xã hội, hướng tới một đất nước phát triển toàn vẹn và bền vững về tất
cả mọi mặt, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam.
Bảo hiểm thất nghiệp đã có được những thành tựu nhất định kể từ khi có hiệu lực cho
đến nay, song vẫn mắc phải những trở ngại nhất định. Chính vì điều đó, nhà nước ta cần có
những chính sách đồng bộ, nhất quán, rõ ràng để hướng dẫn nhân dân thực hiện, đạt được sự
đồng thuận từ các cấp chính quyền đến nhân dân, tránh các tình trạng kém hiểu biết của nhân dân
về bảo hiểm thất nghiệp, hay chính sách quá lỏng lẻo, không linh hoạt, quan chức cửa quyền
không giải quyết kip thời cho người lao đông để hướng tới một đời sống xã hội văn minh, tiến bộ
hơn, giúp đất nước ta thoát nghèo khó, hội nhập quốc tế.
9
10

×