Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên của công ty hợp danh nhìn từ góc độ của luật doanh nghiệp việt nam 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.48 KB, 8 trang )

Trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên của Công
ty hợp danh nhìn từ góc độ của Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005
so với những quy định về trách nhiệm tài sản của Công ty hợp danh
và các thành viên của công ty hợp danh theo luật pháp của Pháp
A.Lời Nói Đầu
Công ty là một hiện tượng kinh tế xuất hiện và phát triển trong điều kiện kinh tế, xã hội
nhất định. Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, con người chưa biết đến kinh doanh nên
chưa có công ty. Chỉ đến khi nền sản xuất hàng hóa hình thành và phát triển đến một mức
độ nhất định, công ty mới có thể hình thành và phát triển. Đặc biệt là trong điều kiện nền
kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh diễn ra vô cùng khốc liệt
do tác động mạnh mẽ của quy luật kinh tế khách quan thì người kinh doanh phải tìm đủ mọi
cách để nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm sao cho giá trị hàng hóa cá
biệt của mình phải thấp hơn giá trị hàng hóa của mình phải thấp hơn giá trị hàng hóa hội thì
mới có lãi và mới có thể tồn tại và phát triển. Muốn nâng cao năng xuất lao động và hạ giá
thành sản phẩm thì người kinh doanh cần có nhiều vốn để đầu tư theo chiều sâu như cải
tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất hoặc đầu tư theo chiều rộng bằng cách
mở rộng quy mô kinh doanh, thay đổi mặt hàng hoặc lĩnh vực kinh doanh. Người có ít vốn
sẽ không có khả năng đầu tư, như vậy có thể bị thua trong cuộc cạnh tranh với người nhiều
vốn. Để có thể cạnh tranh người nhiều vốn thì những người có ít vốn buộc phải liên kết với
nhau bằng cách góp vốn để kinh doanh chung. Chính sự liên kết của các nhà kinh doanh
thông qua việc góp vốn để kinh doanhchung đã tạo một hình thức tổ chức kinh doanh mới
đó là công ty.
Có thể nói sự ra đời của công ty là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường. Công
ty xuất hiện đầu tiên ở một số thành phố lớn ở Châu Âu ( cuối thế kỷ XIII). Ban đầu, nó có
hình thức rất đơn giản: những người anh em trong gia đình, bạn bè thân thiết cùng nhau
góp vốn để kinh doanh chung, đó là hình thức của công ty đối nhân. Chúng được thành lập
dựa trên độ tin cậy về nhân thân của các thành viên, việc góp vốn chỉ là thứ yếu. Đây là
hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử kinh doanh của nhân loại. Do vậy khi nghiên
cứu về công ty người ta thường nhắc đến loại hình công ty này trước nhất – Công ty Hợp
danh. Hợp danh theo nghĩa rộng xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Những chỉ dẫn đầu tiên
tới hình thức này là trong Bộ luật Hammurabi của Babylon, khoảng năm 2300 trước Công


nguyên. Người Do Thái, vào khoảng những năm 2000 trước Công nguyên đã hình thành
thuật ngữ shutolin (một dạng hợp danh phi thương mại). Sau này, những hợp danh mang
tính chất thương mại của người Do Thái hình thành từ những đoàn hội buôn.
Ở châu Âu, luật về hợp danh hình thành từ tập quán của các thương nhân. Người Pháp dùng
các thuật ngữ như societas, societe en common dite để chỉ các hình thức hợp danh. Societas
là hình thức hợp danh chỉ bao gồm các thành viên hợp danh, còn societe en common dite
bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
Hợp danh được quy định trong Luật La mã (ví dụ như Bộ luật Justinian) với những điều
khoản rất tương đồng với luật hiện đại. Người La mã cũng hình thành nên những quy định
về đại diện, nền tảng của rất nhiều quy định của luật về hợp danh ngày nay. Ví dụ, Luật La
mã có quy định qui facit per alium facit per se - người thực hiện hành vi thông qua hành vi
của người khác cho bản thân người đó. Luật La mã cũng xác định sự lựa chọn tự nguyện của
những người cộng tác với nhau bản chất của hợp danh, và nguyên tắc được gọi tên delectus
personas - sự lựa chọn của cá nhân, cho đến nay vẫn là thành tố mang tính trung tâm của
luật về hợp danh.
Người phương Đông cũng không xa lạ với phường, hội, cuộc và đủ loại liên kết bạn buôn.
Tuy nhiên mô hình hội người (societas) theo dân luật – thương luật hay mô hình hợp danh
(partnership) theo pháp luật Anh – Mỹ mới chỉ được du nhập trong một, hai thế kỷ trở lại
đây.
Lịch sử phát triển của loại hình công ty này trải qua hàng ngàn năm và xuất hiện ở hầu hầu
hết các quốc gia trên thế giới và có cùng tên gọi là Công ty hợp danh. Tuy nhiên, ở các quốc
gia khác nhau thì loại hình công ty này lại có những đặc điểm riêng do xuất phát từ những
yếu tố đặc thù về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội…của mỗi quốc gia đó.
Do vậy trong phạm vi đề tài này, em xin tìm hiểu về trách nhiệm tài sản của công ty hợp
danh và thành viên của Công ty hợp danh nhìn từ góc độ của Luật doanh nghiệp Việt Nam
2005 so với những quy định về trách nhiệm tài sản của Công ty hợp danh và các thành viên
của công ty hợp danh theo luật pháp của Pháp. Sở dĩ, em chọn pháp luật của Pháp để so
sánh vì trước đây nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, thương mại kém phát triển
vì vậy mà công ty thương mại không có điều kiện để phát triển. Đến cuối thế kỷ XIX nước ta
trỏ thành thuộc địa của Pháp, người Pháp đã áp dụng luật thương mại của họ ở Việt Nam.

Do ảnh hưởng của pháp luật thương mại Pháp, nước ta bắt đầu có các công ty thuơng mại
và các quy định về công ty thương mại. Năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, miền Nam vẫn phát triển nền kinh tế thị trường nên các Công ty thương mại vẫn có
điều kiện để tồn tại và hoạt động. Trong khi dó ở miền Bắc, chúng ta xây dựng nền kinh tế
tập trung và bao cấp nên đã triệt tiêu môi trường tồn tại của Công ty hợp danh. Từ cuối
những năm 80 của thế kỷ XX, khi chúng ta tiến hành chuyển đổi nền kinh tế tập trung, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh phát triển. Ngày
21/12/1990, Quốc Hội đã ban hành Luật công ty cho đến nay, Luật Doanh nghiệp năm 2005
đã quy định chi tiết, cụ thể về các loại hình công ty. Do vậy, cho đến nay, chúng ta đã có
những quy định riêng của mình về vấn đề này song vẫn không thể phủ nhận sự ảnh hưởng
của Luật thương mại Pháp.
B. Nội Dung
Theo quan niệm của các nhà luật học nước ngoài thì Công ty hợp danh là một trong hai loại
hình công ty đối nhân. Đó là công ty mà trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành hoạt
động kinh doanh dưới một hãng chung và cùng nhau chịu trách nhiệm vô hạn về mọi nghĩa
vụ tài chính của công ty. Công ty Hợp danh được hình thành dựa trên độ tin cậy về nhân
thân của các thành viên trong gia đình hay dòng họ, các thành viên rất thân thiết với nhau.
Chỉ có những người thực thực sự tin tưởng nhau mới có thể sống chết có nhau và liên đới
chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty.
Tuy nhiên, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 ở nước ta thì Công ty Hợp danh cần có một số
điểm cần lưu ý. Công ty Hợp danh theo pháp luật Việt Nam được quy định cụ thể tại Điều
130 Luật Doanh nghiệp 2005 được định nghĩa như sau:
1.Công ty Hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
a , Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh
dưới một tên chung( sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có
thể có thành viên góp vốn;
b , Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của mình về
các nghĩa vụ của công ty;
c, Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ cả công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty.

2. Công ty Hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
3. Công ty Hợp danh không được phát hành bất cứ loại chứng khoán nào.
Như vậy, theo quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam thì công ty hợp danh có thể là công
ty chỉ có một loại thành viên, đó là thành viên hợp danh và thành viên hợp danh này phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ chịu trách của công ty và
chịu trách nhiệm liên đới. Bên cạnh đó, công ty hợp danh cũng có hể có hai loại thành viên:
thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới, thành góp vốn chịu trách nhiệm
trong số vốn đã góp vào công ty ( trách nhiệm hữu hạn ). Quan điểm này khác với quan
điểm của các nhà luật học nước ngoài nói chung và quan điểm của các nhà luật học Pháp
nói riêng.
1.Điểm giống nhau giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Pháp về trách nhiệm tài sản của
Công ty hợp danh và thành viên của công ty hợp danh
1.1 Thành viên trong công ty hợp danh
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 thì: “ công ty hợp danh là doanh nghiệp có ít
nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên
chung( thành viên hợp danh ); ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp
vốn.
Như vậy, khi công ty chỉ có hai thành viên hợp danh trở lên mà không có thành viên góp
vốn thì nó giống như Công ty hợp danh của Pháp. Theo pháp luật Pháp công ty hợp
danh( Societe en nom collectif- SNC) thì thành viên công ty thiết phải có tư cách pháp nhân,
những ai không đáp ứng đủ điều kiện trở thành thương nhân thì không thể trở thành viên
của công ty hợp danh. Điều này cũng có nghĩa là trong quy chế thành lập công ty hợp danh
ở cả Luật Doanh nghiệp Việt Nam và Bộ luật Thương mại Pháp đều quy định những điều
kiện để một cá nhân trở thành thành viên của công ty hợp danh.
1.2 Trách nhiệm tài sản của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh
Điểm nổi bật nhất của thành viên công ty hợp danh là trách nhiệm vô hạn vô hạn và liên đới
của họ. Đây là điểm mà Luật Doanh nghiêp 2005 của Việt Nam và Bộ luật Thương mại Pháp
đều ghi nhận.
Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 130 Luật Doanh nghiệp Việt Nam thì: “Thành viên

hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ
của công ty”. Thành viên hợp danh bắt buộc phải có trong công ty hợp danh và phải là cá
nhân. Ngoài những điều kiện chung mà pháp luật quy định đối với thành viên công ty, thành
viên hợp danh phải có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp. Đối với công ty kinh
doanh những ngành nghề mà pháp luật quy định phải có chứng chỉ hành nghề thì tất cả các
thành viên phải có cứng chỉ hành nghề, đối với các công ty kinh doanh các ngành nghề khác
thì các thành viên hợp danh phải là người được đào tạọ về ngành nghề đó.
Đặc biệt, thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn và trách nhiệm liên đới. Điều
này có nghĩa là: Khi tài sản cuả công ty không đủ để thanh toán các khoản nợ và các nghĩa
vụ của công ty thì thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ và các khản
nợ của công ty bằng toàn bộ tài sản của mình ( bao gồm tài sản đầu tư vào kinh doanh và
tài sản dân sự). Chủ nợ có quyền yêu cầu bất kỳ thành viên hợp danh nào thanh toán toàn
bộ các khoản nợ của công ty đối với chủ nợ ( Bộ luật Thương mại Pháp, Điều 221-1). Bộ luật
ương mại Pháp còn quy định: sau 8 ngày kể từ ngày chủ nợ yêu cầu công ty thanh toán nợ
mà công ty vẫn chưa thanh toán thì chủ nợ có quyền yêu cầu các thành viên thanh toán.
Khi các thành viên nhận yêu cầu thanh toán thì không được phép từ chối và cũng không thể
yêu cầu chủ nợ phải yêu cầu công ty cũng như không thể yêu cầu chủ nợ chia yêu cầu đói
nợ cho tất cả các thành viên khác.
Khi các thành viên hợp danh đã thanh toán các khoản nợ của công ty cho chủ nợ thì có
quyền yêu cầu các viên khác thanh toán lại với mình và trong trường này các thành viên
phải hoàn trả số nợ cho người đã thanh toán theo tỷ lệ được quy định trong điều công ty,
nếu trong điều lệ công ty không quy định theo tỷ lệ đóng góp vốn vào điều lệ( Bộ luật Dân
sự Pháp, Điều 1844, Khoản 1 và Bộ luật Dân sự Việt Nam Điều 298, 299). Tuy nhiên đối với
công ty hợp danh thì việc hy động vốn từ các ngân hàng rất dễ dàng do các thành viên chịu
trách nhiệm vô hạn và liên đới nên đây là điều kiện đảm bảo chi việc thanh toán các khoản
nợ của ngân hàng, nên ngân hàng sẽ ít chịu rủi ro hơn nên họ dễ chấp nhận hợp tác hơn.
1.3 Thay đổi thành viên hợp danh trong công ty hợp danh
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 133 Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005: “ Thành viên hợp
danh không được chuyển một phần hoặc toàn bộ cổ phần vốn góp của mình tại công ty cho
người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại”. Điều này

cũng được quy định tại bộ luật thương mại Pháp: “ phần vốn góp không thể chuyển nhượng
được như cổ phần” (Điều 221). Điều đó có nghĩa nó không được phép chuyển nhượng tự do
mà phải theo Điều lệ công ty hoặc theo quy định của pháp luật. Tại Điều 221- 16 Bộ luật
thương mại Pháp còn quy định rằng: “ khi một trong số các thành viên bị chết, bị phá sản
hay bị cấm thực hiện một hoạt động thương mại, công ty sẽ tự động giải thể, trừ khi Điều lệ
công ty có quy định khác”. Việc một thành viien cũ ra khỏi công ty hay một thành viên mới
vào công ty cũng đòi hỏi phải có sự nhất trí của tất cả các thành viên ( Điều 221- 13 Bộ luật
thương mại Pháp).
1.4 Trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh
Cũng như bộ luật thương mại Pháp, công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam là loại hình
công ty đối nhân. Nó được hình thành dựa trên độ tin cậy về nhân thân và các thành viên
phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các khoản nợ của công ty.
Trước đây, ở nước ta theo Luật doanh nghiệp năm 1999, không thừa nhận tư cách pháp
nhân của công ty hợp danh vì cho rằng công ty hợp danh có thành viên hợp danh- thành
viên chịu trách nhiệm vô hạn, do vậy tài sản của công ty và tài sản của thành viên hợp danh
không tách bạch. Mà theo quy định tại Điều 84 Bộ luât dân sự 2005, pháp nhân là một tổ
chức có đầy đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp.
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó’
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một các độc lập.
Tuy nhiên đến Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã trao cho công ty hợp danh tư cách pháp
nhân giống như Bộ luật thương mại Pháp. Các nhà làm luật cho rằng, việc công ty hơp danh
hoạt động dựa trên danh dự, uy tín của công ty, của các mối liên hệ mật thiết giữa các
thành viên của công ty hợp danh đã đảm bảo cho tư cách pháp nhân của công ty.
2.Điểm khác nhau về trách nhiệm tài sản và thành viên hợp danh trong quy định của pháp
luật Việt Nam và pháp luật của Pháp.
2.1 Thành phần thành viên trong công ty hợp danh
Như đã nêu ở trên, theo Luật doanh nghiệp 2005 thì công ty hợp danh phải có hai thành
viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. Như vậy nếu trong công ty có cả thành viên

góp vốn thì công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam có điểm khác so với quy định của
pháp luật Pháp.
Trong tiếng anh công ty hợp danh còn được gọi là “ general partnership” hay “ simply
partnership” . Sở dĩ phải phân biệt điều này vì công ty hợp danh theom quy định của Luật
Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 nếu Công ty Hợp danh có hai thành viên hợp danh trở lên
mà không có thành viên góp vốn thì nó trở thành Công ty Hợp danh đúng như bản chất của
nó- đó là sự liên kết giữa các thương nhân đơn lẻ để kinh doanh dưới một tên chung và
thành viên hợpdanh phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. Tuy nhiên theo quy định của
Luật Doanh nghiệp 2005 thì ngoài hai thành viên này, công ty hợp danh có thể có thành
viên góp vốn, hai loại hình thành viên này có chế độ chịu trách nhiệm khác nhau về tài sản.
Thành viên hợp danh thì chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới, thành viên góp vốn chịu trách
nhiệm hữu hạn trong số vốn góp vào công ty. Như vậy chế độ chịu trách nhiệm về tài sản
của thành viên góp vốn của công ty hợp danh giống như chế độ chịu trách nhiệm của thành
viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong các quy định của pháp luật Pháp về công ty
hợp danh không có quy đinh này, mà mô hình công ty có một thành viên hợp danh trở lên
kết hợp với thành viên góp vốn là mô hình công ty hợp vốn đơn giản. Loại hình công ty này
của Pháp có nhiều khía cạnh giống như công ty hợp vốn cổ phần của Việt Nam, nhưng vốn
của nó không được đại diện bởi những chứng khoán có thể chuyển nhượng thông thường.
Đây là những công ty ra đời trên cơ sở chuyển đổi từ công ty hợp danh để có thể kết nạp
người thừa kế hợp pháp của thành viên hợp danh đã chết làm thành viên hợp vốn do người
thừa kế này chưa thành niên( không có tư cách thương nhân nên không thể trở thành thành
viên hợp danh).
2.2 Tiếp nhận thành viên hợp danh
Theo Điều 139 Luật Doanh nghiêp 2005 thì: “ công ty hợp danh có thể tiếp nhận thêm
thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn, việc tiếp nhận thành viên mới của công ty
phải được Hội đồng thành viên chấp thuận”. Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra trong thực tế:
Trong trường hợp công ty có hai thành viên hợp danh, không may vì một lý do nào đó mà
một thành viên hợp danh chết đi, phần vốn của thành viên này sẽ trở thành di sản thừa kế.
Nếu như người con của thành viên hợp danh chính là người thừa kế hợp pháp và muốn tham
gia vào công ty nhưng thành viên còn lại không muốn bất kỳ ai tham gia vào công ty vì

những lý do khác nhau( như không tin tưởng, không muốn chia sẻ cơ hội kinh doanh…) vì
quyền lợi của thành viên này và thành viên đã chết là như nhau. Như vậy sẽ có các trường
hợp sau có thể xảy ra:
TH1: Người con của thành viên đã chết rút vốn khỏi công ty. Điều này trái với ý chí của
người naỳ và lúc này công ty hợp danh chỉ còn lại duy nhất một thành viên hợp danh.Vậy
theo quy định cuả Luật doanh nghiêp thì đây không còn là công ty hợp danh nữa.
TH2: Công ty chuyển đổi thành công ty tách nhiệm hữu hạn. Điều này trái với ý chí và
nguyện vọng của thành viên hợp danh còn lại. Hơn nữa, pháp luật không dự liệu trường hợp
chuyển đổi hình hức công ty đối nhân và hình thức công ty đối vốn.
TH3: Người con này thay thế vị trí của người cha trong công ty. Điều này không phù hợp với
mong muốn của thành viên hợp danh còn lại trong công ty và nó mâu thuẫn với bản chất
của công ty hợp danhlà tin tưởng lẫn nhau, nhằm hướng tới thân thân cuả các thành viên.
TH4: Công ty kết nạp thêm thành viên hợp danh. Điều này trái với mong muốn của thành
viên hợp danh còn lại.
TH5: Công ty bị giải thể, trường hợp này chống lại lợi ích của cộng đồng vì công ty đang
phát triển, có nhiều đống góp cho cộng đồng, đồng thời thành viên còn lại mất cơ hội kinh
doanh và nếu thành lập công ty mới thì phải mất chi phí lớn hơn cho việc tạo dựng lại công
ty.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam quy định công ty hợp danh bao gồm cả thành viên hợp
danh và thành viên góp vốn sẽ gây khó khăn cho việc xử lý những tình huống có thể xảy ra
trong thực tế, nhiều khi cản trở sự phát triển của xã hội. Do vậy mô hình công ty hợp danh
của Pháp( chỉ bao gồm thành viên hợp danh ) chiếm ưu thế hơn mô hình công ty hợp danh
ở nước ta. Luật thương mại Pháp cũng quy định về một loại hình công ty bao gồm thành
viên hợp danh và thành viên góp vốn- công ty hợp vốn đơn giản, tách bạch giữa hai loại
hình công ty. Nếu theo pháp luật Việt Nam, hai loại hình công ty này được quy định gộp lại
trong quy định về công ty hợp danh nên dẫn tới nhiều trường hợp khó giải quyết trên thực
tế. Đồng thời, nhìn từ khía cạnh bản chất của công ty hợp danh là sự tin tưởng lẫn nhau
giữa các thành viên là không đầy đủ. Như ta đã biết, thành viên góp vốn chịu trách nhiệm
hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp của mình trong công ty. Vậy trong công ty khi đã có
hai loại thành viên,thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn và thành viên chịu trách nhiệm vô

hạn thì có thể cùng nhau xây dựng công ty ở một mức độ như nhau được không? Điều này
không thể xảy ra vì theo quy định của pháp luật và thực tế, thành viên hợp danh quyết định
mọi vấn đề của công ty, thành viên góp vốn chỉ đơn thuần góp vốn mà thôi. Đồng thời
quyền lợi của thành viên góp vốn trong công ty cũng bị hạn chế do trách nhiệm mà họ chịu
là hữu hạn.
Hơn nữa, một trong những lợi thế của công ty hợp danh là các thành viên chịu trách nhiệm
hữu hạn và liên đới. Đây là điều mà khách hàng hướng tới khi đặt quan hệ làm ăn với công
ty hợp danh. Theo quy định của pháp luật thì: “ các thành viên hợp danh có quyền đại diện
theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động cuả công ty hợp danh”.
Như vậy, cùng một vấn đề nhưng cách nhìn nhận và xử lý vấn đề của pháp luật mỗi quốc
gia là khác nhau. Khi so sánh một số vấn đề của công ty Hợp danh giữa Luật thương mại
Việt Nam và Bộ luật Thương mại Pháp ta mới thấy được điểm tiến bộ và hạn chế của trong
các quy định của Luật thương mại Việt Nam về công ty Hợp danh.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về công ty hợp danh
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định khá cụ thể, rõ ràng mọi vấn đề về thành lập công
ty đến cơ cấu tổ chức, điều hành công ty, quyền và nghĩa vụ từng loại thành viên công
ty. . . . Đây được coi là một điểm tiến bộ của Luật doanh nghiệp 2005, từ đó tạo thuận lợi
cho việc tìm hiểu, nghiên cứu và giảm bớt những mâu thuẫn phát sinh trong việc hướng dẫn
và thi hành luật. Mặc dù vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự phát triển và vị thế
của từng loại hình công ty ở Việt Nam ngày càng thể hiện rõ nét và trên thực tế số lượng
công ty hợp danh là rất ít so với các loại hình công ty khác, điều này xuất phát từ nguyên
nhân khác nhau. Trước hết là do quy định của pháp luật có một số bất cập chưa phù hợp với
thực tiễn, sau đây em xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất: Luật Doanh nghiệp nên phân chia rõ hai loại hình công ty hợp danh. Bởi với việc
quy định “hai trong một” như hiện nay dễ dẫn đến một điều không hợp lí là: cùng là công ty
hợp danh nhưng lại có công ty hợp danh chỉ có một loại thành viên chịu trách nhiệm vô hạn
và có công ty hợp danh lại có hai loại thành viên: thành viên chịu trách nhiệm vô hạn và
thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn. Mặt khác, nếu trong công ty hợp danh vừa có thành
viên chịu trách nhiệm vô hạn và thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn thì khách hàng phải
biết rõ thành viên nào chịu trách nhiệm hữu hạn, thành viên nào chịu trách nhiệm vô hạn

để giao dịch và đòi nợ. Điều này rất khó được thực hiện bởi thực tế thành viên trong công ty
hợp danh chỉ được quy định trong Điều lệ công ty, khách hàng khó có thể nhận biết hết
được thành viên trong công ty hợp danh.
Thứ hai: Quy định cụ thể hơn quyền của thành viên góp vốn trong việc quyết định một số
vấn đề quan trọng. Bởi thực tế, mặc dù luật có quy định thành viên góp vốn là thành viên
trong Hội đồng thành viên – cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Tuy nhiên, vai trò
của thành viên góp vốn trong việc quản lí công ty là rất hạn chế và quá mờ nhạt, cơ bản
vẫn là thành viên hợp danh.
C. Kết Luận
Mặc dù đã có những quy định pháp lý mang tính cởi mở hơn về công ty Hợp danh nhưng
hiện nay công ty hợp danh vẫn chưa khẳng định được vị trí so với các công ty khác. Thực tế
này trước hết xuất phát từ việc quy định của pháp luật doanh nghiệp về loại hình này cũng
chưa thực sự bao quát hết xu hướng vận động và phát triển của nó. Do đó, việc hoàn thiện
các quy định của pháp luật cho công ty hợp danh là một vấn đề cơ bản và cần thiết nhằm
tạo lập một môi trường kinh doanh ổn định, đặc biệt là môi trường pháp lí cho hoạt động
của loại hình doanh nghiệp này. Sự phát triển của công ty hợp danh sẽ góp phần đa dạng
hóa mô hình kinh tế, mở rộng khả năng đầu tư, kích thích mọi thành phần kinh tế tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
D. Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo
1. Giáo trình luật thương mại, tập 1 ( Nxb Công an nhân dân - 2009)
2. Luật doanh nghiệp năm 2005
3. Trang Thông tin pháp luật Dân sự

×