Phần mở đầu
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mô hình kinh tế tập trung quan niêu, bao cấp
bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả tập trung là cuộc
cách mạng kinh tế-xã hội sâu sắc vào cuối những năm 1970 đầu những năm
1980.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ năm của Đảng cộng sản Việt Nam
đã đánh giá tình hình đất nớc, đặc iệt là trong lĩnh vực kinh tế ,luôn luôn ở
tình trạng trì trệ , chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn,
tình hình trì trệ ấy có nguyên nhân khách quan khách quan nh nền kinh tế
đang gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài, viện
trợ từ bên ngoài giảm so với thời kỳ trong chiến tranh nhng nguyên nhân chủ
yếu làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội vẫn là mô
hình kinh tế không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Chính những
khó khăn của đất nớc buộc Đảng ta phải suy nghĩ, phân tích tình hình nguyên
nhân , tìm tòi các giải pháp , trong đó Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết của
nền kinh tế nhiều thành phần, đây là mô hình kinh tế đợc xây dựng trên cơ sở
tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở nớc ta, vận dụng một cách sáng tạo
những quan điểm của Lênin về chính sách kinh tế mới vào điều kiện lịch
sử ở nớc ta và thế giới ngày nay, đặc biệt là từ khi Liên Xô và các nớc XHCN
ở Đông âu sụp đổ.
Thực hiện mô hình kinh tế mới nhằm mục tiêu căn bản cấp thiết là
tăng nhanh lực lợng sản xuất , từng bớc cải thiện đời sống nhân dân, tạo cơ sở
vật chất và xã hội cho việc từng bớc hoá nền sản xã hội.
Chính trong sự cấp thiết về tầm quan trọng của vấn đề cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần ở nớc ta mà em đã chọn đề tài Phân tích cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần ở nớc ta mà đại hội Đảng IX đã nêu và ích lợi của việc sử
dụng nó vào việc phát triển KT-XH ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam.
Em hi vọng bài viết của em sẽ nhận đợc sự đánh giá và góp ý của thầy
để đề án đợc hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Nội dung
I. Cơ sở khách quan của việc tồn tại kinh tế nhiều thành phần và các
thành phần kinh tế tồn tại ở nớc ta mà đại hội Đảng IX đã nêu trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
I.1 Quan điểm của Lênin:
Kế thừa những luận điểm của C.Mac và Ph.Ănghen, VI.Lênin đa ra
nhiều luận điểm quan trọng về đặc điểm của thời kỳ quá độ. Có thể nêu thành
bốn đặc điểm chung nh sau:
Thứ nhất, thời kỳ quá độ là thời kỳ xét trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội , dều do thành phần không thuần nhất cấu tạo nên. Đó là thời kỳ có sự
đan xen , thâm nhập vào nhau giữa CNTB va CNXH, đúng nh VI.Lênin đã
viết Ngày nay, chúng ta không thể không đặt vấn đề CNTB nhà nớc và
CNXH, vấn đề chúng ta cần có thái độ nh thế nào trong thời kỳ quá độ; trong
thời kỳ này... một mẩu nhỏ CNTB và một mẩu nhỏ CNXH tồn tại cạnh
nhau.
Thứ hai, đó là thời kỳ, sự phát triển của cái cũ , của những trật tự cũ
đôi khi lấn át những mầm mống của cái mới. Lênin cho rằng, những mảnh
vụn của trật tự cũ đôi khi chất đống lại một cách nhanh chóng, trong khi đó
những mầm mống của cái mới đôi khi lại phát triển chậm chạp và không phải
bao giờ cũng thấy rõ ngay đợc.
Thứ ba, đó là thời kỳ xét về mọi phơng diện, đều có sự phát triển của
tính tự phát tiểu t sản , là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hoà
đợc giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản và tính vô chính phủ,
vô kỷ luật của tầng lớp tiểu t sản.
Lênin cho rằng , tính tự phát tiểu t sản là kẻ thù giấu mặt hết sức nguy
hiểm và còn nguy hiểm hơn bọn phản cách mạng công khai. Mâu thuẫn giữa
tính tự phát tiểu t sản và tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản là một
trong những đặc điểm nổi bật của giai doạn đặc biệt , giai đoạn quá độ.
Thứ t, đó là thời kỳ lâu dài, có rất nhiều khó khăn phức tạp , phải trải
qua nhiều lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những hớng đi đúng
đắn; và trong quá trình thử nghiệm ấy , nói nh C. Mac, có thể phải trả giá cho
những sai lầm trầm trọng. Lênin đã nhận thức đợc điều đó khi ông viết: Còn
chúng ta thì biết rằng việc chuyển từ CNTB lên CNXH là cuộc đấu tranh vô
cùng khó khăn. Nhng chúng ta sẵn sàng chịu hàng nghìn khó khăn, thực hiện
hàng nghìn lần thử, và khi chúng ta đã thực hiện đợc hàng nghìn lần thử rồi,
thì chúng ta sẽ giữ cái lần thứ một nghìn lẻ một.
VI.Lênin còn nhận thấy những nớc có nền kinh tế lạc hậu, chẳng hạn
nh nớc Nga có nền kinh tế tiểu nông, khi quá độ lên CNXH càng gặp nhiều
khó khăn, phức tạp, càng phải trải qua nhiều bớc quá độ , nhiều bớc thử
nghiệm. Ông nhắc lại nhiều lần quan điểm này vào những năm năm 1918-
1921. Chẳng hạn, tháng 10-1921, Lênin đã nói: Kể từ năm 1917, khi nhiệm
vụ nắm chính quyền đợc đề ra và đợc những ngời bạn Bôn-sê-vích nói rõ cho
toàn thể nhân dân biết , thì các tác phẩm lý luận của ta đã nhấn mạnh một
cách rõ ràng rằng: Tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ
XHTBCN (xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài)... tiến lên xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
* Đặc điểm kinh tế -xã hội:
Những năm sau cách mạng tháng Mời (trớc chính sách kinh tế mới)
VI. Lênin có nhiều luận điểm về sự không thuần nhất, sự đan xen giữa CNTB
và CNXH trong thời kỳ quá độ . Đặc điểm đó đợc biểu hiện trong tất cả các
lĩnh vực của cuộc sống xã hội, nhng rõ nét nhất là trong lĩnh vực kinh tế. VI
Lênin đã định nghĩa danh từ thời kỳ quá độ trong lĩnh vực kinh tế : Vậy
danh từ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế có nghĩa là trong chế độ hiện
nay có những thành phần , những bộ phận, những mảnh của cả CNTB lẫn
CNXH không ? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi ngời
thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu KT-XH
khác nhau hiện có ở Nga, chính là ntn. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại
chính là ở chỗ đó.
Nh vậy, trớc khi có chính sách kinh tế mới, Lênin mới chỉ vạch ra
những nét đại thể của thành phần kinh tế phi XHCN , đó là tính tự phát của
ngời tiểu t hữu; là sự phản kháng ngoan cố của CNTB dới nhiều hình thức.
Nhng ngay sau khi có chính sách kinh tế mới, cả trong lý luận cũng nh trong
thực tiễn, Lênin lại thừa nhận có 5 thành phần kinh tế đồng thời tồn tại trong
thời kỳ quá độ. Các thành phần kinh tế hoàn toàn mới so với trớc là thành
phần kinh tế t bản và thành phần CNTBNN. Lênin đã xếp thứ tự 3 thành phần
kinh tế thứ tự nh sau: Thứ nhất, kinh tế t gia trởng; thứ hai, kinh tế hàng hoá
nhỏ; thứ ba, kinh tế t bản; thứ t, kinh tế nhà nớc TBCN; và thứ năm, kinh tế
XHCN.
Nh vậy Lênin đã có sự thay đổi trong việc nhìn nhận về những đặc
điểm kinh tế của thời kỳ quá độ. Nừu nh những năm đầu sau khi mới giành
đợc chính quyền , ông cho rằng sự tồn tại của các thành phần kinh tế phi
XHCN là bất đắc dĩ, là những ái chống lại XHCN là phải đấu tranh xoá bỏ
chúng, thì đến năm 1921, sau khi đa ra chính sách kinh tế mới. Lênin nhận
thấy sự tồn tại 5 thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là tất yếu, là hợp qui
luật; chúng cần tồn tại trong một thời gian cần thiết.
I.2 Quan điểm của Đảng ta.
*Thời kỳ 1976-1986.
Đây là thời kỳ đất nớc ta quá độ nên CNXH trong tình hình đất nớc
chịu những đảo lộn kinh tế và xã hội với quy mô lớn sau cuộc chiến tranh
lâu dài , diễn biến trong tình hình thế giới có những mặt không thuận lợi .
Đây là thời kỳ mô hình kinh tế tập trung quan liêu , bao cấp , bộc lộ một
cách toàn diện mặt tiêu cực của nó ,là kết quả tập trung là cuộc cách mạng
KTXH sâu sắc vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của đảng cộng sản Việt Nam đã đánh
giá tình hình đất nớc từ những năm 1975-1980 là thời kỳ nền kinh tế ở trạng
thái trì trệ, trên mặt trận kinh tế , đất nớc ta đứng trớc nhiều vấn đề gay gắt ,
kết quả thực hiện khoa học kỹ thuật 5 năm (1976-1980) cha thu hẹp đợc
những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát
triển chận trong khi dân số tăng nhanh, thu thập quốc dân cha bảo đảm đợc
tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng XH dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế
cha tạo đợc tích luỹ lơng thực , vai trò của các hàng tiêu dùng thiết yếu còn
thiếu , tình hình cung ứng vật t,giao thông vận tải rất căng thẳng ,chênh lệch
lớn giữa thu và tri tài chính, giữa hàng và tiền , giữa xuất khẩu và nhập
khẩu.Thị trờng và vật giá không ổn định, số ngời lao động cha đợc sử dụng
còn đông, đời sống nhân dân còn rất nhiều khó khăn.
Chính những khó khăn của đất nớc buộc Đảng ta phải suy nghĩ phân
tích, tình hình và nguyên nhân , tìm tòi các giải pháp , từ đó đổi mới các cơ
sở điạ phơng, đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần
nh: Khẳng định sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở miền Nam
trong một thời gian nhất định, cải cách một phần mô hình hợp tác xã qua chỉ
thị khoán sản phẩm đến nhóm và ngời lao động trong hợp tác xã cải tiến công
tác khoa học hoá và hạch toán kinh tế ở các xí nghiệp quốc doanh nhằm phát
huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của
doanh nghiệp...
Tóm lại, đã có những quan niệm chủ trơng ban đầu đổi mới mô hình
hình kinh tế cũ theo t tởng: Làm cho sản xuất bung ra nghĩa là đổi mới
hình thức quan hệ sản xuất để giải phóng lực lợng sản xuất và phát triển lực l-
ợng sản xuất.
Điều đáng ghi nhận nhất là ở thời kỳ này là t tởng mới từng bớc đợc
hình thành và phát triển. Biểu hiện chủ yếu ở nghị quyết hội nghị lần thứ 6
của ban chấp hành trung ơng khoá IV. Đến đây mô hình quan niệm cốt lõi
của nền kinh tế mới về cơ bản đã đợc hình thành . Sự phát triển tiên tiên này
đã dẫn đến những bớc nhảy vọt trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 về
mô hình kinh tế mới.
Đó là thời kỳ đổi mới toàn diện nền kinh tế thông qua những nghị
quyết của đại biểu toàn quốc lần thứ 6,7,8 . Mô hình từ cũ bị xoá bỏ , mô
hình kinh tế mới đợc xây dựng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan và
trình độ phát triển của nền kinh tế .
Thời kỳ này đã diễn ra sự biến đổi trong mô hình kinh tế , từ mô hình
gián tiếp tiến lên XHCN . Thực hiện mô hình kinh tế nhằm mục tiêu căn
bản , cấp thiết là giải pháp tăng nhanh lực lợng sản xuất , từng bớc cải thiện
đời sống nhân dân, tạo cơ sở vật chất và xã hội cho XHH từng bớc nền
SXHH.
Từ những phơng hớng chủ yếu của cuộc đổi mới đã đợc đại hội VI của
Đảng đề ra đến chủ trơng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trồng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng
XHCN . Đợc đại hội VI quyết định và dợc đại hội Đảng IX phát triển theo
chủ trơng xây dựng và phát triển nền kinh tế chính trị định hớng XHCN là
những bớc tiến quan trọng trong quá trình tổng kết thực tiễn cách mạng ,đổi
mới t duy kinh tế, vợt qua những quan niệm sơ cứng về mô hình phát triển
KT-XH và con đờng đi lên CNXH.
Trong đờng lối chiến lợc của Đảng ta, t tởng đại đoàn kết toàn dân và
phát huy dân chủ đợc thể hiện rất rõ ràng. Đại hội IX xác định phát huy sức
mạnh của cả cộng đồng dân tộc, tinh thần yêu nớc , tự lực tự cờng tự hào dân
tộc, mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất dân giàu nớc mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh và tôn trọng những khác nhau không trái với lợi ích
chung của dân tộc,xoá bỏ mặc cảm định kiến,phân biệt đối xử về vị thế giai
cấp, thành phần xây dựng tình hình cởi mở, tin cậy về nhau hớng tới tơng
lai.
Phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN, mục tiêu đến năm
2010, hình thành về cơ bản và tiến hành thông suốt theo cơ chế thị trờng, là
chính sách nhất quán, lâu dài nhằm thực hiện đại đoàn kết toàn dân và phát
huy dân chủ trong đời sống kinh tế.
Đại hội Đảng IX của Đảng đã nhấn mạnh : Động lực chủ yếu để phát
triển đất nớc là đại đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế cũng là phát huy
khả năng của mọi ngời dân, mọi thành phần kinh tế ... đều là bộ bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN... trên đất nớc
ta. Chính sách này thể hiện một nhận thức mới, phù hợp với thực tế là mặc
dầu có nhiều hình thc sở hữu về t liệu sản xuất , nhiều thành phần kinh tế, có
nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội, nhng mối quan hệ giữa các giai cấp, các
tầng lớp xã hội là hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộn nhân dân, đoàn kết
và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dới sự lãnh đạo
của Đảng . Thực tế vừa qua rằng, chúng ta đã bớc đầu phát huy đợc sức
mạnh của sự thống nhất trong tính đa dạng của nền kinh tế, nhiều thành phần
kinh tế thực sự đã là cơ sở tốt cho đại đoàn kết toàn dân.
Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định, trong nền kinh tế nhiều thành
phần, kinh tế nhà nớc vẫn giữ vai trò chủ đạo,bảo đảm cho toàn bộ nền kinh
tế quốc dân phát triển ổn định và bền vững theo định hớng XHCN. Dẫu rằng
kinh tế nhà nớc đang còn một số mặt yếu kém nhng trên thực tế, đã nắm
những cân đối lớn của nền kinh tế và đang giữ vai trò chủ đạo .Trong mấy
năm tới chúng ta tiếp tục đẩy nhanh quá trình đổi mới để nâng cao hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp nhà nớc, trên cơ sở đó kinh tế nhà nớc làm
tốt hơn vai trò chủ đạo của mình. Hội nghị lần thứ III của ban chấp hành
trung ơng Đảng ( Khoá IX) .Đã có những quyết định quan trọng về vấn đề
này, yêu cầu các cấp các ngành phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc để
tạo ra một bớc chuyển biến cơ bản trong những năm tới.
Kinh tế nhà nớc nắm giữ vai trò chủ đạo chính là để phát huy khả năng
của kinh tế nhà nớc và phát huy khả năng các thành phần kinh tế khác. Đảng
và nhà nớc ta đã xác định rõ: Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở
hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều đợc khuyến khích phát triển lâu
dàI, hợp tác, cạnh tranh, bình đẳng.., xin đợc nhấn mạnh thêm bình đẳng là
bình đẳng trớc pháp luật , đờng lối của Đảng phải đợc thể chế hoá thành
pháp luật các cơ quan nhà nớc và mọi ngời dân mọi doanh nghiệp , thuộc mọi
thành phần kinh tế đều phải nghiêm chỉnh chấp hành ,với ý nghĩa đó thành
phần kinh tế nhà nớc là hạt nhân của quan hệ .Sản xuất mới là một lực lợng
kinh tế ,là một công cụ có sức mạnh vật chất để nhà nớc Việt Nam thực hiện
vai trò đIều tiết , hớng dẫn nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đúng định
hớng XHCN.
Sau hơn mời năm đổi mới, cùng với việc phát triển các lĩnh vực khác ,
việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã đi vào thực tiễn góp
phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế trong bối cảnh tình hình quốc tế
không thuận lợi và tình hình trong nớc còn nhiều khó khăn, thực tiễn đã nhắc
nhở chúng ta thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thầnh phần , coi
đó là con đờng tất yếu quá độ lên XHCN, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
II.Vấn đề sử dụng các thành phần kinh tế ở n ớc ta :
2.1.Sự cần thiết phải sử dụng các thành phần kinh tế ở nớc ta :
Trong thời kỳ quá độ lên XHCN ở Việt Nam , sự tồn tại của sản xuất
hàng hoá là một tất yếu khách quan, bởi vì nớc ta có lực lợng sản xuất còn rất
thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động
xã hội gắn với nhiều chủ thể sở hữu khác nhau nh các thực thể kinh tế độc lập
. Trong những đIều kiện đó , việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất
với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc nào khác là nguyên tắc trao đổi
ngang giá , tức là trao đổi hàng hoá thông qua thị trờng , sản phẩm phải trở
thành hàng hoá .
ở nớc ta trong thời kỳ quá độ , muốn phát triển mạnh mẽ lực lợng sản
xuất thì phải xã hội hoá và chuyên môn hoá lao động. Quá trình ấy chỉ có thể
diễn ra một cách thuận lợi trong nền kinh tế hàng hoá . Sản xuất càng xã hội
hoá, chuyên môn hoá , thì càng đòi hỏi phát triển sự hiệp tác và trao đổi hoạt
động trong xã hội, càng phải thông qua sự trao đổi hàng hoá giữa các đơn vị
sản xuất để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động sản xuất
khác nhau. Chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hoá mới làm cho nền kinh tế nớc
ta phát triển năng động. Kinh tế tự nhiên , do bản chất của nó chỉ duy trì tái
sản xuất giản đơn. Trong cơ chế kinh tế cũ , vì coi thờng quy luật kinh tế giá
trị nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phát triển sản
xuất . Sử dụng sản xuất hàng hoá là sử dụng quy luật giá trị , quy luật này
buộc mỗi ngời sản xuất phải tự chịu trách nhiệm về hàng hoá do mình làm
ra . Chính vì thế mà nền kinh tế trở nên sống động . Mỗi ngừời sản xuất đều
chịu sức ép buộc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị trờng sao cho sản
phẩm của mình đợc xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mới có đợc thu nhập.
Phát triển sản xuất hàng hoá là sự phát triển của lực lợng sản xuất xã
hội , cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu
cầu đa dạng của mọi ngời. Ơ nông thôn nớc ta , sự phát triển kinh tế hàng hoá
và việc tăng tỷ lệ hàng hoá nông sản đã làm cho hàng hoá bán ra của nông
dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đồng thời các ngành nghề của nông thôn
cũng ngày một phát triển , tạo cho nông dân nhiều việc làm . Đó cũng là đIều
đã diễn ra ở thành phố, đối với những ngời lao động thành thị.
Phát triển hàng hoá có thể đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lý và
lao động. Muốn thu đợc lợi nhuận , họ cần phải vận dụng nhiều biện pháp để
quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ KT hạ giá thành sản phẩm làm cho sản xuất
phù hợp với nhu cầu của thị trờng , nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế . Qua
các cuộc cạnh tranh trên thị trờng những nhân tài quản lý kinh tế và lao động
thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu quan trong của
tiến bộ KT.