Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành phố Hà Nội hiện nay (toàn văn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.3 KB, 147 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở
các làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành
phố Hà Nội hiện nay là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các trích dẫn, số liệu
và kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2014
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Lan Hương
1
MỤC LỤC
Lời cam đoan 1
Mục lục 2
Danh mục các chữ viết tắt 3
Danh mục các bảng biểu trong luận án 4
MỞ ĐẦU 5
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CHÂU THỔ
BẮC BỘ VÀ Ở CÁC LÀNG BỐI KHÊ, VŨ LĂNG (THÀNH PHỐ
HÀ NỘI)
1.1. Nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ 27
1.2. Nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng 40
Tiểu kết 62
Chương 2: NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CÁC LÀNG BỐI KHÊ VÀ VŨ
LĂNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA HIỆN NAY
2.1. Những tác nhân chủ yếu của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống 64
2.2. Những biểu hiện cụ thể của quá trình biến đổi của nghề sơn truyền thống 68
2.3. Hệ quả của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống 87
Tiểu kết 99
Chương 3: VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CÁC
LÀNG BỐI KHÊ, VŨ LĂNG VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA
LUẬN ÁN


3.1.Định hướng phát triển nghề sơn truyền thống ở hai làng
Bối Khê và Vũ Lăng 101
3.2. Một vài biện luận về tính mới của luận án 126
Tiểu kết 130
KẾT LUẬN 132
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 136
TÀI LIỆU THAM KHẢO 137
PHỤ LỤC 148
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
1. A. : Ảnh
2.
HTX
: Hợp tác xã
3.
NCS
: Nghiên cứu sinh
4.
Nxb
: Nhà xuất bản
5.
PL
: Phụ lục
6.
STT
: Số thứ tự
7.
TLTK
: Tài liệu tham khảo
8.

Tp.
: Thành phố
9. Tr. : Trang
10. TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
11. UBND : Ủy ban nhân dân
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN ÁN
Bảng 1: Tổng thu nhập từ các ngành nghề của làng Bối Khê trong 5 năm
gần đây 61
Bảng 2: Tổng thu nhập từ các ngành nghề của làng Vũ Lăng trong 5 năm
gần đây 61
Bảng 3: Số lượng các cơ sở sản xuất ở làng nghề Bối Khê trong 5 năm
gần đây 79
Bảng 4: Số lượng các cơ sở sản xuất ở làng nghề Vũ Lăng trong 5 năm
gần đây 79
Bảng 5: Số lượng lao động tại làng nghề Bối Khê trong 5 năm
gần đây 81
Bảng 6: Số lượng lao động tại làng nghề Vũ Lăng trong 5 năm
gần đây 81
Bảng 7: Số lượng lao động từ nơi khác đến làm nghề sơn tại làng nghề Bối Khê
trong 5 năm gần đây 82
Bảng 8: Số lượng lao động từ nơi khác đến làm nghề sơn tại làng nghề Vũ Lăng
trong 5 năm gần đây 82
Bảng 9: Số hộ nghèo của làng nghề Bối Khê 86
Bảng 10: Số hộ nghèo của làng nghề Vũ Lăng 86
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và quá trình toàn cầu hoá đang tác
động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia, dân tộc, hơn lúc nào hết, việc giữ gìn và phát

huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc, trong đó có các nghề thủ công truyền thống
đang được đặt ra một cách bức thiết, bởi nó có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển bền vững của đất nước. Nghề thủ công truyền thống hiện được coi là một trong
7 lĩnh vực của di sản văn hóa phi vật thể góp phần thể hiện bản sắc cũng như đặc
trưng diện mạo nông thôn và nhiều đô thị ở Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã bước sang giai đoạn mới: giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những nội dung trọng tâm của quá trình
này là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, trong đó việc khôi
phục, phát triển nghề và làng nghề thủ công truyền thống có vai trò hết sức quan
trọng bởi nó thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn với việc tạo
công ăn việc làm cho lao động, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân,
góp phần phát triển các loại hình du lịch và dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu trong tiến
trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Nghề thủ công truyền thống Việt Nam với 11 nhóm nghề chính như nghề
sơn mài, ngành nghề gốm sứ thủy tinh, nghề thêu ren, nghề dệt, nghề mây tre đan,
nghề cói, nghề giấy thủ công, nghề tranh in khuôn gỗ, nghề chạm khắc đá, nghề gỗ,
nghề kim khí đúc đồng, chạm bạc…[114, tr.9] tạo nên hơn 2000 làng nghề thủ công
(đã được công nhận) phân bố suốt chiều dài đất nước đã và đang là một bộ phận
quan trọng của kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Bằng đôi bàn tay khéo léo, đôi mắt
thẩm mỹ và óc sáng tạo của mình, nghệ nhân ở các ngành nghề thủ công truyền
thống đã chế tác ra nhiều sản phẩm phục vụ cho hoạt động sống của con người,
đồng thời gìn giữ và trao truyền cho các thế hệ mai sau những tinh hoa nghệ thuật,
kỹ thuật dân gian cùng kinh nghiệm sản xuất của cộng đồng làm nghề.
Nằm trong vùng châu thổ Bắc Bộ - vùng đất vốn được coi là cái nôi của
nhiều nghề, làng nghề thủ công, khu vực Hà Nội hiện đang là nơi hội tụ 47 nghề
5
trong tổng số 52 nghề trên toàn quốc [117, tr.15] với 286 làng nghề truyền thống đã
được công nhận [119]. Trong số các nhóm nghề thủ công truyền thống đang hiện
diện trên mảnh đất Thủ đô phải kể tới nghề sơn - một nghề cổ truyền xuất hiện từ
rất sớm trên đất nước ta và đã để lại dấu ấn bản sắc văn hóa Việt Nam đối với thế

giới. Nghề sơn cùng với chất liệu và sản phẩm của nó đã trở thành vốn quý của văn
hóa dân tộc và nhân loại bởi bên cạnh việc góp tiếng nói chung với các nước trên
thế giới ở tính trang trí, tính ứng dụng, phục vụ đời sống sinh hoạt và tín ngưỡng
của con người thì ở Việt Nam, vào những năm 30 của thế kỷ XX, nghệ thuật tranh
sơn mài đã ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển nghề sơn cổ truyền. Có thể nói, đó
là giá trị mới mang tính nghệ thuật với đầy đủ bản sắc dân tộc và thời đại, truyền
thống và hiện đại, làm phong phú hơn ngôn ngữ biểu đạt của sơn ta. Đến thời điểm
này, Hà Nội là nơi tập trung nhiều làng có nghề sơn nhất cả nước với 8 làng nghề
chuyên sâu đang và đã từng hoạt động. Nếu tính cả những làng nghề có sử dụng sơn
ta với ý nghĩa là một chất liệu cần có trong quy trình chế tác sản phẩm thì Hà Nội
hiện có tới gần 40 làng nghề.
Kể từ khi Hà Nội cùng đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới, tốc độ tăng
trưởng kinh tế - xã hội khá mạnh mẽ, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng
ngày càng được mở rộng. Song, quá trình phát triển nhanh chóng này đã tạo đà cho
những biến đổi sâu sắc ở tất cả các lĩnh vực trong đó có sự biến đổi của các ngành
nghề truyền thống như nghề sơn theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Hai
làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), Hà Nội đã có
nghề sơn truyền thống từ lâu đời và sớm khẳng định được vị trí riêng về chất lượng
kỹ thuật và mỹ thuật của các sản phẩm làm ra trong hệ thống các làng nghề sơn ở
châu thổ Bắc Bộ. Nằm ở hai huyện được đánh giá là những khu vực có sự phát triển
kinh tế khá năng động với mật độ làng nghề đông đảo nhất Hà Nội, có thể coi hoạt
động nghề ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng là những trường hợp thể hiện khá rõ nét
xu thế biến đổi nhiều mặt của nghề sơn truyền thống dưới tác động của các điều
kiện chủ quan và khách quan, đã và đang diễn ra rất phổ biến tại các làng nghề trên
địa bàn Thủ đô hiện nay. Sự biến đổi này là tất yếu và cần có để nghề sơn truyền
6
thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng có thể tiếp tục duy trì và phát triển trong bối
cảnh hiện nay. Trước những tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, trong khi nhiều làng nghề sơn truyền thống đã không thể tiếp tục duy trì
nghề như Bình Vọng (Hà Nội), Đình Bảng (Bắc Ninh)…, nghề sơn truyền thống tại

hai làng Bối Khê và Vũ Lăng cho đến nay vẫn hoạt động khá tốt nhờ có sự nhạy
bén, chủ động thay đổi các mặt hàng sản phẩm phù hợp với bối cảnh mới. Tuy
nhiên, trong quá trình vận động biến đổi, ngành nghề sơn cổ truyền cũng phải đối
mặt với không ít khó khăn thách thức mà nếu thiếu vai trò điều tiết của Nhà nước
chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động tự phát ở các làng nghề, nhiều giá trị có
nguy cơ bị mai một và mất đi trong một tương lai không xa.
Trước xu thế biến đổi nhiều mặt đã và đang diễn ra ngày càng sâu sắc của
nghề thủ công truyền thống ở khu vực Hà Nội, việc tìm hiểu, nắm bắt được sự vận
động biến đổi (bao gồm bản chất, tác nhân và hệ quả) của nghề sơn truyền thống ở
các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng, qua đó định hướng cho ngành nghề này phát
triển dựa trên các cứ liệu khoa học là một trong những yêu cầu cấp thiết và có ý
nghĩa thiết thực đối với sự nghiệp gìn giữ và phát huy di sản văn hóa dân tộc cũng
như công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh này, việc đi tìm và tôn
vinh những làng nghề truyền thống đang bị lu mờ dần trong tâm trí của người Việt
ở xã hội đương đại như các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng lại càng trở nên có ý
nghĩa hơn lúc nào hết.
Nghề sơn và làng nghề sơn vốn là đề tài khoa học có sức hấp dẫn với không
ít nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu dưới nhiều góc độ, phạm
vi và ở nhiều mức độ khác nhau. Trước tiên, có thể kể tới các bộ chính sử của nước
ta có đề cập những vấn đề liên quan đến nghề sơn như Đại Việt sử ký toàn thư [66,
67], Đại Nam nhất thống chí [92], Khâm định Việt sử thông giám cương mục [93]…
và các công trình nghiên cứu của người nước ngoài như Những cây sơn ở Đông
Dương của CH. Crevost [19], Sơn và dầu sơn Bắc Bộ - Trung Quốc - Nhật Bản của
G. Dumontier [39], Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688 của William
7
Dampier [125], Miêu tả vương quốc Đàng Ngoài của Samuel Baron [95]. Đây có
thể coi đó là nguồn sử liệu gốc cần phải tiếp cận đầu tiên khi nghiên cứu về nghề
sơn nói chung và biến đổi nghề sơn nói riêng.
Thứ hai là những công trình nghiên cứu có ít nhiều thông tin đề cập đến nghề

và làng nghề sơn với ý nghĩa là giới thiệu khái quát về lịch sử ngành nghề này trong
tổng thể nhiều nghề thủ công truyền thống khác như Truyện các ngành nghề (Tạ
Phong Châu chủ biên) [18]; Lược truyện thần tổ các ngành nghề của Vũ Ngọc
Khánh [59], Nghề thủ công truyền thống và các vị tổ nghề của Trần Quốc Vượng và
Đỗ Thị Hảo [123]…
Tiếp đến là những công trình nghiên cứu chuyên sâu thiên về khảo tả chất
liệu, kỹ thuật của nghề sơn Việt Nam nói chung và nghề sơn ở các làng nghề truyền
thống nói riêng như Kỹ thuật sơn mài của Phạm Đức Cường [31]; Nghề sơn với
nghệ thuật trang trí ứng dụng ở Việt Nam của Trần Thị Tuyết Hạnh [40]; Tổng tập
nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam - Tập 6: Nghề chế tác đá, nghề sơn và
một số nghề khác do Trương Minh Hằng chủ biên [43]; Nghề sơn cổ truyền Việt
Nam của Lê Huyên [52]; Làng nghề sơn quang Cát Đằng của Nguyễn Lan Hương
[54]; Sơn mài Bình Dương - chất liệu và nghệ thuật thể hiện của Nguyễn Văn Minh
[73]; Kỹ thuật, chất liệu của sơn mài Việt Nam và Nhật Bản thế kỷ XX của Đặng
Thị Thu Hiền [44]; Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam của nhiều tác giả
[115] v.v
Một số làng nghề làm sơn nổi tiếng ở khu vực Hà Nội đã thu hút được sự chú
ý của các nhà nghiên cứu với nội dung chủ yếu là khảo tả hoạt động của làng nghề
trong quá khứ và hiện tại như: Nghề sơn cổ truyền ở Bình Vọng và Hạ Thái của
Trương Duy Bích và Trương Minh Hằng [6]; Làng nghề Sơn Đồng của Trương Duy
Bích và Nguyễn Thị Hương Liên [7]; Nghề sơn truyền thống làng Hạ Thái - xã
Duyên Thái - huyện Thường Tín - tỉnh Hà Tây của Nguyễn Xuân Nghị [74]; Văn
hóa làng Hạ Thái của Hoàng Thị Tố Quyên [94] v.v
Tìm hiểu nghề sơn và làng nghề sơn truyền thống ở Việt Nam dưới góc độ
biến đổi bước đầu là chủ đề quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Có thể kể đến ba
8
công trình tiêu biểu là những luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công, đều thuộc chuyên
ngành Văn hóa dân gian và chủ yếu sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên
ngành này như tiếp cận không gian văn hóa, tiếp cận thành tố văn hóa Trước tiên
là luận án Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây của Nguyễn Xuân Nghị, được bảo vệ

năm 2008, công trình sau đó cũng được xuất bản thành sách có cùng tên [75]. Đối
tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền thống ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội)
với hệ thống các làng nghề sơn đang và đã từng hoạt động trên địa bàn tỉnh, trong
đó tập trung khảo sát chủ yếu ba làng nghề được đánh giá là những làng nghề sơn
truyền thống tiêu biểu của tỉnh Hà Tây cũ là Bình Vọng, Hạ Thái và Sơn Đồng.
Nhìn tổng thể, công trình này đã phác họa thành công diện mạo nghề sơn truyền
thống tỉnh Hà Tây thông qua việc miêu tả khá chi tiết nghề sơn ở một số làng nghề
tiêu biểu. Đặc biệt, đóng góp đáng kể nhất của luận án là đề cập đến những biến đổi
đã và đang diễn ra ở nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây thông qua trường hợp ba
làng Bình Vọng, Hạ Thái và Sơn Đồng. Tác giả nhận định rằng: xét trên bình diện
rộng, nghề sơn ở Hà Tây trong lịch trình thời gian luôn có sự biến động. Có những
làng, nghề sơn được hình thành từ rất sớm xong lại bị lụi tàn, có làng thì nghề sơn
được tiếp nhận sau nhưng lại duy trì được và phát triển nhân rộng ra các làng mới.
Sự biến động của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội qua nhiều thời kỳ cũng đồng
hành với sự vận động, biến đổi của nghề sơn tỉnh Hà Tây ở nhiều khía cạnh như
biến đổi về hoạt động nghề, về kỹ thuật, về chất liệu, mẫu mã sản phẩm, về tư duy
hoạt động nghề, về kinh tế, xã hội, môi trường
Tiếp theo sau công trình Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây của Nguyễn
Xuân Nghị là luận án Nghề sơn quang Cát Đằng (truyền thống và biến đổi) của
Nguyễn Lan Hương được bảo vệ năm 2009. Công trình này sau đó đã được xuất bản
thành sách dưới tên gọi Làng nghề sơn quang Cát Đằng xưa và nay [57]. Bằng cách
áp dụng các lý thuyết và phương pháp tiếp cận của chuyên ngành văn hóa dân gian,
công trình đã tái hiện diện mạo nghề và làng nghề sơn quang truyền thống Cát Đằng (
xã Yên Tiến, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) trong sự vận động không ngừng theo
thời gian, qua đó đánh giá vị trí của làng nghề này trong hệ thống các làng nghề ở
9
châu thổ Bắc Bộ. Có thể coi đây là một trong những công trình khoa học đầu tiên
nghiên cứu một cách toàn diện về nghề sơn quang và làng nghề sơn quang Cát Đằng.
Đây cũng là một trong số ít công trình tiêu biểu mở đầu cho hướng nghiên cứu
chuyên sâu về sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở Việt Nam cũng như ở châu

thổ Bắc Bộ thông qua một trường hợp cụ thể là nghề sơn quang làng Cát Đằng.
Gần đây nhất, năm 2013, tác giả Lê Thanh Hương đã bảo vệ thành công luận
án Những thay đổi về kỹ thuật, chất liệu trong nghệ thuật sơn mài Việt Nam hiện
đại [58]. Với đối tượng nghiên cứu là những chất liệu và kỹ thuật sử dụng trong chế
tác sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề, cũng như trong sáng tác các tác
phẩm sơn mài hội họa của các họa sĩ chuyên nghiệp (đặc biệt tập trung nghiên cứu
giai đoạn từ năm 1925 đến nay), nhìn tổng thể, công trình này đã trình bày tương
đối toàn diện và hệ thống những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật sơn mài Việt Nam
cùng vai trò và vị trí của nó trong nền văn hóa dân tộc. Ở góc độ cụ thể hơn, luận án
đã hệ thống hóa khá rõ nét những thay đổi của chất liệu và kỹ thuật của nghề sơn
qua các giai đoạn khác nhau dưới tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan.
Đồng thời, xác định rõ hai yếu tố này là những yếu tố căn bản tạo nên sức sống, bản
sắc của nghề sơn truyền thống cũng như có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng,
sáng tạo của các nghệ nhân và nghệ sĩ sơn mài. Trên cơ sở đó, luận án đi đến khẳng
định rằng: sự vận động, biến đổi là quy luật khách quan, yếu tố tạo nên sự đa dạng
và phát triển, thể hiện sức sáng tạo phong phú của các thế hệ nghệ sĩ, nghệ nhân.
Kết quả nghiên cứu của luận án này đã góp phần bổ sung vào mảng chủ đề nghiên
cứu về sự biến đổi của nghề sơn trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt Nam.
Có thể kết luận, mặc dù việc nghiên cứu nghề sơn truyền thống không phải là
mảng vấn đề mới song vẫn còn khoảng trống để các công trình tiếp theo nghiên cứu
bổ sung. Bởi lẽ, nghề sơn truyền thống ở một vài địa phương vẫn chưa được quan
tâm tìm hiểu để tương xứng với tiềm năng của ngành nghề cổ truyền này, trong đó
nghề sơn ở các làng Bối Khê - huyện Phú Xuyên và Vũ Lăng - huyện Thanh Oai là
những trường hợp tương đối điển hình. Hai làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng cho đến
thời điểm hiện tại hầu như chưa được nghiên cứu ngoại trừ việc được nhắc đến có
10
tính chất liệt kê, điểm qua ở một số công trình như Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà
Tây của Nguyễn Xuân Nghị [75], bài viết Hà Tây với truyền thống sơn mài của
Nguyễn Văn Chuốt [26] và một số bài trên Internet với nội dung giới thiệu đôi nét
về làng nghề trong hoạt động quảng bá du lịch.

Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đã trình bày trên đây, tôi lựa
chọn đề tài Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê (huyện Phú
Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành phố Hà Nội hiện nay làm luận án tiến
sĩ chuyên ngành Văn hóa học. Hy vọng rằng, từ quan điểm tiếp cận liên ngành, việc
tìm ra được bản chất, nguyên nhân và cơ chế biến đổi của nghề sơn truyền thống ở
trường hợp các làng nghề cụ thể là Bối Khê và Vũ Lăng sẽ giúp định hướng cho
ngành nghề cổ truyền này có thể tồn tại, thích nghi và phát triển trong xu hướng
biến đổi tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một xã hội đang
chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp như Việt Nam. Đề tài luận án
là sự bổ sung cần thiết vào những khoảng trống nghiên cứu về nghề sơn truyền
thống ở châu thổ Bắc Bộ nói chung và khu vực Hà Nội nói riêng theo hướng nghiên
cứu trường hợp cụ thể, chuyên sâu - là hướng nghiên cứu đang được ưu tiên trong
khoa học xã hội nhân văn hiện nay. Ở một mức độ nào đó, kết quả nghiên cứu của
luận án sẽ có giá trị gợi ý và làm cơ sở so sánh ở những nghiên cứu tương tự về
nghề sơn truyền thống tại các làng nghề khác. Sau cùng, luận án là sự tiếp nối các
công trình nghiên cứu về nghề sơn (ở Việt Nam và trên thế giới) của nghiên cứu
sinh từ năm 2004 đến nay.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
- Luận án chứng minh sự biến đổi là quy luật tất yếu khách quan để nghề sơn
truyền thống ở các làng nghề như Bối Khê và Vũ Lăng có thể duy trì và phát triển
trong bối cảnh đương đại.
- Luận án hướng đến xác lập những căn cứ khoa học và thực tiễn để tham
khảo định hướng cho nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề phát triển trong tương
lai.
11
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến nghề sơn truyền thống ở Việt
Nam, khu vực Hà Nội và các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng.
- Tìm hiểu diện mạo của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ

Lăng, Hà Nội trong diễn trình lịch sử bao gồm các yếu tố như nguồn gốc xuất hiện,
kỹ thuật chế tác, cơ cấu tổ chức nghề, tâm lý làm nghề…
- Xác định những giá trị tiêu biểu của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối
Khê và Vũ Lăng, Hà Nội; đối chiếu, so sánh với nghề sơn ở các làng nghề khác của
Hà Nội nói riêng và vùng châu thổ Bắc Bộ nói chung, qua đó làm rõ những nét riêng
biệt và những đóng góp của nghề sơn ở hai làng này cho di sản văn hóa dân tộc.
- Phân tích những biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và
Vũ Lăng, Hà Nội dưới tác động của cơ chế thị trường và quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa - mà thực chất đó là sự va chạm giữa truyền thống - hiện đại, thích nghi
- biến đổi, bảo tồn - phát triển.
- Xây dựng luận cứ khoa học trong việc định hướng để nghề sơn truyền
thống ở các làng Bối Khê, Vũ Lăng nói riêng cũng như các làng nghề khác ở khu
vực Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ nói chung có thể duy trì và phát triển trong thời
điểm hiện tại và tương lai theo hướng: trên cơ sở gìn giữ, kế thừa các giá trị truyền
thống vốn có, tiếp thu những thành tựu hiện đại, tiên tiến để sáng tạo những giá trị
mới phù hợp với thời đại mới, qua đó bổ sung và làm đa dạng thêm bản sắc văn hóa
dân tộc, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ Đổi mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền thống ở các làng Bối
Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội trong quá
trình vận động, biến đổi theo thời gian để thích nghi tồn tại. Đây vốn là hai làng
nghề sơn có lịch sử khá lâu đời và đã khẳng định được đặc trưng riêng ở các kỹ
thuật cơ bản của nghề sơn truyền thống là sơn mài, sơn thếp và sơn quang. Tuy
nhiên, để làm rõ diện mạo và sự đóng góp của nghề sơn ở các làng nghề trên, luận
12
án sẽ mở rộng tìm hiểu nghề sơn truyền thống ở một số làng khác trong khu vực Hà
Nội cũng như vùng châu thổ Bắc Bộ dưới góc nhìn liên hệ, so sánh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê (xã Chuyên

Mỹ, huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội
trong bối cảnh các làng nghề sơn vùng châu thổ Bắc Bộ.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu, tìm hiểu nghề sơn truyền thống ở hai làng
Bối Khê và Vũ Lăng từ năm 1945 đến nay (2013) với các mốc thời gian cụ thể gắn
với những biến đổi trong nghề sơn truyền thống ở hai làng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp tiếp cận
4.1. Cơ sở lý luận
4.1.1. Một số khái niệm thao tác
Nghề sơn truyền thống
Ở Việt Nam cho đến nay, đã có nhiều học giả đưa ra quan niệm về nghề
truyền thống như Mai Thế Hởn, Bùi Văn Vượng, Trần Minh Yến… Qua tổng hợp
chúng tôi nhận thấy hầu hết các ý kiến đều thống nhất với nhau ở những tiêu chí của
một ngành nghề thủ công truyền thống, đó là: Đã hình thành, tồn tại và phát triển
lâu đời ở nước ta; Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề, xã nghề;
Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề; Có kỹ thuật và công
nghệ truyền thống; Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước hoàn toàn hoặc chủ
yếu; Sản phẩm làm ra vừa có tính hàng hóa, vừa có tính nghệ thuật, thậm chí trở
thành các di sản văn hóa mang bản sắc văn hóa Việt Nam; Là nghề nghiệp nuôi
sống một bộ phận dân cư của cộng đồng, có đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà
nước [47, tr.16-17], [124, tr.11-12], [126, tr.11].
Trong số nhiều quan niệm về nghề truyền thống, chúng tôi đã lựa chọn và sử
dụng khái niệm nghề truyền thống được tổng hợp và nêu ra bởi tác giả Trần Minh
Yến như là một trong những cơ sở lý luận của luận án.
Nghề truyền thống bao gồm những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện
từ lâu trong lịch sử, được truyền từ đời này qua đời khác còn tồn tại đến
13
ngày nay, kể cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử dụng những loại
máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ
truyền thống, và đặc biệt sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét văn
hóa đặc sắc của dân tộc [126, tr.12].

Chúng tôi xem đây là một trong những khái niệm hàm chứa khá đầy đủ và
chi tiết những tiêu chí cơ bản của một ngành nghề truyền thống. Ngoài ra, khái niệm
này cũng đã được nghiên cứu và mở rộng hơn, phù hợp với bối cảnh phát triển
mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kéo theo việc can thiệp, hỗ
trợ sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống của các quy trình công nghệ mới cũng
như các loại nguyên vật liệu mới [126, tr.12]. Từ trường hợp nghiên cứu của luận
án, có thể thấy nghề sơn cũng là một trong số hơn 2000 nghề thủ công truyền thống
của đất nước. Trên cơ sở kế thừa những quan điểm về nghề truyền thống của các
nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đưa ra định nghĩa về nghề sơn truyền thống
trong bối cảnh hiện nay và coi đó là khái niệm mang tính công cụ của luận án.
Nghề sơn truyền thống là một trong những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất
hiện lâu đời trên đất nước ta, được truyền từ đời này qua đời khác và tồn tại đến
ngày nay, ở đó, ngoài những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền thống được
sáng tạo và lưu truyền bởi các thế hệ nghệ nhân còn bao gồm cả những phương
pháp chế tác được cải tiến hoặc những loại máy móc hiện đại được sử dụng để hỗ
trợ sản xuất, song về cơ bản vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống và sản phẩm vẫn
thể hiện những nét văn hóa độc đáo của dân tộc.
Làng nghề sơn truyền thống
Tương tự như sự đa dạng trong quan niệm về nghề truyền thống, làng nghề
trên phương diện tổng thể cũng được nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm tùy
theo chuyên ngành và mục tiêu nghiên cứu, song đa số các ý kiến đều đi đến thống
nhất nền tảng cơ bản của làng nghề là:
Nghề phải nuôi sống dân cư hoặc một bộ phận dân cư của cộng đồng
làng; Sản xuất ra các sản phẩm thủ công; Có đội ngũ thợ thủ công
chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp lành nghề; Có bí quyết và quy
14
trình làm nghề nhất định; Sản phẩm của làng nghề là sản phẩm tiêu biểu
của vùng miền [114, tr.28].
Theo một cách hiểu, làng nghề truyền thống được khái quát dựa trên hai
khái niệm nghề truyền thống và làng nghề [126, tr.16]. Chúng tôi đã nêu ở trên

khái niệm về nghề truyền thống được lựa chọn sử dụng là một trong những cơ sở
lý luận của luận án, từ đó đưa ra khái niệm nghề sơn truyền thống. Về khái niệm
làng nghề, chúng tôi nhận thấy quan niệm về làng nghề của nhà nghiên cứu Trương
Minh Hằng rất phù hợp với trường hợp nghiên cứu của luận án là hai làng nghề Bối
Khê và Vũ Lăng. Theo đó, chúng tôi lựa chọn khái niệm làng nghề dưới đây của
tác giả làm một trong những cơ sở lý luận cần thiết tiếp theo của luận án.
Làng nghề gắn liền với các vùng nông nghiệp và người nông dân làm
nghề thủ công để giải quyết hợp lý sức lao động dư thừa được cơ cấu
theo đặc trưng nông nghiệp là mùa vụ… Một làng có nghề, đời sống của
người dân ổn định và được nâng cao so với các làng thuần nông. Nghề
thủ công từ vị trí chỉ là nghề phụ được tổ chức và thực thi vào những khi
nông nhàn, rồi về sau nhiều nghề trở thành nguồn thu nhập chính của
làng… Ở một góc độ nào đó, làng nghề còn mang tính chất của một làng
buôn [42, tr.9-10].
Trên cơ sở khái niệm nghề sơn truyền thống, khái niệm làng nghề đã được
lựa chọn sử dụng của tác giả Trương Minh Hằng cùng việc kế thừa quan điểm của
một số nhà nghiên cứu khác, chúng tôi đưa ra định nghĩa về làng nghề sơn truyền
thống trong bối cảnh hiện nay và coi đó là khái niệm mang tính công cụ tiếp theo
trong luận án.
Làng nghề sơn truyền thống vốn là làng nông nghiệp, trong đó có duy trì
thực hành qua nhiều thế hệ nghề sơn truyền thống vốn đã tồn tại và phát triển lâu
đời với ít nhất 50% số hộ gia đình chuyên sống bằng nghề sơn, là nơi quy tụ đội
ngũ nghệ nhân và thợ lành nghề sử dụng kỹ thuật truyền thống với sự hỗ trợ của
công nghệ hiện đại ở mức độ nhất định để chế tác và bán những sản phẩm độc đáo
mang đậm dấu ấn văn hóa địa phương và bản sắc dân tộc.
15
Biến đổi nghề sơn truyền thống
Chúng ta đều biết rằng, mọi sự vật hiện tượng (trong đó bao gồm cả các hiện
tượng văn hóa) đều nằm trong quá trình vận động và biến đổi không ngừng. Sự vận
động, biến đổi này có thể do tự thân nội tại sự vật hiện tượng, cũng có thể do các tác

nhân bên ngoài[114, tr.34]. Hiểu một cách đơn giản nhất, theo Từ điển Tiếng Việt,
biến đổi là sự đổi khác [98, tr.95] hay biến đổi là thay đổi thành khác trước [82,
tr.61]. Trong khoa học xã hội nhân văn - đặc biệt là xã hội học, thuật ngữ biến đổi
thường được quan tâm dưới góc độ biến đổi xã hội. Xoay quanh chủ đề biến đổi xã
hội, có nhiều quan điểm lý thuyết về biến đổi xã hội như thuyết tiến hóa, thuyết duy
chức năng, thuyết duy xung đột… Trong đó, những vấn đề mà các nhà xã hội học
quan tâm thường là: quá trình biến đổi một hiện tượng xã hội diễn ra như thế nào,
xu hướng biến đổi, nguyên nhân của sự biến đổi… [114, tr.34]. Trong những năm
gần đây, thuật ngữ biến đổi còn được biết đến phổ biến hơn trong các công trình
nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa của các nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài
như Lương Văn Hy [130], Nguyễn Duy Bắc [4], Nguyễn Thị Phương Châm [17],
Lương Hồng Quang [90], Louise S. Spindler [132], Ronald Inglehart, Wayne E.
Baker [131]… với rất nhiều quan điểm khác nhau về biến đổi văn hóa. Một trong số
đó, tác giả Nguyễn Duy Bắc trong một công trình nghiên cứu đã cho rằng: “… Một
cách hiểu rộng nhất, đó là một sự thay đổi so sánh với một tình trạng văn hóa hoặc
một nền văn hóa có trước dưới tác động của những nhân tố chính trị - kinh tế - xã
hội” [4, tr.36]. Liên hệ với đề tài luận án chúng tôi nhận thấy quan niệm này rất gần
với vấn đề nghiên cứu sự biến đổi nghề sơn truyền thống tại hai làng nghề Bối Khê
và Vũ Lăng, do vậy, chúng tôi chọn khái niệm này như là cơ sở lý luận thứ ba của
luận án.
Dựa trên cơ sở lý luận là các khái niệm về biến đổi nói chung và biến đổi văn
hóa nói riêng, theo chúng tôi, nghề sơn truyền thống với tư cách là một hiện tượng
văn hóa, ở góc độ nào đó có thể hiểu sự biến đổi nghề sơn truyền thống chính là sự
biến đổi/thay đổi các thành tố cơ bản cấu thành nghề sơn truyền thống như nguyên
vật liệu, quy trình chế tác, sản phẩm, thị trường tiêu thụ - khách hàng, hoạt động tổ
16
chức sản xuất kinh doanh, nguồn nhân lực, vấn đề truyền dạy nghề, đời sống sinh
hoạt của thợ nghề… dưới sự tác động của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Đây
là khái niệm mang tính chất công cụ sau cùng được chúng tôi quan tâm và sử dụng
trong luận án này.

4.1.2. Một số luận điểm khoa học
Biến đổi nghề thủ công truyền thống cũng chính là một biểu hiện trong sự đa
dạng của biến đổi văn hóa. Hơn nữa, nghề truyền thống ở Việt Nam chủ yếu tồn tại
và vận động trong một không gian cụ thể, đó là làng (thực chất vốn là những làng
nông nghiệp). Vì vậy, tác giả luận án quan tâm tới các lý thuyết, luận điểm nghiên
cứu về biến đổi văn hóa, đặc biệt là biến đổi văn hóa ở làng quê của các học giả
trong và ngoài nước. Luận án đi vào nghiên cứu sự biến đổi nghề sơn truyền thống
trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay nên tác giả đã chọn một số
luận điểm khoa học làm điểm tựa lý thuyết định hướng cho nghiên cứu của mình,
đó là:
- Luận điểm về biến đổi văn hóa ở làng là một quá trình tất yếu trong
bối cảnh hiện nay được thể hiện trong một số công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học: Lương Văn Hy [130], Tô Duy Hợp [48], Phan Đại Doãn [32], Lương
Hồng Quang [90], Nguyễn Thị Phương Châm [17]
Từ định hướng của luận điểm khoa học nêu trên, luận án sẽ chứng minh tính
tất yếu của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống ở các làng nghề Bối Khê và Vũ
Lăng được thể hiện xuyên suốt trên trục thời gian tồn tại và phát triển của nghề
truyền thống này. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố biến đổi thì vẫn có một số yếu
tố gần như bất biến và nó có vai trò nhất định trong quá trình tồn tại và phát triển
của nghề sơn.
- Luận điểm về biến đổi nghề truyền thống và làng nghề truyền thống
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình đa dạng về các mô
hình biến đổi và các cấp độ biến đổi được thể hiện trong một số công trình nghiên
cứu của các tác giả: Mai Thế Hởn [47], Trần Minh Yến [126], Dương Bá Phượng
[86] Liên hệ với đề tài luận án, chúng tôi cũng đã nhận thấy một quá trình biến
17
đổi có tính chất đa dạng về mô hình và cấp độ biến đổi trong các khía cạnh của
nghề sơn truyền thống ở các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng trước sự chuyển biến
sâu sắc trong đời sống kinh tế - xã hội và quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa nông
nghiệp, nông thôn.

4.2. Phương pháp tiếp cận
Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền thống
trong quá trình biến đổi đa dạng và phức tạp, chúng tôi lựa chọn phương pháp tiếp
cận liên ngành Văn hóa học với hy vọng đó là phương pháp tiếp cận hữu hiệu nhất
cho đề tài luận án bởi xét về mặt lý thuyết thì: “Văn hóa học - như là một khoa học
độc lập mang tính tổng hợp và liên ngành” [99, tr.226], theo đó “Văn hóa học xem
xét văn hóa với tư cách là một hiện tượng xã hội tổng thể, vì thế nó cần phải nghiên
cứu cùng một lúc nhiều phương diện của một hiện tượng và bằng nhiều cách tiếp
cận khác nhau” [99, tr.192]. Phương pháp tiếp cận liên ngành có sự đóng góp khoa
học của nhiều chuyên ngành khác nhau sẽ là một trong những công cụ lý thuyết hỗ
trợ để nhìn ra những yếu tố biến đổi của nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê
và Vũ Lăng từ cả hai góc độ hiện tượng và bản chất. Phương pháp tiếp cận liên
ngành Văn hóa học được triển khai áp dụng cụ thể trong nghiên cứu sự biến đổi
nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng như sau:
Với đối tượng nghiên cứu là nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và
Vũ Lăng trong quá trình vận động biến đổi tương đối đa dạng, chúng tôi coi trọng
sự trải nghiệm cá nhân trên thực địa với phương pháp điền dã dân tộc học. Bởi vì,
phương pháp này sẽ giúp thu thập được nguồn thông tin phong phú, đa dạng để giải
quyết các vấn đề của luận án. Hơn nữa, những kết quả nghiên cứu từ thực địa cũng
đóng vai trò quan trọng để các vấn đề nghiên cứu của luận án được trình bày, chứng
minh chính xác hơn và đáng tin cậy hơn. Thử lấy một ví dụ: nếu như không có
những phương pháp nghiên cứu thực địa như quan sát tham dự, phỏng vấn và quan
sát cá nhân, phỏng vấn nhóm tại hai làng Bối Khê và Vũ Lăng thì khó có thể hiểu
được ý nghĩa, bản chất của những biến đổi đang diễn ra ở nghề sơn truyền thống
hiện nay, thậm chí còn có thể xảy ra sự ngộ nhận, nhầm lẫn hay áp đặt suy nghĩ chủ
18
quan của nhà nghiên cứu thường có xu hướng bảo tồn những giá trị truyền thống,
theo đó dễ dẫn đến quan điểm hoài cổ, phê phán các yếu tố biến đổi và thậm chí là
phủ nhận sự biến đổi. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức được về vai trò của
phương pháp khái quát thực tế hay cụ thể hơn là phương pháp mô hình hóa những

thông tin tư liệu thu được từ quá trình điều tra thực địa để đề cập, liên hệ đến cái
chung có ý nghĩa phổ quát chứ không chỉ đơn thuần là những mô tả về từng trường
hợp riêng lẻ như Bối Khê hay Vũ Lăng. Kết quả nghiên cứu của luận án ở mức độ
nào đó còn có giá trị liên hệ với các làng nghề sơn truyền thống khác ở châu thổ
Bắc Bộ.
Mô tả dân tộc học vẫn cần thiết song là chưa đủ khi một trong những mục
đích của đề tài luận án là chứng minh sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở hai
làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng là tất yếu và cần thiết trong bối cảnh đương đại.
Nhằm đạt được điều này, chúng tôi thực hiện thao tác phân tích - so sánh. Theo đó,
các kết quả nghiên cứu sẽ được đúc rút từ việc phân tích - so sánh các sự việc, hiện
tượng ở một số vùng địa lý khác nhau, qua đó để tìm ra cái khái quát và cả những
cái đặc thù. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần
phải tiến hành mô tả phân tích để vừa hiểu được các sắc thái đa dạng của hiện tượng
văn hóa đồng thời lại đưa ra được những đặc điểm chung. Trong luận án sẽ có sự
phân tích - so sánh nghề sơn truyền thống ở các cấp độ: nghề sơn ở Việt Nam với
nghề sơn ở một số quốc gia khác, nghề sơn ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng trong
quá trình tồn tại và phát triển của nó, nghề sơn ở hai làng với nghề sơn tại một số
làng nghề khác ở châu thổ Bắc Bộ Bên cạnh đó, việc phân tích - so sánh còn được
thực hiện ở nguồn thông tin thu được từ các đối tượng được phỏng vấn là các nghệ
nhân, các nhà nghiên cứu với những nhà quản lý và thi hành chính sách. Có thể nói,
thao tác phân tích - so sánh sẽ được chúng tôi thực hiện xuyên suốt trong từng bước
của quá trình nghiên cứu từ phát triển khung nghiên cứu, tiến hành nghiên cứu tại
thực địa, xử lý thông tin và viết báo cáo.
Ngoài ra, chúng tôi còn lưu ý đến những bối cảnh (quá khứ và hiện tại) mà
nghề sơn truyền thống tồn tại với những sự kiện, những vấn đề ảnh hưởng tác động
19
lên nó. Để nghiên cứu bối cảnh của nghề sơn, chúng tôi chủ trương mở rộng trọng
tâm của nghiên cứu ra khỏi từng cá nhân đơn lẻ cũng như kiến thức và thực hành
của họ. Thay vào đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu các động lực xã hội như sự khó
khăn về kinh tế, các nhu cầu đòi hỏi về mặt chính trị, xã hội, văn hóa Đây chính là

những yếu tố sẽ giúp giải thích các hành động của chủ thể văn hóa, tránh được cái
nhìn phiến diện, chủ quan khi nghiên cứu. Có thể nói rằng nghiên cứu về bối cảnh
chính là tìm câu trả lời cho câu hỏi “Ai đang nói (hoặc làm) gì và tại sao?”.
Ở những đề tài có liên quan đến việc lý giải sự biến đổi của một trong những
hiện tượng, quá trình văn hóa như luận án thì sự kết hợp các phương pháp lịch đại
và đồng đại sẽ giúp cho nhà nghiên cứu có cái nhìn “tọa độ“ (tức cách nhìn đối
chiếu những yếu tố của hiện tượng trong không gian và thời gian xác định) trong
các phân tích, tổng hợp và diễn giải các sự kiện, hiện tượng văn hóa [99, tr.202-
203]. Vận dụng vào trong luận án, chúng tôi khảo cứu nghề sơn truyền thống tại hai
làng Bối Khê và Vũ Lăng ở 3 tọa độ: nghề sơn truyền thống thời kỳ trước năm
1954, nghề sơn truyền thống từ sau năm 1954 đến trước năm 1986 và nghề sơn
truyền thống từ năm 1986 đến nay. Ở mỗi tọa độ này, các thành tố của nghề sơn
truyền thống sẽ được đề cập trong từng bối cảnh xã hội cụ thể. Tổng hợp các vấn đề
nghiên cứu từ ba tọa độ này sẽ tìm ra được những kết luận chân thực về những yếu
tố bất biến và khả biến của nghề sơn truyền thống ở hai làng cũng như lý giải được
những tác nhân của quá trình biến đổi này. Như vậy, luận án với đối tượng nghiên
cứu là nghề sơn truyền thống dưới góc nhìn văn hóa học thì việc kết hợp hai hướng
đồng đại và lịch đại chính là cách để có thể hiểu và giải thích được các hiện tượng
văn hóa một cách sâu sắc.
Xuất phát từ các vấn đề nghiên cứu đặt ra trong luận án, ngoài hai luận điểm
khoa học được sử dụng làm điểm tựa lý thuyết mang tính định hướng đã nêu ở trên,
chúng tôi cũng quan tâm đến một trong những mô hình lý thuyết có tầm quan trọng
hàng đầu trong phân tích xã hội và văn hóa là “thuyết xung đột” với quan điểm của
các nhà tư tưởng như M. Weber, R. Dahrendorf Họ chỉ ra rằng các mâu thuẫn và
xung đột không chỉ là đặc trưng, mà còn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát
20
triển của xã hội. Đồng thời, họ đưa ra những lý giải về sự kết nối không ngừng, các
va chạm của những lực lượng xã hội khác nhau để tạo ra sự hội nhập và biến đổi xã
hội trên cơ sở của quyền lực, của sự ép buộc hay sự theo đuổi những lợi ích kinh tế
và chính trị trong hoạt động thực tiễn của con người. Nhìn chung, những lý giải nêu

trên đều thống nhất với nhau ở một điểm: mâu thuẫn và xung đột xã hội là hiện
tượng có tính chất phổ biến trong các xã hội và các nền văn hóa khác nhau. Vận
dụng lý thuyết xung đột trong phân tích văn hóa, cụ thể là ở trường hợp nghề sơn
truyền thống trong đề tài luận án này có thể nhận thấy sự xung đột (hay tương tác )
diễn ra ở nhiều cấp độ, nhiều phương diện trong hệ thống các yếu tố của nghề sơn
truyền thống, mà ở góc độ phổ quát nhất chính là xung đột giữa truyền thống - hiện
đại, giữa thích nghi - biến đổi, giữa bảo tồn - phát triển, giữa kinh tế - văn hóa cùng
với đó là những lý do xã hội tiềm ẩn đằng sau những xung đột ấy.
Việc khai thác chức năng dự báo và chức năng quản lý các vấn đề xã hội của
ngành xã hội học cũng được chúng tôi quan tâm trong luận án, bởi đây sẽ là cơ sở
giúp nhận thức được những thuộc tính của nghề sơn truyền thống ở hai làng, từ đó
có thể đưa ra xu hướng tương lai và cung cấp cứ liệu khoa học có tính khả thi cho
việc hoạch định chính sách quản lý. Theo đó, xu hướng vận động của nghề sơn
truyền thống ở hai làng trong thời gian tới cũng được bàn đến dựa trên kết quả khảo
sát thực trạng nghề sơn truyền thống và cơ sở lý luận của đề tài luận án là một số cơ
sở lý thuyết, luận điểm khoa học như chúng tôi đã đề cập ở phần trên. Trên cơ sở
quán triệt quan điểm coi trọng mối quan hệ hai chiều: lãnh đạo các cấp và nhân dân
làng nghề, đồng thời căn cứ vào những kết quả thực nghiệm có được từ cách tiếp
cận văn hóa học mang tính liên ngành, chúng tôi cũng nêu ra định hướng phát triển
cho nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng trong tương lai.
Ở đề tài luận án, xét dưới góc độ triết học văn hóa, nghề sơn truyền thống -
một hiện tượng văn hóa được chúng tôi tiếp cận với tư cách là một phương diện đời
sống xã hội. Quá trình mô tả văn hóa là tất yếu phải có, song cái đích cuối cùng mà
luận án cần phải đạt được chính là tìm ra được bản chất của quá trình biến đổi này
là gì và lý giải nó bằng tư duy logic được tổng hợp từ kiến thức liên ngành của văn
21
hóa học. Với ý nghĩa là một phương diện đời sống xã hội thì văn hóa vốn là cái biến
đổi liên tục như cuộc sống vốn có, nhưng ở mức độ nào đó, vẫn bảo lưu nhiều giá
trị có sức sống trường tồn. Đó là những giá trị tổng hòa chân - thiện - mỹ cộng
hưởng trong một khách thể văn hóa qua thời gian được giữ lại, trở thành khuôn mẫu

và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác mà người ta gọi là bản sắc. Thực
chất, sự biến đổi nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề chính là một biểu hiện trong
đa dạng của biến đổi văn hóa mà ở đó bao gồm cả các yếu tố khả biến (biến đổi) và
các yếu tố bất biến (không hoặc ít biến đổi). Xét về mặt lý thuyết, các yếu tố khả
biến với danh nghĩa là cấu trúc bề mặt, là những biểu hiện bên ngoài và biến đổi
liên tục mà người ta gọi là những biến số, là yếu tố động của văn hóa. Thực tế, văn
hóa được bao chứa trong các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội và trên bình diện
đó các sáng tạo, hoạt động văn hóa bao giờ cũng mang tính xã hội và thường xuyên
biến đổi. Liên hệ với khách thể nghiên cứu của đề tài luận án là nghề sơn truyền
thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng, những yếu tố biến đổi chủ yếu là nhóm yếu
tố dễ chịu sự ảnh hưởng, tác động của các điều kiện kinh tế - xã hội như nguyên
liệu, quy trình chế tác, sản phẩm, thị trường tiêu thụ - khách hàng, hoạt động tổ
chức sản xuất và kinh doanh, nguồn nhân lực, đời sống sinh hoạt của nhân dân
làng nghề, môi trường…
Các yếu tố bất biến với danh nghĩa là cấu trúc chiều sâu, là cấu trúc bên
trong của văn hóa và ít biến đổi mà người ta gọi là hằng số, là yếu tố tĩnh của văn
hóa. Nó là cái gốc điều chỉnh mọi sinh hoạt đời sống giữ cho xã hội tính liên tục,
tính ổn định và nằm sâu trong tâm thức, trong đức tin tâm linh của con người, khắc
họa nên bản sắc văn hóa của tộc người này khác với tộc người khác. Qua khảo sát
tại các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng, có thể nhận thấy các yếu tố không hoặc ít
biển đổi trong quá trình vận động của nghề sơn dường như không nổi trội bằng các
yếu tố động. Điều này là dễ hiểu bởi nghề sơn truyền thống như bất cứ một hiện
tượng văn hóa nào khác đang chịu sự tác động mạnh mẽ của các điều kiện chính trị,
kinh tế, xã hội trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bối cảnh
toàn cầu hóa. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng, sự tồn tại của những hằng số - yếu tố
22
tĩnh có vẻ phổ biến hơn ở các làng nghề sơn truyền thống chuyên về hàng đồ thờ
như Vũ Lăng. Lý do có lẽ bởi mặt hàng này gắn với đời sống tâm linh vốn khá tĩnh
tại và không dễ gì thay đổi cùng với quy định nghề nghiệp đòi hỏi tính chuẩn mực
cao, có phần khắt khe hơn so với các làng nghề làm đồ thủ công mỹ nghệ thiên về

sự năng động do phải phụ thuộc nhiều vào thị hiếu khách hàng. Trong khi các làng
nghề như Bối Khê đã rất thịnh hành việc dùng nhiều chất liệu mới hiện đại trong
việc làm cốt/vóc như đã đề cập, thì Vũ Lăng vẫn duy trì chất liệu gỗ truyền thống từ
bao đời nay trong chế tác đồ thờ. Hoặc như các loại hình sản phẩm vốn đã nằm
trong một hệ thống chuẩn của các làng nghề chế tác đồ thờ cũng gần như không có
gì thay đổi so với trước. Trên bình diện cấu trúc chiều sâu đó còn là những đức tin
tâm linh ở nghề chế tác đồ thờ (quan niệm về tầm quan trọng của chữ Tâm trong
chế tác đồ thờ để mỗi sản phẩm (nhất là tượng thờ) có được cái hồn và đảm bảo
được tính thiêng vẫn được coi trọng) và những hệ thống giá trị của nghề sơn truyền
thống ở cả hai làng nghề. Nghề sơn truyền thống như bất kỳ một hiện tượng văn hóa
nào chứa đựng hệ giá trị phổ quát là chân - thiện - mỹ, trong đó cái Đẹp hướng con
người tới lý tưởng, tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ và cái thiêng. Cái Đẹp luôn được
xem là hệ giá trị cao nhất, là chuẩn mực bao quát nhất, vì vậy, cho dù nguyên liệu,
công nghệ chế tác có thay đổi thì thành quả cuối cùng của nghệ nhân vẫn là những
sản phẩm mà ở đó tiêu chí Đẹp luôn được coi trọng hàng đầu. Hiện tượng nhiều sản
phẩm sơn truyền thống hiện nay có chất lượng không cao lắm song vẫn có hình
thức bên ngoài bắt mắt hấp dẫn được khách hàng là ví dụ khá rõ về vấn đề này. Một
khía cạnh nữa cũng cần phải nói tới đó là: mặc dù ở các làng nghề như Bối Khê, Vũ
Lăng đang thịnh hành lối sản xuất mới hiện đại, song bí quyết nghề nghiệp với
những ngón nghề vẫn đang được cất giữ, bảo lưu trong tâm thức của mỗi nghệ
nhân. Chính vì vậy, khi được chúng tôi phỏng vấn, phần lớn các nghệ nhân làng
nghề đều cho biết: hiện nay họ đang chế tác đồ sơn theo công nghệ mới nhưng nếu
được yêu cầu chế tác sản phẩm bằng chất liệu sơn ta hoàn toàn theo lối truyền thống
thì họ vẫn có thể thực hành được một cách thuần thục.
23
Từ những yếu tố bất biến và khả biến của nghề sơn truyền thống ở các làng
Bối Khê và Vũ Lăng đã chỉ ra ở trên, có thể nhận thấy mối quan hệ tương tác giữa
hai hệ thống có vẻ như đối nghịch này được thực hiện theo nguyên tắc: các yếu tố
động dù thường xuyên biến đổi vẫn theo một trật tự nhất định nào đó. Cụ thể, đó là
quá trình biến đổi xuyên suốt lịch sử tồn tại và phát triển của nghề sơn truyền thống

- quá trình ấy dường như đã trở thành quy luật, luôn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi
mang tính sống còn của nghề sơn truyền thống là “sản xuất cho ai?”. Đôi khi, cái
quy định sự biến đổi vừa trực tiếp vừa gián tiếp của nghề sơn truyền thống chính lại
là hệ giá trị nằm sâu bên dưới, mà sâu xa nhất chính là tâm thức “sinh nghề tử
nghiệp”, bằng mọi giá để giữ và duy trì được nghề truyền thống của các nghệ nhân
làng nghề.
Có thể kết luận, ở nghề sơn truyền thống của hai làng Bối Khê và Vũ Lăng,
bên cạnh những yếu tố biến đổi khá đa dạng, một số giá trị có vẻ mang tính chất
tĩnh tại song thực chất vẫn bị biến đổi dù rất chậm chạp. Hiện tượng tâm thức nghề
nghiệp là một trong những ví dụ điển hình. Và như thế, nghề sơn truyền thống với ý
nghĩa là một hiện tượng văn hóa mà văn hóa với ý nghĩa là phương diện đời sống xã
hội sẽ không phải là cái gì nhất thành bất biến, mà cũng như mọi sự vật hiện tượng
khác, đều biến đổi. Khác với những biến đổi chính trị, kinh tế… thường là sự biến
đổi mang tính đột phá, cách mạng, nhiều khi là bột phát, biến đổi văn hóa như hiện
tượng biến đổi của nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề mang tính tiệm tiến bởi vì
văn hóa là sự kế thừa và phải thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người - nhu
cầu thẩm mỹ (làm đẹp) và nhu cầu thực dụng (sử dụng). Đó chính là mối quan hệ
giữa tính liên tục và sự đứt đoạn, giữa truyền thống và cách tân. Sau cùng, chính sự
tương tác giữa những yếu tố bất biến với những yếu tố khả biến của nghề sơn truyền
thống ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng đã góp phần đưa đến một số hệ quả văn hóa -
xã hội sẽ được đề cập ở dưới đây.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận Văn hóa học mang tính liên ngành, với
sự kết hợp và hỗ trợ của nhiều ngành khoa học khác nhau nhằm tìm hiểu và khai thác
24
các khía cạnh nhiều mặt của đối tượng nghiên cứu. Trong đó, bao gồm các thao tác
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Khảo sát điền dã tại địa bàn các làng nghề sơn truyền thống Bối Khê (huyện
Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội với các phương pháp quan
sát tham dự, phỏng vấn nhóm, phỏng vấn sâu

- Tìm hiểu nghề sơn truyền thống của các làng Bối Khê và Vũ Lăng qua các
thời kỳ, các giai đoạn lịch sử thông qua việc tiếp cận với các nguồn sử liệu, điều tra
hồi cố
- Sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
trong việc thu thập những cứ liệu cụ thể nhằm làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của
luận án.
- Lưu ý đến mối quan hệ, ảnh hưởng tác động qua lại giữa các yếu tố văn hóa
và kinh tế dưới góc độ tiếp cận kinh tế học văn hóa. Đây là hướng tiếp cận cần thiết
khi nghiên cứu về các nguồn lợi kinh tế, nguồn thu của thợ nghề và những đóng góp
của nghề và làng nghề truyền thống trong bối cảnh hiện nay.
- Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài luận án ở nhiều hình thức khác
nhau: các tài liệu đã xuất bản thành sách, các bài đăng trên báo, tạp chí, các tài liệu
còn ở dạng bản thảo đánh máy, tư liệu thư tịch gồm chính sử, hương ước, sắc
phong đang được lưu giữ tại địa phương, các viện nghiên cứu và thư viện. Sử
dụng những tiện ích của Internet (ở những mức độ phù hợp) trong việc thu thập tài
liệu cũng là một phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài này.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần bổ sung vào quá trình nghiên
cứu về biến đổi nghề và làng nghề ở châu thổ Bắc Bộ trong bối cảnh kinh tế thị
trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - vốn là chủ đề nghiên cứu đã và
đang được coi là mới và “nóng” hiện nay. Đặc biệt, đề tài luận án nghiêng theo
hướng nghiên cứu trường hợp là hướng nghiên cứu đang được chú trọng và ưu tiên
trong khoa học xã hội nhân văn.
25

×