Tải bản đầy đủ (.pdf) (381 trang)

Tổng quan hệ thống sản xuất lúa gạo xuất khẩu đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 381 trang )



Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền nam





Báo cáo tổng hợp các đề tài nhánh 1

thuộc đề tài cấp nhà nớc
Nghiên cứu các giải pháp Khoa học công nghệ và
thị trờng nhằm phát triển vùng nguyên liệu
phục vụ chế biến và xuất khẩu gạo


Mã số: KC 06.02.NN

Chủ nhiệm đề tài: ThS . huỳnh trấn quốc













6462-1
15/8/2007

tp. HCM- 2005






BỘ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam
121 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Q1 - Tp.HCM



Báo cáo tổng kết khoa học và kỹ thuật Đề tài nhánh:

TỔNG QUAN HỆ THỐNG SẢN XUẤT LÚA GẠO XUẤT KHẨU
ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG




Cơ quan chủ trì: Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp miền Nam
Cơ quan thực hiện: Viện Nghiên cứu Kinh tế Phát triển - Trường
Đại học Kinh tế Tp.HCM

Chủ nhiệm Đề tài: Ths. Huỳnh Trấn Quốc





TP.HCM, 5-2005



Bản quyền 2005 thuộc VKHKTNNMN
Đơn xin sao chép tồn bộ hoặc từng phần tài liệu này phải gửi đến Viện trưởng
VKHKTNNMN trừ trường hợp sử dụng với mục đích nghiên cứu
.

BỘ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
BKHCN
VKHKTNNMN
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam
121 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Q1 - Tp.HCM






Báo cáo tổng kết khoa học và kỹ thuật Đề tài nhánh:

TỔNG QUAN HỆ THỐNG SẢN XUẤT LÚA GẠO XUẤT KHẨU
ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG





Cơ quan chủ trì: Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp miền Nam
Cơ quan thực hiện: Viện Nghiên cứu Kinh tế Phát triển - Trường
Đại học Kinh tế Tp.HCM

Chủ nhiệm Đề tài: Ths. Huỳnh Trấn Quốc




TP.HCM, 5-2005



Bản thảo viết xong 4/2005


Tài liệu này được chuẩn bò trên cơ sở một số kết quả thực hiện Đề tài cấp Nhà
nước mã số KC.06.02.NN.



i
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN


1. TS . Trần Tiến Khai - Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam
2. Ths. Hồ Cao Việt - Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam
3. ThS. Nguyễn Văn Thọ – Trung tâm thẩm đònh giá Miền Nam.

4. TS. Nguyễn Tấn Khuyên – Viện NC. Kinh tế Phát triển.

ii
TÓM TẮT

Hệ thống thương mại lúa gạo ĐBSCL đóng vai trò lớn trong lưu thông phân phối gạo
xuất khẩu, 95% lượng gạo xay xát xuất khẩu do tư nhân thực hiện. Hầu hết lượng lúa hàng hóa
được tiêu thụ gián tiếp từ nông dân trồng lúa qua nhiều tầng lớp trung gian, mức độ phức tạp
của hệ thống phân phối lúa gạo lệ thuộc vào cơ sở hạ tầng (đường giao thống, nơi dự trữ, bảo
quản, phấn bố các nhà máy xay xát và chế biến).
Lực lượng hàng xáo (người thu mua lúa trực tiếp từ nông dân) đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống thương mại lúa gạo ĐBSCL, khoảng 69% sản lượng lúa hàng hóa được nông
dân bán trực tiếp cho hàng xáo. Tuy nhiên, với phương thức thu gom thô sơ, cùng với việc
nguồn lúa từ nông dân với nhiều giống khác nhau, ẩm độ khác nhau đã góp phần làm giảm
chất lượng gạo qua chế biến cũng như tỉ lệ gạo nguyên thấp.
Từ sau những năm 90, thò trường xuất khẩu gạo sôi động, các nhà máy xay xát qui mô
lớn hình thành, trang thiết bò được cải tiến, chất lượng gạo sau chế biến được cải thiện. Các
nhà máy thường tập trung ở khu vực tương đối thuận lợi về giao thông và các nhà máy có qui
mô càng lớn, chi phí xay xát thấp. Đây là một đáng lưu ý trong vấn đề đầu tư các nhà máy xay
xát chế biến ở ĐBSCL. Để cải tạo hệ thống xay xát lúa gạo xuất khẩu cần lưu ý những điểm
sau: (1) Trang bò phương tiện sàng tách tạp chất và máy sấy để lúa nguyên liệu đạt tiêu chuẩn
trước khi xay xát sẽ tăng tỉ lệ thu hồi gạo nguyên; (2) Nên sử dụng công nghệ bốc vỏ trấu bằng
rulo cao su; (3) Nên điều chỉnh cách thức tạo nguồn và cung cấp nguyên liệu trên căn bản gạo
lứt, thay vì gạo nguyên liệu.
Xuất khẩu gạo phần lớn do doanh nghiệp nhà nước đảm trách, hiện tại nhiều doanh
nghiệp nhà nước tìm mọi cách để được xuất khẩu gạo, nên nảy sinh các vấn đề tồn tại: (1)
Tranh mua, tranh bán trong nước, đẩy giá gạo lên cao một cách bất thường những lúc khan
hiếm gạo hàng hóa; (2) Tranh bán cho các thương nhân nước ngòai và cạnh tranh không lành
mạnh ngay trong các doanh nghiệp nhà nước, làm hạ thấp giá, mất uy tín gạo Việt Nam.; (3)
chưa thể cùng nhà nước thực thi một cách hiệu quả một số chính sách: khuyến khích nông dân

trồng lúa xuất khẩu, chính sách giá sàn, trợ giá, trợ cấp lãi suất.
Trong tổ chức, điều phối xuất khẩu gạo hiện nay của các doanh nghiệp còn một số vấn
đề nổi cộm: (1) Doanh nghiệp nhà nước tham gia xuất khẩu gạo thiếu vốn, nên luôn bò động
trong việc huy động nguồn hàng; (2) Có hiện tượng xuất gạo lậu qua biên giới (Trung Quốc,
Lào, Campuchia vào thời điểm khan hiếm gạo trện thò trường nội đòa, gây thiếu hụt tạm thời
lượng gạo hàng hóa xuất khẩu; (3) Hiệu quả kinh doanh rất kém, thiệt hại không chỉ ở người
nông dân mà các doanh nghiệp và ngân sách nhà nước.

iii

DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ THUẬT NGỮ


- ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long
- ĐBS Mê Kông: Đồng Bằng Sông Mê Kông
- IFPRI: International Food Policy Research Institute
(Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực quốc tế)
-USDA: United Sates Department of Agricullture
(Bộ Nông nghiệp Mỹ)
-EC: European Community (Cộng đồng chung châu Âu)
- VASEM: Vietnamese Agricultural Spatial Equilibrium Model (Mô
hình cân bằng không gian do IFPRI thực hiện trong dự án TA No.2224-VIE. )
ĐNÁ: Đông Nam Á
VA: Value added (Giá trò tăng thêm)
TO: Total output ( Doanh thu)
IC: Intermediate Consumption ( Tiêu thụ trung gian)
FAO : Food Agriculture Organization
(Tổ chức Lương Nông thế giới)





1
MỞ ĐẦU
Từ khi Việt Nam thực hiện cải cách quản lý kinh tế theo kinh tế thò trường có sự
quản lý của Nhà nước thì kinh tế Việt Nam có những bước nhảy vọt đáng kể, đặc biệt
là trong lónh vực sản xuất nông nghiệp. Đầu thập niên 90, Việt Nam đã xuất khẩu gạo
và từng bước đã chiếm vò trí một trong ba quốc gia đứng đầu về xuất khẩu gạo. Lượng
gạo xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là từ Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Do
đó trong chiến lược xuất khẩu gạo, chính phủ luôn có những chính sách ưu tiên cho
ĐBSCL như đầu tư thủy lợi, khuyến nông, giống, qui hoạch 1 triệu hec-ta lúa xuất
khẩu.
Việc thương mại lúa gạo ngày càng phát triển, mạng lưới tiêu thụ lúa gạo ngày
càng phát triển và từng bước hoàn chỉnh. Chính phủ đã chỉ đạo đầu tư 3 chợ gạo ở các
tỉnh Long An, Đồng Tháp và Tiền Giang.
Mặc dù có những chính sách hỗ trợ tầm vó mô của chính phủ, nhưng vẫn còn
nhiều bất cập trong sản xuất – chế biến - thương mại lúa gạo ở ĐBSCL như độ đồng
đều của lúa, gạo đưa vào chế biến xuất khẩu, vấn đề phơi sấy, kỹ thuật canh tác ….
Những vấn đề đó làm giảm hiệu quả và năng lực cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam.
Vấn đề then chốt để cho việc sản - xuất – chế biến – xuất khẩu gạo phát triển một
cách căn cơ, bền vững và tăng sức mạnh cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thò
trường thế giới là việc hình thành vùng nguyên liệu phục vụ cho chế biến và xuất khẩu.
Do đó việc đánh giá tổng quan hiện trạng sản xuất và hệ thống thương mại lúa gạo
xuất khẩu ở ĐBSCL là cần thiết để làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu xây dựng
vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu gạo.


2

1. Mục tiêu đề tài

+ Nghiên cứu tài liệu để tìm ra và hệ thống hóa những luận cứ nhằm làm cơ sở khoa
học cho các đề tài nghiên cứu các giai đoạn tiếp theo.
+ Hệ thống hóa các dữ liệu và thông tin có liên quan đến tình hình kinh tế – thương
mại lúa gạo khu vực ĐBSCL nói chung và thế giới nói riêng.
+ Phân tích thuận lợi và khó khăn của tình hình thương mãi lúa gạo trong thời gian qua,
hiện nay và thời gian tới ở ĐBSCL trong bối cảnh toàn cầu hóa.
+ Phân tích hiệu quả tài chính của kênh sản xuất lúa gạo. Đánh giá hiệu quả tác động
đến sản xuất và tiêu thụ lúa gạo.
+ Trên cơ sở những luận cứ khoa học, đề xuất ý kiến, luận đề nghiên cứu nhằm cải
thiện hệ thống sản xuất – thương mại lúa gạo có hiệu quả cạnh tranh cao nhất trong bối
cảnh thương mại hóa và toàn cầu hóa.

2 Câu hỏi nghiên cứu
1. Tổ chức của hệ thống thương mại lúa gạo ở vùng ĐBSCL như thế nào ? những
mặt mạnh và yếu điểm của hệ thống? Những hiệu chỉnh cần thiết trong quá trình
cạnh tranh quốc tế và tiến trình hội nhập?
2. Tình hình thương mại lúa gạo trong nước trong thời gian qua chi phối bởi các
yếu tố quyết đònh nào? Những thành công và thất bại?
3. Hiệu quả tài chính của các thành tố trong hệ thống thương mại lúa gạo? Những
vấn đề tài chính liên quan đến của hệ thống là gì?
4. Những luận cứ khoa học nào làm cơ sở xây dựng một hệ thống sản xuất –
thương mại lúa gạo có hiệu quả và tính cạnh tranh cao?


3
3. Phương pháp nghiên cứu
+ Sử dụng phương pháp tiếp cận lòch sử nhằm nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
sản xuất và thương mại lúa gạo trong thời gian qua, theo từng mốc thời điểm lòch sử và
chính sách quan trọng (liên quan đến các chính sách về xuất khẩu gạo, chính sách
ruộng đất,… )

+ Phương pháp tiếp cận hệ thống đặt nghiên cứu hiệu quả kinh tế của lúa gạo trong hệ
thống sản xuất, hệ thống canh tác, sinh thái nông nghiệp, trong bối cảnh công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước, toàn cầu hóa và thương mại hóa quốc tế.
+ Phương pháp quy nạp và ngoại suy dựa trên cơ sở số liệu và kết quả những nghiên
cứu trước ở một số tiểu vùng sinh thái sản xuất lúa ĐBSCL.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu và số liệu thứ cấp.
+ Phương pháp thống kê mô tả và phân tích chi phí lợi nhuận cũng như hiệu quả biên tế
cũng được sử dụng trong nghiên cứu này.

4

Chương 1
TỔNG QUAN ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vò trí đòa lý
Về vò trí đòa lý, ĐBSCL nằm ở tọa độ 8
o
35’ – 10
o
02’30’’vó độ Bắc và 104
o
25’ –
106
o
50’ kinh độ Đông. ĐBSCL giáp Campuchia hướng Tây Bắc, vùng Đông Nam Bộ
hướng Bắc – Đông Bắc, biển Đông hướng Đông – Đông Nam và vònh Thái Lan hướng
Tây. Bao gồm 12 tỉnh Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Vónh Long, Trà
Vinh, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.

ĐBSCL nằm trên con đường giao thương của Việt Nam với các nước Đông Nam
Á và các nước Châu Á-Thái Bình Dương, đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế
khu vực.
1.1.2. Khí hậu, khí tượng
ĐBSCL chòu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, ấm áp quanh năm, lượng
mưa khá lớn. Có hai mùa mùa rõ rệt trong năm: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11,
thònh hành gió mùa Tây Nam, có nhiều mưa, ẩm ướt, mùa khô từ tháng 11 đến cuối
tháng 4, thònh hành gió mùa Đông Bắc, ít mưa, khô hạn.
ĐBSCL có nền nhiệt độ cao và tương đối đồng đều. Nhiệt độ trung bình năm
khoảng 26,4– 27,
o
C. Tổng nhiệt độ năm 9.500 – 10.000
o
C. Chênh lệch giữa nhiệt độ
trung bình tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất 3-4
o
C . Biên độ nhiệt ngày đêm khoảng
7-8
o
C.

5
Bức xạ mặt trời ở ĐBSCL rất dồi dào và tương đối ổn đònh. Số giờ nắng trung
bình trong ngày cao: 7,2 giờ/ngày. Năng lượng bức xạ lớn: bình quân 150,8
Kcal/cm
2
/năm.
Độ ẩm trung bình năm ở ĐBSCL biến đổi theo mùa và theo vùng, khoảng 85%
trong mùa mưa và 70-80% trong mùa khô.
Do đòa hình khá bằng phẳng nên tòan vùng ĐBSCL có chế độ gió tương đối

giống nhau. Tốc độ gió trung bình năm khoảng 3,0 –3,9 m/giây. ĐBSCL ít khi có gió
bão xảy ra trực tiếp, tuy nhiên ảnh hưởng bão ở miền Trung thường gây mưa lớn ở
ĐBSCL. Khi bão đổ bộ vào vùng ven biển thường gây thiệt hại lớn do nước biển dâng
cao. Mùa mưa thường có các cơn giông có gió giật tốc độ lớn.
Lượng mưa ở ĐBSCL biến động khá lớn về không gian và thời gian. Lượng mưa
hàng năm đạt tới 1.600 – 2.800 mm (ở đảo Phú Quốc trên 3.000 mm). Lượng mưa phân
bố giảm dần theo hướng đi của gió mùa Tây Nam. Vùng ven vònh Thái Lan có lượng
mưa cao nhất trên 2.000 mm/năm. Đến dải đất ven biển Đông và trung tâm đồng bằng
về phía thành phố Hồ Chí Minh lượng mưa giảm đến dưới 1.400 mm/năm.
Trong mùa mưa, lượng mưa phân phối khá đều, đạt mức 200-300 mm/tháng, số
ngày mưa/tháng đạt từ 15 – 20 ngày.
1.1.3 Thủy văn
Chế độ thủy văn ĐBSCL chòu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động: dòng chảy
sông Mê Kông, thủy triều biển Đông, thủy triều biển Tây – vònh Thái Lan và chế độ
mưa ở ĐBSCL. Do chế độ mưa và lưu lượng trong sông thay đổi theo mùa rất rõ rệt,
chế độ thủy văn ở ĐBSCL cũng phân bổ theo các giai đọan thừa nước xen kẽ với các
giai đọan thiếu nước, mỗi giai đọan kéo dài khoảng nửa năm.

6
Chế độ thủy văn sông Mê Kông: lưu lượng đi vào lãnh thổ Việt Nam theo hai
chi lưu. Ở Tân Châu, lưu lượng chiếm 83% trong khi qua Châu Đốc, lưu lượng chiếm
chỉ có 13%. Tỷ lệ phân bổ này khá ổn đònh trong cả hai mùa mưa và mùa khô.
Sau sông Vàm Nao, một phần lớn lưu lượng sông Mê Kông được chuyển tải qua
sông Hậu nhờ sông Vàm Nao, tạo ra sự cân bằng về thủy lực cho các nhánh sông Cửu
Long. Đến Mỹ Thuận và Cần Thơ, lưu lượng nước giữa hai nhánh tương đối cân bằng ở
tỷ lệ gần 1/1.

Chế độ thủy văn mùa mưa
Do trùng hợp của mùa mưa và thời gian sông Mê Kông có lưu lượng lớn nhất,
lượng nước tự nhiên tập trung rất lớn trong mùa mưa, gây ra ngập úng một phần lớn

diện tích ĐBSCL. Tình trạng ngập lụt (mùa lũ) thường bắt đầu từ tháng 7 hoặc tháng 8
và kết thúc vào tháng 11 hoặc 12. Do mực nước trên sông giảm nhanh về phía hạ lưu
và khả năng chuyển tải của hệ thống sông tăng dần nên mức độ nguyên liệu lúa thấp
dần về phía hạ lưu. Nguyên liệu lúa ở ĐBSCL có những đặc trưng như sau:
- Lũ nội đồng ĐBSCL diễn ra hiền hòa hơn lũ ở thượng nguồn (biên độ lũ ở
Kratie có thể đạt đến 10m, trong khi biên độ lũ tại Tân Châu, Châu Đốc chỉ đạt
khoảng 3,5 – 4 m), lũ có cường suất nhỏ, trung bình 5 – 7 cm/ngày.
- Ngòai chảy theo sông chính, lũ còn vào ĐBSCL bởi các dòng chảy tràn qua biên
giới Việt Nam – Campuchia. Lượng nước này phụ thuộc vào độ lớn của lũ trên
sông chính, tình trạng ngập úng trước lũ và tình hình biến đổi mặt đệm của hai
vùng ngập chính là Đồng Tháp Mười (ĐTM) và Tứ Giác Long Xuyên (TGLX).
- Triều biển Đông không phải là yếu tố chính tạo nên lũ lớn nhưng là tác nhân
quan trọng làm gia tăng mức độ nguyên liệu lúa. Vào những năm lũ lớn, nếu

7
đỉnh lũ trùng với thời gian xuất hiện triều cường thì mực nước lũ sẽ tăng đáng
kể.
- Tình trạng nguyên liệu lúa ở phía Bắc ĐBSCL còn trầm trọng thêm do mưa lớn.
Ở phía Nam, lượng mưa lớn cũng dẫn đến ngập úng trên nhiều vùng đất nằm
ngòai khu vực nguyên liệu lúa do nước sông. Tình trạng này đặc biệt hay xảy ra
ở vùng Tây Nam của ĐBSCL, nơi có điều kiện tiêu thóat nước kém hơn.
Trong thời gian gần đây, do tác động của các dự án giao thông - thủy lợi chính
như thoát lũ ra vònh Thái Lan, nâng cao cao trình các tuyến giao thông chính ở vùng
biên giới Việt Nam – Campuchia và nội đòa, việc xây dựng các tuyến giao thông nhỏ,
các hệ thống bờ bao chống lũ, các kênh, rạch đã tạo ra các khu, ô trũng khá tách biệt
làm cho diễn biến nguyên liệu lúa càng thêm phức tạp. Lũ qua biên giới được dẫn về
ĐTM, TGLX nhiều hơn, nhanh hơn, đặc biệt vùng phía Tây TGLX, vùng đầu nguồn
thuộc Đồng Tháp, Long An và rất đồng bộ với lũ trên dòng chính tại Tân Châu và
Châu Đốc. Hệ quả là, nguyên liệu lúa tại ĐBSCL nghiêm trọng hơn do nước lũ buộc
phải truyền từ ô này sang ô khác, từ vùng cao xuống vùng thấp, thời gian ngập kéo dài

hơn.
Cơ chế dòng chảy biến đổi phức tạp hơn, xuất hiện vùng chảy với lưu tốc lớn,
hướng chảy khác so với trước đây. Ở một vài điểm, lưu tốc lớn nhất đạt đến trên 3,0
m/giây, tương tự như lưu tốc dòng lũ các sông vùng núi, gây ra xói lở và thiệt hại cho
các công trình xây dựng.
Dọc theo biên giới hình thành các vùng ứ nước khá rõ như tuyến Giang Thành,
Châu Đốc, Tân Châu, Hồng Ngự, Tân Hồng, Thanh Bình, Long Khốt. Nước đổ về vùng
ĐTM và TGLX nhanh hơn trước nhiều, gây ra ngập lụt sâu hơn, kéo dài hơn. Ngược
lại, nước lũ truyền về vùng hạ nguồn của TGLX lại ít hơn và chậm hơn, tạo điều kiện
cho dòng nước lũ theo sông nhiều phù sa chảy vào nội đồng.

8
Do việc xây dựng các vùng đê bao và nâng cao cao trình các tuyến giao thông,
độ sâu ngập lụt ở đồng bằng cũng có khác biệt nhiều giữa các vùng và có xu hướng
tăng, đặc biệt ở ĐTM. Thời gian nguyên liệu lúa cũng gia tăng.
Cơ chế tiêu thoát lũ ra biển tây, trở lại sông Tiền và sông Hậu, ra sông Vàm Cỏ
nhìn chung không thay đổi nhiều. Tuy nhiên, lượng nước từ ĐTM thóat ra sông Tiền lại
tăng đáng kể trong trận lũ năm 2000, trong khi lượng thóat theo sông Vàm Cỏ lại giảm.
Chế độ thủy văn mùa khô
Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 kéo dài đến tháng 6, lưu lượng bình quân sông Mê
Kông khoảng 6000 m
3
/giây, đặc biệt các tháng 3, 4 lưu lượng bình quân chỉ đạt trên
dưới 2000 m
3
/giây. Trong thời kỳ này thủy triều biển Đông dao động mạnh, với biên độ
2,5 – 4,0 m. Xâm nhập mặn sâu vào đồng bằng làm ảnh hưởng đến một vùng rộng lớn
với diện tích khoảng 2,1 triệu ha, thời gian ảnh hưởng mặn từ 1 đến 8 tháng tùy theo
khu vực. Do dòng chảy từ thượng nguồn giảm, mặn có thể xâm nhập sâu đến Hiệp Hòa
(Vàm Cỏ Đông), Tuyên Nhơn (Vàm Cỏ Tây), Mỹ Tho (sông Tiền) và An Lạc Tây

(sông Hậu).
Triều biển Đông là yếu tố cơ bản chi phối tỷ lệ dòng chảy ở ĐBSCL vào mùa
khô. Dọc theo biển Đông từ cửa Sòai Rạp qua 8 cửa sông Cửu Long đến cửa sông Gành
Hào, càng về phía Nam thì biên độ triều càng tăng lên và xuất hiện muộn hơn. Từ
Vũng Tàu đến Gành Hào biên độ triều tăng lên khoảng 0,4 m và chậm pha hơn gần 1
giờ.
Triều biển Đông có chế độ bán nhật triều không đều, trong 1 tháng có hai kỳ
triều cường và hai kỳ triều kém. Đỉnh triều trong năm lên cao vào tháng 12 và tháng 1,
xuống thấp vào tháng 6, 7.

9
Triều biển Tây có dạng nhật triều không đều, hàng ngày có một đỉnh cao và
nhọn, phần chân kéo dài và bò đẩy lên bởi một đỉnh thấp thứ hai. Biên độ triều vào
khoảng 0,8 – 1,0 m.
Triều biển Đông và biển Tây kết hợp ảnh hưởng đến một vùng diện tích khoảng
1,2 triệu ha ở Bán Đảo Cà Mau. Đồng thời, tương tác giữa triều hai biển tạo nên một
miền giao tiếp ở Kiên Giang và phía Tây Bạc Liêu – Cà Mau, thường được gọi là khu
vực giáp nước của triều biển Đông và biển Tây.
1.1.4 Đòa hình – đòa mạo và thổ nhưỡng
Đồng Bằng Sông Cửu Long được hình thành từ việc bồi tích vònh biển nông.
Dưới sự lắng đọng bồi đắp của phù sa sông, phù sa biển đã tạo cho ĐBSCL đòa thế cao
ở ven sông Tiền, sông Hậu và vùng ven biển nhưng những vùng xa sông chính, xa biển
nằm trong nội đòa ít được bồi đắp thì thấp trũng. Nhìn chung, ĐBSCL có đòa hình thấp
và khá bằng phẳng, có xu thế nghiêng theo hướng Đông Nam. Ngoại trừ khu vực đồi
và núi thấp thuộc tỉnh An Giang và Kiên Giang có cao độ từ 200 – 700m, phần còn lại
có cao độ dưới 5m. Đòa hình ĐBSCL có thể khái quát thành các nhóm cao độ chính như
sau:
- Thềm phù sa cổ dọc biên giới Việt Nam – Campuchia cao độ 2 – 5m, có xu
hướng thấp dần từ Tây Bắc đến Đông Nam.
- Các gò cao tự nhiên (vùng đê tự nhiên ven sông) dọc sông Tiền, sông Hậu cao

1-3m.
- Các giồng cát ven biển cao độ 1-3m.
- Các đồng bằng ngập lụt sông và ngập triều ven biển cao độ 0-1,5m.
Nhìn chung, ĐBSCL là vùng đất ngập nước, có chế độ ngập nước theo mùa.

10
Tổng diện tích của ĐBSCL không kể hải đảo khoảng 3,89 triệu ha. Ngoài vùng
núi sót và cụm núi đá vôi (An Giang, Kiên Giang) có cấu tạo đòa chất từ các móng đá
granit lộ cao, phần lớn diện tích đất có nguồn gốc phát sinh trầm tích.
Một phần diện tích thuộc vùng thềm cao ven biên giới Việt Nam – Campuchia
có nguồn gốc từ trầm tích phù sa cổ (Pleitocene). Phần lớn diện tích còn lại được hình
thành từ nhóm trầm tích trẻ (Holocene) hình thành trong các giai đọan biển tiến và
biển lùi. Trong quá trình biển lùi đã hình thành nhiều vùng đầm lầy biển có đủ điều
kiện tích lũy và tạo ra pyrit. Đây là lớp trầm tích tạo ra tầng sinh phèn của các khu vực
trũng thấp, nằm xa sông như Đồng Tháp Mười (ĐTM) và Tứ giác Long Xuyên
(TGLX).
Trong quá trình biển lùi, các tiến trình sông dần chiếm ưu thế. Sự bồi lắng phù
sa giúp mở rộng diện tích đồng bằng và các đồng bằng ven biển được hình thành. Ven
dòng chảy chính, các vật liệu thô lắng tụ tạo thành đê tự nhiên ven sông. Sau đê sông
là các bưng trũng, vật liệu trầm tích mòn, mức độ bồi tụ chậm, duy trì dạng đòa hình
thấp.
Quá trình kiến tạo của ĐBSCL vẫn tiếp tục diễn ra ở các cửa sông ở mũi Cà
Mau và Hà Tiên trong khi vùng bờ biển dọc theo biển Đông lại bò xói mòn.
Từ quá trình kiến tạo đòa chất và phát sinh thổ nhưỡng khác nhau, đất đai ở
ĐBSCL cũng có nhiều nhóm. Các nhóm đất chính ở ĐBSCL gồm:
- Đất phù sa sông: phân bố tập trung ở trung tâm ĐBSCL, ven và giữa sông Tiền,
sông Hậu. Diện tích khoảng 1,2 triệu ha chiếm tỷ lệ hơn 30% diện tích ĐBSCL,
có độ phì nhiêu cao, không có các yếu tố hạn chế nghiêm trọng và có khả năng
cho phép canh tác nhiều lọai cây trồng.
- Đất phèn: là nhóm đất có diện tích lớn nhất ở ĐBSCl, chiếm đến 1,6 triệu ha,

khoảng 40,6% tổng diện tích, tập trung chủ yếu ở các vùng ĐTM, TGLX là

11
nhóm đất phèn trong khi đất phèn nhiễm mặn phân bố chủ yếu ở vùng bán đảo
Cà Mau (BĐCM). Nhóm đất phèn bao gồm đất phèn hoạt động (1,18 triệu ha)
và đất phèn tiềm tàng (0,42 triệu ha). Nhóm đất này có độc tố sắt, nhôm cao,
khả năng canh tác kém và đòi hỏi cải tạo nhiều.
- Đất nhiễm mặn: có diện tích 0,74 triệu ha chiếm gần 19% diện tích ĐBSCL,
chòu ảnh hưởng mặn trong mùa khô. Nhóm đất mặn thường xuyên (0,15 triệu ha)
phân bố thành dải đất hẹp ven biển. Nhóm đất mặn theo từng thời kỳ nằm sâu
hơn trong nội đòa.
- Đất than bùn: có hơn 24.000 ha tập trung nhiều nhất ở vùng rừng U Minh (Kiên
Giang, Cà Mau).
- Đất xám: phân bố dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia thuộc các tỉnh
Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang. Diện tích khoảng 120.000-
135.000 ha tùy theo tài liệu nghiên cứu.
- Đất đồi núi: chiếm diện tích nhỏ ở khu vực núi Sót ở An Giang và Kiên Giang.
1.1.5 Tài nguyên sinh học
Đồng Bằng Sông Cửu Long có nhiều dạng sinh thái tự nhiên gồm các bãi triều,
giồng cát, đầm lầy ven biển, các vùng cửa sông, vùng nguyên liệu lúa, đồng trũng,
đầm lầy than bùn, đồi nút sót. Đất ngập nước theo mùa hoặc thường xuyên chiếm phần
lớn diện tích ĐBSCL. Các vùng ngập nước có các hệ sinh thái tự nhiên phong phú nhất.
Các hệ sinh thái tự nhiên của ĐBSCL gồm: rừng ngập mặn ven biển, rừng ngập nước
nội đòa và hệ sinh thái các vùng cửa sông.
- Rừng ngập mặn ven biển: vùng ven biển ĐBSCL nguyên thủy là vùng ngập
mặn lớn nhất Việt Nam. Đây là hệ sinh thái giàu tài nguyên sinh học và có chức
năng quan trọng trong việc ổn đònh và phát triển ĐBSCL.

12
- Đất ngập nước nội đòa: hạ lưu sông Mê Kông có một vùng rộng lớn ngập nước

theo chu kỳ. Thảm thực vật chính ở vùng này là rừng tràm. Hệ sinh thái rừng
tràm có ý nghóa quan trọng trong việc ngăn ngừa axit hóa đất, có vai trò to lớn
trong việc điều hòa khí hậu. Rừng ngập nước cũng là nơi cư trú của nhiều lọai
sinh vật hoang dã.
- Hệ sinh thái cửa sông: với 8 cửa sông lớn ở vùng cửa sông ĐBSCL có nhiều
lòai tôm cá và động vật khác, trong đó có nhiều loài có giá trò kinh tế cao.
Hệ động vật nguyên thủy ở ĐBSCL rất phong phú do có hệ sinh thái tự nhiên
rừng ngập mặn và rừng tràm. Tuy nhiên, chiến tranh và sự khai thác quá mức trong
những năm gần đây đã làm suy giảm đáng kể số lượng và số loài. Các nghiên cứu
trước đây đã thống kê hệ động vật ở ĐBSCL có 28 lòai có vú, 386 lòai thuộc bộ
chim, 35 loài bò sát, 6 lòai lưỡng cư và 260 loài cá (Quy họach tổng thể ĐBSCL –
Nedeco 6/1993).
1.2 Đặc điểm tự nhiên của một số vùng sinh thái nông nghiệp chính
Theo History and future of farming systems in the Mekong Delta – trong
Development of Farming Systems in the Mekong Delta of Vietnam, IIRCAS-CTU-
CLRRI, NXB TP.Hồ Chí Minh, 1998 ĐBSCL có 7 vùng sinh thái nông nghiệp là:
1. Vùng phù sa ngọt 900.000 ha
2. Vùng Đồng Tháp Mười 500.000 ha
3. Vùng Tứ giác Long Xuyên 400.000 ha
4. Vùng trũng ven Sông Hậu 600.000 ha
5. Vùng ven biển 800.000 ha
6. Vùng bán đảo Cà Mau 800.000 ha
7. Vùng đồi núi < 200.000 ha

13
Năm dạng đòa mạo chính của các vùng sinh thái sinh thái nông nghiệp này là (1)
đồng bằng nguyên liệu lúa, (2) phức hợp ven biển, (3) bồn trũng, (5) thềm phù sa cổ và
(5) đồi núi. Trong đó, dạng đòa mạo vùng nguyên liệu chính cung cấp gạo xuất khẩu
bao gồm:
1. Đồng lụt kín (phần lớn vùng Đồng Tháp Mười, không kể phần diện tích thuộc vùng

thềm phù sa cổ);
2. Đồng lụt hở (tương ứng với hầu hết vùng Tứ giác Long Xuyên);
3. Vùng phù sa ven sông Tiền giang và Hậu giang;
4. Vùng trũng Tây sông Hậu.
1.2.1. Vùng đồng bằng nguyên liệu lúa ven sông Tiền, sông Hậu:
Vùng đồng bằng nguyên liệu lúa ven sông Tiền, sông Hậu là một vùng rộng lớn
hơn 1,2 triệu ha, chiếm khoảng gần 30% diện tích ĐBSCL nằm ở khu vực trung tâm
Đồng Bằng. Phân bố dọc theo hai sông Tiền và sông Hậu, chạy dài từ biên giới (Tân
Châu – Hồng Ngự) đến khu vực ranh giới Cần Thơ – Sóc Trăng (Kế Sách), Vónh long
– Trà Vinh (Trà Cú – Càng Long), Tiền Giang – Bến Tre (Chợ Gạo – Châu Thành –
Cái Bè). Phía tả ngạn sông Tiền lấn sâu vào vùng ĐTM, phía hữu ngạn sông Hậu phân
bố sâu vào nội đồng.
Nhóm đất chính của vùng là đất phù sa ngọt phì nhiêu dọc theo sông Tiền và
sông Hậu, có nhiều phân lưu của dòng chính chảy qua. Hệ thống kênh rạch phát triển,
được phù sa bồi tụ hàng năm, đất đai màu mỡ. Đây là vùng nông nghiệp trù phú, có hệ
thống thủy lợi phát triển, canh tác nhiều loại cây trồng khác nhau, kể cả cây ăn trái.
Đại bộ phân diện tích cây hàng năm đã gieo trồng 2-3 vụ/năm.

14
Về đòa hình, vùng giữa hai sông có dạng lòng chảo, ven sông là đê tự nhiên,
thấp dần về phía nội đồng. Tương tự như vậy, vùng phía Tây sông Hậu và ven ĐTM
cũng có đòa hình cao ven sông và thấp dần về phía nội đồng.
Đây là vùng chòu ảnh hưởng lũ hàng năm. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng thay đổi
theo chiều dòng chảy. Càng gần về phía biên giới, ảnh hưởng nguyên liệu lúa càng
trầm trọng. Giáp với vùng đồng bằng ven biển, ảnh hưởng của ngập lụt rất ít. Trong
các năm gần đây, do sự phát triển của hệ thống đê bao, nhiều diện tích đất giữa hai
sông (vùng Chợ Mới, vùng kênh Thần Nông, vùng Bắc Măng Thít và các vùng cù lao)
đã được kiểm soát lũ hoàn toàn bằng hệ thống bao đê kín để bảo đãm sản xuất cây ăn
trái hoặc 3 vụ cây ngắn ngày.
Vùng ven phía Tây sông Hậu và ven ĐTM vẫn chòu ảnh hưởng nhiều của

nguyên liệu lúa, canh tác chủ yếu cây ngắn ngày trong thời gian không có nguyên liệu
lúa.
Bảng 1. Những vùng sinh thái nông nghiệp chính ở ĐBSCL

Vùng đòa lý Vùng sinh thái nông nghiệp Diện tích
(ha)
Tỉ lệ (%)
1/ Đồng bằng ngập
lụt
• Vùng đồng bằng nguyên liệu lúa ven sông Tiền,
sông Hậu
(Đồng lụt ven sông)
1.200.000 29,18
• Vùng trũng Đồng Tháp Mười (Đồng lụt kín) 496.000 13,1
• Vùng trũng Hà Tiên
(Đồng lụt hở )
217.580 5,50
2/ Đồng bằng ven
biển
• Đồng bằng ven biển cao 669.800 17,80
• Vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau
(Đồng bằng ven biển thấp)
648.000 16,30
• Vùng rừng U Minh (Trũng đồng bằng ven biển) 195.300 5,10
• Vùng đồng bằng ven biển ngập triều 216.000 5,40
3/ Thềm phù sa cổ • Vùng thềm phù sa cổ 123.500 3,00
4/ Đồi và núi • Vùng núi An giang 41.700
Nguồn: Chú Giải Bản Đồ Sinh Thái Nông Nghiệp Đồng Bằng Sông Cửu Long, Viện Qui Hoạch và Thiết
Kế Nông Nghiệp -năm 1987



15
1.2.2. Vùng đồng lụt kín Đồng Tháp Mười (ĐTM)
Vùng ĐTM được giới hạn bởi biên giới Việt Nam – Campuchia, sông Vàm Cỏ
Đông, Quốc Lộ 1 và sông Tiền. Diện tích tự nhiên chiếm 18% diện tích ĐBSCL bao
gồm đòa phận của ba tỉnh Đồng Tháp (31,55%), Long An (46,21%) và Tiền Giang
(22,21%).
ĐTM là một vùng đồng bằng trũng, có dạng đồng lụt kín. Phía Bắc là những dãi
thềm phù sa cổ kéo dài từ Nam Campuchia có cao trình 2-4m. Trung tâm vùng là lòng
máng trũng, thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, cao trình 0,4-0,75m. Kế đến
là lòng máng trũng kẹp giữa hai sông Vàm Cỏ, cao trình 0,3-0,4m.
ĐTM có các nhóm đất chính:
- Nhóm đất phù sa bao gồm phù sa cổ, phù sa glay và phù sa được bồi hàng năm
(34% diện tích).
- Nhóm đất phèn phân bố tập trung ở hai lòng máng, chiếm 39,27% diện tích.
- Nhóm đất xám chiếm 16,1% diện tích, tập trung ven biên giới.
- Các nhóm đất khác chiếm 9,92% diện tích.
Đất phèn tập trung chủ yếu ở đòa phận tỉnh Long An (66,06%), trong khi đất phù
sa tập trung nhiều ở tỉnh Đồng Tháp (46,06%) và Tiền Giang (36,94%). Ngược lại, đất
xám tập trung nhiều ở Long An.
Trong mùa nguyên liệu lúa, hầu hết diện tích ĐTM đều ngập lụt từ 4-6 tháng,
mức độ ngập sâu từ 2-4m. Ngược lại, trong mùa khô nước ngọt thiếu nghiêm trọng,
nước kênh rạch bò phèn hoặc nhiễm mặn do triều biển xâm lấn.
Do ảnh hưởng của nguyên liệu lúa ở ĐTM lớn và hạn chế về yếu tố đòa hình, đất
đai, sản xuất nông nghiệp ở vùng này còn gặp nhiều khó khăn. Ở các diện tích đất phù
sa ven sông, cây trồng chính là lúa hai vụ. Trên vùng lòng chảo trũng ngập, đất phèn
nặng, lúa được trồng chủ yếu một vụ Đông Xuân sau thời kỳ nguyên liệu lúa để tận

16
dụng nguồn nước ngọt. Trên một phần diện tích đất phèn nặng không kiểm soát lũ

được, tràm là cây lâm nghiệp được trồng phổ biến.
Hiện tại ĐTM có một hệ thống kênh mương khá phát triển, tuy nhiên mật độ
phân bố không đều: dày ở những nơi khai thác thuận lợi, thưa thớt ở những vùng khai
thác khó khăn. Hệ thống kênh ngang là các kênh trục, nối thông sông Tiền và sông
Vàm Cỏ Tây. Hệ thống kênh ngang này sử dụng khai thác dẫn nước sông Tiền cấp cho
vùng nội đồng và thóat nước theo hướng sông Vàm Cỏ. Hệ thống các kênh dọc là kênh
cấp 1 có nhiệm vụ chuyển nước và phân phối nước vào sâu nội đồng và thóat nước theo
hướng dọc.

1.2.3. Vùng đồng lụt hở Tứ Giác Long Xuyên (TGLX)
Vùng TGLX nằm ở phía Tây Bắc ĐBSCL. Diện tích tự nhiên không thống nhất
giữa các tài liệu phân vùng sinh thái, ước tính khoảng 400.000 ha. Có tài liệu ghi nhận
diện tích đến 490.000 ha. TGLX giáp biên giới Việt Nam –Campuchia về hướng Tây
Bắc, giáp sông hậu về hướng Đông Bắc, tỉnh Cần Thơ về hướng Đông Nam và vònh
Thái Lan về hướng Tây.
Trừ một số đồi núi rãi rác phía Tây Bắc và theo bờ biển từ Hà Tiên đến Hòn
Đất, đại bộ phận đất đai vùng TGLX có cao độ 0,25-2,0m.
Vùng ven biên giới và vùng ven sông Hậu là dải đất tương đối cao, cao độ trung
bình khoảng 1,5-2,0m.
Vùng ven bờ biển Tây là vùng đất thấp, có cao độ trung bình khoảng 0,25-0,5m.
Do đòa hình thấp lại nằm ở vùng đầu nguồn nên hầu hết vùng TGLX bò ngập lụt sâu với
độ sâu từ 0,5-3,0m với thời gian kéo dài từ 1-5 tháng. Diện tích ngập chiếm khoảng
93% diện tích tự nhiên.

17
Nhóm đất chính ở vùng TGLX là đất phèn, tập trung ở vùng trung tâm TGLX,
trong đó đất phèn nhẹ và trung bình chiếm phần lớn diện tích. Đất phù sa ngọt tập
trung ven sông Hậu, kéo dài từ Châu Đốc đến Long Xuyên. Rìa đất ven biển Tây cũng
là đất phèn nhẹ và trung bình nhưng bò nhiễm mặn trong mùa khô.
Phía tiếp giáp với sông Hậu có kênh rạch khá dày, chất lượng đất tốt hơn vùng

trung tâm nên phần lớn vùng này đã canh tác lúa hai vụ. Tuy nhiên vùng này bò nước lũ
tràn vào mạnh qua hai nguồn sông Hậu và tràn đồng qua biên giới. Độ ngập khá sâu từ
1-3m và thời gian ngập kéo dài 4-5 tháng.
Phía tiếp giáp với biển Tây sản xuất nông nghiệp chưa phát triển. Đất đai chua
phèn mới được khai thác gần đây.

1.2.4. Vùng Tây sông Hậu (TSH)
Vùng Tây sông Hậu (TSH) được giới hạn bởi kênh Cái Sắn ở phía Bắc, sông
Hậu ở phía Đông, sông Cái Lớn ở phía Tây và kênh Xà No ở phía Nam. Vùng TSH là
vùng đồng bằng, phẳng và thấp, hướng dốc từ sông Hậu vào, đa phần diện tích có cao
độ 0,6-0,8m. Vùng ven sông Hậu cao độ 1,0-1,5m, chiếm khoảng 26% diện tích. Vùng
trung tâm có hướng dốc từ Bắc xuống Nam.
Vùng TSH có hai nhóm đất chính là đất phù sa phân bố ven sông Hậu và đất
phèn nhẹ đến trung bình tập trung trong nội đồng.
Vùng TSH là vùng nguyên liệu lúa muộn và nông. Hàng năm bò ngập lụt từ 1-4
tháng. Độ ngập sâu nhất khoảng 1,0-1,5m ở phía Đông Bắc giáp sông Hậu; khoảng
0,8-1,2m ở vùng trung tâm và dưới 0,5m ở ven sông Cái Lớn và tỉnh Sóc Trăng.
Tùy theo mức độ nguyên liệu lúa hàng năm và đòa hình, khả năng kiểm sóat lũ,
cây lúa được canh tác từ 2-3 vụ một năm. Ở những nơi ngập nông và kiểm sóat lũ tốt,
cây ăn trái cũng phát triển mạnh.

18
1.3 Tình hình canh tác lúa theo vùng sinh thái nông nghiệp ở ĐBSCL
- Cây lúa là cây trồng chủ lực bao phủ hầu hết diện tích đất nông nghiệp
ĐBSCL. Khu vực ven hai sông Tiền và Hậu trải dài từ biên giới Việt Nam –
Campuchia đến giáp khu vực trung tâm đồng bằng, lan tỏa sang hai bên phủ
hầu hết vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) và Tứ giác Long Xuyên (TGLX) là
vùng lúa hai vụ chòu ảnh hưởng ngập lụt hàng năm. Xen kẽ giữa diện tích
canh tác lúa ở ĐTM và TGLX là các vùng canh tác khóm hoặc cây tràm trên
đất trũng, phèn nặng. Một số ít đất còn hoang hóa, chưa khai thác tập trung ở

phía Bắc Hà Tiên và phía Đông ĐTM. Riêng vùng cù lao giữa hai sông đã
được bao đê triệt để hoặc kiểm sóat lũ tốt, lúa hai ba vụ hoặc luân canh với
màu ngắn ngày là phổ biến.
- Khu vực trung tâm đồng bằng trải dài đến giáp vùng đồng bằng ven biển chòu
ảnh hưởng ngập lụt với mức độ thấp, khả năng kiểm soát lũ tốt hơn. Cây lúa
được canh tác 3 vụ. Dọc theo rìa sông có cao độ tương đối là diện tích cây ăn
trái tập trung, nhất là khu vực ven sông Tiền (Cao Lãnh - Đồng Tháp, Cái Bè
– Tiền Giang, Bến Tre, Vónh Long) và sông Hậu (Cần Thơ).
- Trên khu vực đồng bằng ven biển, cây lúa vẫn là cây trồng chủ đạo, chủ yếu
là Hè Thu-Mùa, Hè Thu-mùa cải thiện hoặc lúa mùa một vụ.
- Vùng rìa ven biển là diện tích nuôi tôm trải dài từ Long An đến mũi Cà Mau,
xen kẽ với ruộng muối và rừng ngập mặn ven biển. Diện tích nuôi tôm cũng
ăn sâu vào khu vực trung tâm Bán Đảo Cà Mau.
- Dọc theo bờ biển Tây thuộc Bán Đảo Cà Mau là vùng canh tác lúa mùa một
vụ xen canh với hệ thống cây ăn trái trên bờ bao, chủ yếu là dừa.



19

1.3.1. Vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM)
Cơ cấu sử dụng đất vùng ĐTM phản ánh xu thế phát triển nông nghiệp theo cả
hai hướng mở rộng diện tích và thâm canh hóa canh tác lúa là chủ yếu trong giai đoạn
hiện nay. Tỷ trọng đất lúa chiếm đến 83,3% đất trồng trọt trong khi đất cây lâu năm và
đất dành cho thủy sản chiếm tỷ trọng nhỏ. Các loại cây trồng được canh tác thích ứng
theo từng tiểu vùng cụ thể tùy theo mức độ ngập sâu hay nông.

Bảng 2. Cơ cấu sử dụng đất vùng Đồng Tháp Mười

1994 1998

Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ (%)
Đất Tự Nhiên
629.171 629.171
Đất Nông Nghiệp
329.262 100,0 415.260 100,0
Đất trồng trọt 325.885 99,0 413.728 99,6
Cây hàng năm 298.595 91,6 375.578 90,8
Đất lúa 253.954 324.106
• lúa 3 vụ 45.736 52.484
• lúa 2 vụ 172.824 248.298
• lúa 1 vụ 35.394 23.324
Đất lúa-màu 15.659 20.488
• 2 lúa - 1 màu 2.800 9.292
• 1 lúa - 2 màu 929 1.722
• 1 lúa - 1 màu 11.930 9.474
Đất cây hàng năm khác 28.982 30.984
Đất cây lâu năm 27.290 8,4 38.150 9,2
Cây CN lâu năm 930 930
Cây ăn quả 20.168 22.473
Cây lâu năm khác 6.192 14.747
Đất nuôi thủy sản 3.377 1,0 1.532 0,4
Nguồn: Trung Tâm Nghiên Cứu Kinh Tế Miền Nam, 1999

Các loại cây trồng chính ở vùng Đồng Tháp Mười có thể thấy là:

×