Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.61 KB, 59 trang )


LỜI NÓI ĐẦU

Sự phát triển của Việt Nam cũng như của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) khác
được đánh dấu bằng sự chuyển hướng trong tư tưởng,nhận thức của các Đảng va Nhà
Nước về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đường đi lên CNXH.Ở Việt Nam,từ sau
những năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 15 năm,đó thực sự chỉ là một khoảng thời
gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc,một đất nước.
Tuy nhiên,trong 15 năm đó,Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển vượt
bậc.Từ một nước nghèo đói va thiếu ăn quanh năm,luôn phải trông chờ vào các khoản
viện trợ,trợ giúp của các nước khác,Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng
thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan).Các nghành sản xuất Công-Nông Nghiệp và Dịch Vụ
đã đạt được những thành quả đáng kể,đời sống của nhân dân được cải thiện vv...Có được
sự phát triển đó,như trên đã nêu,chính là nhờ sự đổi mới trong nhận thức,tư duy về
CNXH và con đường
đi lên CNXH .Trong số những nhận thức đó,đặc biệt quan trọng,là sự đổi mới trong nhận
thức về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận nói chung cũng như sự đánh giá lại vai trò
của lợi nhuận trong công cuộc xây dựng CNXH nói riêng .Đảng và Nhà Nước ta đã
khẳng
định rằng chỉ dựa trên cơ sở có những hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc,bản chất và vai
trò của lợi nhuận thì chúng ta mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển,sớm đưa Việt
Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xây dựng thành công
CNXH.
Vậy thì lợi nhuận là gì?Nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận?Vai trò của lợi nhuận trong
việc phát triển nền kinh tế là như thế nào?Những câu hỏi nay không phải dến bây giờ
mới được đặt ra mà từ rất lâu rồi con người đã có nhiều những quan điểm khác nhau về
lợi nhuận.Từ những quan điểm của các trường phái lý luận trước Mác cho đến những

1
trường phái lý luận ngày nay,mỗi trường phái đều có những luận điểm,học thuyết của
mình để trả lời những câu hỏi đó.Trong số những quan điểm đó,học thuyết của Chủ


Nghĩa Mác(CN Mác),được xây dựng trên nền tảng lý luận giá trị thặng dư(GTTD),đã
giải thích được một cách đầy đủ,chính xác và khoa học nhất về nguồc gốc,bản chất và
vai trò của lợi nhuận.Chính vì vậy mà toàn bộ học thuyết của CN Mác nói chung và
những lý luận về lợi nhuận của CN Mác nói riêng đã được Đảng ta coi là cơ sở lý luận
quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Hơn nữa,do những hạn chế về mặt lịch sử cho nên dù các học thuyết này có đúng đến
mấy cũng luôn đòi hỏi phải được vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện hoàn cảnh của
mỗi quốc gia .Chính vì vậy mà đề án này,không chỉ phân tích nguồn gốc,bản chất của lợi
nhuận trong quan điểm của một số các trường phái từ trước đến nay,đặc biệt là học
thuyết của Mác , xem xét tới vai trò của lợi nhuận như là một động lực cơ bản của nền
kinh tế thị trường(KTTT) mà còn xem xét tới quá trình vận dụng lý luận vào thực tiễn ở
nước ta để thấy được rõ nét hơn vai trò động lực của lợi nhuận.
Trong phạm vi cho phép của bàiviết và do hiểu biết còn hạn chế nên bài viết này khó
tránh khỏi những sai sót .Vì vậy,em rất mong nhận được sự chỉ dẫn,giúp đỡ của thầy
giáo để em có được những nhận thức đúng đắn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.


2
PHẦN I : Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận

I/ Quan điểm về lợi nhuận trong các học thuyết phi Mác-xít:


1/Quan điểm của trường phái Trọng Thương về lợi nhuận:
Về mặt hoàn cảnh lịch sử,Chủ Nghĩa Trọng Thương(CNTT) được ra đời vào thời kỳ
tích luỹ nguyên thuỷ của giai cấp tư bản.Ở giai đoạn này,vấn đề được quan tâm hàng đầu
và mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đó là tiền.Mọi cá nhân,mọi tổ chức,thậm chí là
mọi quốc gia đều tìm mọi cách để tích trữ thật nhiều tiền,như nhận xét của Engels sau
này thì

"các dân tộc chống đối nhau như những kẻ bủn xỉn,hai tay ôm khư khư túi tiền quí báu,
nhìn sang người láng giềng với con mắt ghen tỵ,đa nghi".
Do được hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử như vậy cho nên toàn bộ học thuyết
của CNTT nói chung và quan điểm về lợi nhuận nói riêng đều được xây dựng trên cơ sở
đồng nhất giá trị với tiền bạc và lấy đối tượng nghiên cứu của Kinh Tế Chính Trị(KTCT)
là lĩnh vực lưu thông,coi KTCT "là khoa học về của cải thương mại mà nhiệm vụ của nó
là bán nhiều mua ít".Chính vì vậy,CNTT cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông,do
sự mua bán trao đổi mà sinh ra.Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều ,mua rẻ bán đắt
mà có.Họ cho rằng muốn có đượclợi nhuận thì không có cách nào khác ngoài việc trao
đổi buôn bán.
Về vai trò của lợi nhuận thì CNTT đã khẳng định rằng lợi nhuận luôn là mục tiêu của
mọi hoạt động trao đổi mua bán trên thị trường.Điều này được thể hiện qua việc một
quốc gia phải luôn đảm bảo xuất siêu như Thomas Mun đã viết:" Chúng ta phải thường
xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho người nước ngoài với số lượng hàng
hoá lớn hơn số lượng chúng ta phải mua của họ".Còn đối với các thương nhân thì mục
tiêu của họ luôn là mua rẻ bán đắt nhằm thu được phần lợi nhuận chênh lệch.

3
Nhìn chung thì các quan điểm về lợi nhuận của CNTT,cũng như các quan điểm khác
của họ,chưa có được sự nhận thức,phân tích mang tính khoa học sâu sắc ,chưa mang tính
quy luật.Tuy nhiên,các quan điểm này cũng đóng vai trò khá quan trọng, làm tiền đề cho
các học thuyết kinh tế sau này.


2/Quan điểm của trường phái Tư Sản Cổ Điển về lợi nhuận:
Có thể nói rằng,trong giai đoạn trước Mác,trường phái Tư Sản Cổ Điển(TSCĐ) là
trường phái tiến bộ nhất.Đây cũng là một trong ba trường phái được Mác chọn làm tiền
đề lý luận cho học thuyết của mình.Sở dĩ trường phái TSCĐ được đánh giá cao như vậy
là do đây là trường phái đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu của KTCT từ lĩnh vực lưu
thông sang lĩnh vực sản xuất.Đó cũng là lần đầu tiên các nhà kinh tế học không dừng lại

ở việc nghiên cứu,xem xét hiện tượng bên ngoài mà đã sử dụng phương pháp trừu tượng
hoá khoa học để đi sâu vào nhận thức,phân tích nhằm tìm ra bản chất và tính quy luật
của các sự vật,hiện tượng đồng thời xây dựng một hệ thống các phạm trù như giá trị,giá
cả,lợi nhuận vv...
Được hình thành trong giai đoạn đầu của Chủ Nghĩa Tư Bản(CNTB),trường phái
TSCĐ đã có một số những đại biểu kiệt xuất như W.Petty,A.Smith,D.Ricardo,vv...Quan
điểm của các đại biểu này về lợi nhuận vừa mang tính kế thừa người đi trước vừa mang
tính sáng tạo mà trong đó có một số quan điểm nổi bật về lợi nhuận cuả phái Trọng
Nông,A.Smith hay D.ricardo mà ta sẽ xem xét sau đây.
Trước tiên là phái Trọng Nông,mặc dù thừa nhận quy luật giá trị tuy nhiên họ lại cho
rằng chỉ có lao động trong nông nghiệp mới tạo ra giá trị,tạo ra cái mà họ gọi là sản
phẩm thuần tuý còn lao động trong các nghành nghề khác như trong công nghiệp hay
thương nghiệp thì không tạo ra giá trị.Sở dĩ như vậy,theo họ giải thích,là do trong nông
nghiệp ngoài sức lao động của chính mình ra thì người nông dân còn được sự trợ giúp
của thiên nhiên.Vì vậy mà lợi nhuận,theo quan điểm của họ,chính là phần thu nhập
không lao động của nhà tư bản do người nông dân tạo ra.Ở đây,mặc dù còn hạn chế khi
cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần tuý tuy nhiên trường

4
phái Trọng Nông đã có một đóng góp quan trọng đó là bước đầu tìm ra nguồn gốc của
cái gọi là sản phẩm thuần tuý,xét về bản chất chính là GTTD.Ngoài ra,trong lý luận của
phái Trọng Nông,đã xuất hiện những mầm mống tư tưởng về lợi nhuận bình quân và xu
hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận.
Đến A.Smith,người được coi là đại biểu của trường phái TSCĐ trong thời kỳ công
trường
thủ công,thì đã có những bước tiến đáng kể về lý luận so với phái Trọng Nông.Ông
khẳng định rằng không chỉ lao động trong nông nghiệp mà tất cả mọi hình thức lao động
khác cũng đều tạo ra giá trị và lao động chính là thước đo của giá trị.Dựa trên quan điểm
đúng đắn về giá trị lao động,A.Smith đã đưa ra những lý luận của mình về lợi nhuận.Ông
cho rằng phần giá trị mà người lao động tạo ra được phân chia thành tiền lương trả cho

người lao động,địa tô trả cho địa chủ và lợi nhuận trả cho nhà tư bản.Nói như vậy có
nghĩa là nếu như ta coi địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất thì lợi nhuận chính là khoản
khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động và chúng đều có chung một nguồn
gốc là lao động không dược trả công của người lao động.Xét về mặt lượng thì địa tô và
lợi nhuận chính là những khoản dôi ra ngoài tiền lương của người lao động còn xét về
mặt chất thì chúng phản ánh quan hệ bóc lột của tư bản và địa chủ đối với người lao
động.Ông chỉ rõ rằng " Khi sở hữu TBCN xuất hiện,người công nhân trở thành lao động
làm thuê thì tiền lương của họ không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ
sản xuất ra nữa,mà chỉ là một bộ phận của giá trị đó".Ngoài ra,A.Smith cũng đã thấy
được xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút
do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
D.Ricardo đã kế thừa một cách xuất sắc những tư tưởng của A.Smith.Là người sống
trong thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp nên D.Ricardo đã có được những điều
kiện khách quan để tiếp tục phát triển học thuyết của A.Smith.Về lợi nhuận,D.Ricardo
cho rằng lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho người công
nhân.Tiến bộ hơn A.Smith,Ricardo không những đã thấy được xu hướng giảm sút của tỷ
suất lợi nhuận bình quân mà còn giải thích được nguyên nhân của sự giảm sút là do sự
vận động , biến đổi của thu nhập giữa ba giai cấp địa chủ,công nhân và nhà tư bản.Ông

5
giải thích rằng do trong nông nghiệp có tồn tại quy luật màu mỡ của đất đai ngày càng
giảm,vì vậy,giá cả của nông phẩm sẽ ngày càng tăng lên làm cho tiền công của công
nhân và địa tô của địa chủ cũng tăng lên trong khi lợi nhuận của nhà tư bản thì không
tăng theo.Do vậy mà tỷ suất lợi nhuận sẽ ngày càng giảm xuống,gây thiệt hại cho nhà tư
bản.Tuy nhiên, đây chỉ là những luận giải được thiết lập trên cơ sở những quan sát bên
ngoài sự vật,hiện tượng chứ không hề mang tính khoa học.Chỉ đến khi Chủ Nghĩa Mác-
Lênin(CN M-L) xuất hiện,với việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả
biến,mới giải thích được đúng đắn quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần.
Trên đây,chúng ta đã xét tới một số trường phái lý luận trước Mác,các trường phái này
đều là các trường phái có những quan điểm tiến bộ ,về lợi nhuận nói riêng và về các

phạm trù kinh tế học khác nói chung,đặc biệt là trường phái TSCĐ.Những quan điểm
này đều đã đạt được những thành tựu nhất định mặc dù vẫn còn rất nhiều hạn chế.Sở dĩ
như vậy là do các học thuyết này phát sinh vào giai đoạn đầu mới hình thành của CNTB
, lúc này mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản chưa gay gắt lắm còn mâu
thuẫn cơ bản của xã hội lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa tư sản và địa chủ.Hơn nữa,vào lúc
đó,chưa có một học thuyết nào,đứng về phe giai cấp công nhân,được hình thành để giải
quyết mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và chủ tư bản.Chính vì vậy cho nên các nhà lý
luận của giai cấp tư bản mới có thể đưa ra các học thuyết ít nhiều còn mang tính khoa
học.
Tuy nhiên,trong giai đoạn sau của CNTB,sự phát triển của CNTB đã bắt đầu bộc lộ
ngày càng rõ nét những mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.Đã bắt đầu
có những xung đột ngày càng gay gắt về quyền lợi giữa hai giai cấp được thể hiện qua
các hiện tượng xã hội như khủng hoảng,thất nghiệp,sự phá sản của sản xuất nhỏ hay quá
trình bần cùng hoá giai cấp vô sản vv...Các phong trào đấu tranh của công nhân bùng nổ
ngày càng nhiều.Đặc biệt là từ sau khi xuất hiện CN M-L ,với vai trò như một lý luận chỉ
đường cho giai cấp công nhân,chỉ ra sứ mệnh lịch sử của họ trong việc xoá bỏ và thay
thế PTSX TBCN bằng một PTSX tiến bộ hơn,PTSX XHCN ,thì sức ép lên giai cấp tư
sản ngày càng tăng.Chính vì vậy,trong giai đoạn này,các nhà lý luận của giai cấp tư bản
đã ra sức xuyên tạc,bẻ cong những lú luận đúng đắn trước kia và đưa ra những lý luận

6
sai lầm nhằm giải thích các hiện tượng xã hội kể trên với mục đích che dấu bản chất bóc
lột của CNTB.Do đó
các học thuyết hình thành trong thời kỳ này nói chung và các lý luận về lợi nhuận nói
riêng không còn mang tính khoa học nữa.Sau đây chúng ta sẽ xem xét một số trường
phái như vậy,trên cơ sở phân tích các lý luận về lợi nhuận để thấy rõ bản chất phi khoa
học của các học thuyết này.


3/Quan điểm về lợi nhuận của trường phái Hậu Cổ Điển:

Trường phái Hậu Cổ Điển(HCĐ),mặc dù xuất hiện ngay sau trường phái TSCĐ nhưng
các nhà lý luận của trường phái HCĐ lại hoàn toàn xa rời những lý luận cuả trường phái
TSCĐ.Họ rời bỏ phương pháp trừu tượng hoá khoa học,không đi sâu vào phân tích bản
chất của sự vật,hiện tượng mà chỉ xem xét hời hợt bên ngoài.Đặc biệt là họ đã áp dụng
phương pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh tế,"coi KTCT là khoa học nghiên cứu
về đạo đức xã hội".Hơn nữa,họ lại xa rời lý thuyết về giá trị lao động và đưa ra các lý
luận về giá trị ích lợi hay giá trị các nhân tố sản xuất vv...Ta có thể thấy được điều đó
qua các học thuyết của một số đại diện tiêu biểu cho trường phái này như R.Malthus và
J.B.Say.
Đối với Malthus,trên cơ sở quan điểm sai lầm của A.Smith về giá trị,ông đã phát triển
lên và cho rằng:"Giá trị của hàng hoá do lao động mà hàng hoá đó có thể mua được bằng
những chi phí để sản xuất ra nó.Các chi phí này bao gồm chi phí về lao động sống,chi
phí về lao động vật hoá cộng với lợi nhuận tư bản ứng trước".Như vậy là dựa trên quan
điểm sai lầm về giá trị,Malthus đã đưa ra quan niệm sai lầm về lợi nhuận,coi lợi
nhuận"là khoản dôi ra ngoài chi phí về lao động sống và lao động vật hoá".Với quan
niệm này về lợi nhuận
vô hình chung,Malthus đã dẫn tới một cách giải thích sai lầm về nguồn gốc của lợi
nhuận,cho rằng không chỉ sức lao động của người công nhân mà cả các công cụ lao động
và đối tượng lao động cũng tham gia vào quá trình hình thành lợi nhuận.

7
Còn theo J.B.Say,người ủng hộ quan điểm giá trị ích lợi,thì cho rằng ích lợi của vật
quyết định giá trị của nó,ích lợi càng cao thì giá trị của vật càng lớn,coi ích lợi là thước
đo của giá trị.Dựa trên cơ sở thuyết giá trị ích lợi,Say đã đưa ra lý thuyết về ba nhân tố
sản xuất.Ông cho rằng có ba nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất là lao động,đất đai
và tư bản,mỗi nhân tố có ích lợi riêng và tạo ra những phần giá trị tương ứng.Do vậy,Say
đã coi lợi nhuận như là phần giá trị của hàng hoá được tạo ra do ích lợi của tư bản,có
nghĩa là ,coi lợi nhuận như là hiệu suất đầu tư của tư bản.Luận điểm này tất yếu dẫn tới
việc cho rằng những máy móc tham gia vào quá trình sản xuất cũng tham gia vào quá
trình tạo ra giá trị chứ không phải chỉ riêng lao động của công nhân mới tạo ra giá

trị.Hơn nữa,Say còn cho rằng lợi nhuận là tiền lương của nhà quản lý kinh doanh,là phần
thưởng cho những nhà đầu tư dám mạo hiểm.Ta có thể thấy rằng đó hoàn toàn là những
quan điểm sai lầm.


4/Quan điểm về lợi nhuận của trường phái Cổ Điển Mới:
Xuất hiện trong giai đoạn bắt đầu sự chuyển đổi từ CNTB tự do cạnh tranh sang
CNTB độc quyền,đặc biệt là được hình thành sau khi CN Mác ra đời,trường phái Cổ
Điển Mới (CĐM) ra đời nhằm mục đích biện hộ cho CNTB trước những hiện tượng kinh
tế mới phát sinh như tình trạng độc quyền và những hậu quả về mặt xã hội của nó
vv...Ngoài ra nó còn có một nhiệm vụ khác là phê phán CN Mác,phủ nhận những lý luận
khoa học của Mác về bản chất bóc lột của giai cấp tư bản,sự diệt vong tất yếu của CNTB
và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vv...nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư
sản.Ủng hộ tư tưởng tự do cạnh tranh,áp dụng phép phân tích vi mô nền kinh tế,kế thừa
và tiếp tục phát triển lý thuyết giá trị tâm lý chủ quan là các đặc điểm nổi bật của trường
phái CĐM.Dựa trên các đặc điểm cơ bản đó thì mỗi đại biểu của trường phái CĐM lại có
những quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Với J.B.Clark,ông đã phát triển lý thuyết 'ích lợi giới hạn' lên thành lý thuyết 'năng
suất giới hạn' và từ đó đưa ra lý thuyết 'năng lực chịu trách nhiệm' của các nhân tố sản
xuất.Ông cho rằng thu nhập là năng lực chịu trách của các nhân tố sản xuất,cụ thể là,tiền
lương là năng lực chịu trách nhiệm của lao động,địa tô là năng lực chịu trách nhiệm của

8
đất đai còn lợi nhuận là năng lực chịu trách nhiệm của tư bản.Nói như vậy có nghĩa là lợi
nhuận,thực chất,được coi là tiền lương trả cho nhà sản xuất-kinh doanh.Hoặc như Alfred
Marshall thì lại coi lợi nhuận như là khoản tiền thù lao thuần túy cho năng khiếu quản lý
kinh doanh,sử dụng tư bản và năng lực tổ chức hoạt động sản xuất.
Nhìn chung,các quan điểm về lợi nhuận của một số trường phái phi Mácxit kể
trên,mặc dù có một số trường phái có những quan điểm tiến bộ,đặc biệt là các trường
phái trước Mác, nhưng chúng vẫn chưa thể có được tính chính xác và khoa học một cách

trọn vẹn.Sở dĩ như vậy là vì các quan điểm này được xây dựng trên cơ sở những luận
điểm,hoặc là chưa đúng đắn,chính xác hoặc là sai lầm hoàn toàn,về giá trị.Vì vậy mà
ngay cả những nhà tư tưởng tiến bộ nhất của trường phái TSCĐ cũng chưa thể xác định
được đầy đủ và chính xác về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.Chỉ đến khi CN Mác
xuất hiện,trên cơ sở kế thừa và phát triển tiếp tục những quan điểm đúng đắn của các
trường phái trước đó,mới có thể giải thích một cách khoa học,chính xác và đầy đủ về
nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.


II/Quan điểm về lợi nhuận trong học thuyết của Mác:

Như trên đã phân tích,chỉ đến khi CN Mác xuất hiện thì nguồn gốc và bản chất của lợi
nhuận mới được làm sáng tỏ thông qua các học thuyết kinh tế của CN Mác.Dựa trên việc
kế thừa những tư tưởng tiến bộ,khoa học của các trường phái lý luận trước đó,Mác đã
sáng tạo ra học thuyết của mình mà trong đó,nổi bật và có vai trò như "một hòn đá tảng"
trong toàn bộ học thuyết chính là những lý luận về giá trị thặng dư(GTTD).Dựa cơ sở
đó,Mác đã phân tích và làm sáng tỏ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận cũng như đã
giải thích được sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận bình quân và bản chất của quy luật tỷ
suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần.Ngoài ra,Mác cũng đã thấy được và phân tích một
cách khoa học sự phân chia của lợi nhuận thành các hình thức khác nhau như lợi nhuận
công nghiệp(LNCN),lợi nhuận thương nghiệp(LNTN),lợi tức cho vay(LTCV),lợi nhuận
ngân hàng(LNNH),địa tô(ĐT) và cuối cùng là lợi nhuận độc quyền(LNĐQ).

9
Sau đây,chúng ta sẽ lần lượt xem xét các vấn đề trên trong học thuyết của Mác.


1/Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:
Để thấy được sự hình thành của lợi nhuận,trước tiên ta hãy xem xét về khái niệm mà
mác gọi là chi phí sản xuất(CPSX).

Như chúng ta đã biết,giá trị của hàng hoá được cấu thành nên từ chi phí cho lao động
trong quá khứ,chi phí cho lao động sống và phần giá trị mới được tạo ra trong quá trình
sản xuất.Tuy nhiên,đối với nhà tư bản thì họ không quan tâm tới sự cấu thành của giá trị
hàng hoá mà họ chỉ quan tâm tới việc phải bỏ ra bao nhiêu tư bản và sẽ thu lại được cái
gì.
Để tiến hành sản xuất ra một sản phẩm thì trên thực tế nhà tư bản sẽ phải ứng tư bản ra
để mua các tư liệu sản xuất(TLSX),được ký hiệu là (c), và để thuê lao động,được ký hiệu
là (v).Toàn bộ phần tư bản này được gọi là tư bản ứng trước(TBƯT).Tuy nhiên,theo Mác
thì không phải toàn bộ phần TBƯT này đều được chuyển dịch hết vào giá trị của hàng
hoá mà chỉ có một phần lượng tư bản được dùng để ứng trước cho TLSX và toàn bộ
lượng tư bản được dùng để ứng trước cho lao động là cấu tạo trực tiếp nên giá trị của
hàng hoá. Phần giá trị này được Mác gọi là CPSX ,được ký hiệu là (k) và được biểu diễn
dưới công thức:
k=c+v
Với sự hình thành khái niệm CPSX,nhà tư bản đã bước đầu che dấu được sự hình
thành của giá trị thặng dư(GTTD) và tạo điều kiện để hình thành nên khái niệm lợi
nhuận.Có thể thấy rõ được điều này qua việc nghiên cứu những phân tích của Mác về
công thức của CFSX trên.
Trước tiên,ta hãy xen lại định nghĩa của Mác về GTTD.Theo Mác thì "giá trị thặng dư
là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm
không".Như vậy,theo Mác thì GTTD chính là phần lao động không được trả công của
người công nhân mà nhà tư bản đã chiếm đoạt,điều đó có nghĩa là GTTD (hay chính là

10
phần giá trị mới) dược tạo ra bởi lao động của người công nhân.Nói cách khác,chính lao
động của người công nhân và chỉ duy nhất một mình nó là tạo ra GTTD.Lý luận về
GTTD của Mác đã vạch trần bản chất bóc lột của CNTB,chỉ rõ nguồn gốc sự giàu có của
CNTB nói chung và của nhà tư bản nói riêng chính là nhờ chiếm đoạt GTTD.
Tuy nhiên,với sự hình thành khái niệm CPSX (k=c+v) thì nguồn gốc và bản chất bóc
lột của GTTD đã bị che lấp.Ở đây,dường như phần giá trị mới được tạo ra là do tác động

của toàn bộ lượng tư bản mà nhà tư bản đã ứng ra.Có nghĩa là,cả bộ phận tư bản bỏ vào
lao động (v) và bộ phận tư bản bỏ vào TLSX (c) đều có vai trò như nhau trong việc tạo
ra phần giá trị mới,như Mác đã viết:"Bộ phận tư bản bỏ vào lao động,khác với bộ phận
tư bản bỏ vào TLSX,vào bông hay than chẳng hạn,ở chỗ là nó được dùng để trả tiền cho
một yếu tố sản xuất khác về mặt vật chất,chứ hoàn toàn không phải là vì,do chức năng
của nó,nó đã đóng một vai trò khác trong quá trình sáng tạo ra giá trị của hàng hoá và do
đó trong quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị".Như vậy là,với sự hình thành khái
niệm CPSX ,vô hình chung đã xoá đi sự khác nhau giữa tư bản bất biến(TBBB) và tư
bản khả biến(TBKB) trong chức năng sáng tạo ra giá trị.
Như vậy,phần giá trị mới,được tạo ra trong quá trình sản xuất,nếu coi là phần dôi ra
ngoài giá trị sức lao động do người công nhân tạo ra thì được gọi là GTTD còn nếu,vẫn
với lượng giá trị đó,mà được đem so sánh với toàn bộ tư bản ứng trước thì sẽ mang hình
thức chuyển hoá là lợi nhuận.Vậy,xét cho cùng,lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái
chuyển hoá của GTTD," một hình thái mà PTSX TBCN tất nhiên phải đẻ ra" nhằm che
đậy bản chất bóc lột của nó.
Nếu ký hiệu lợi nhuận là (p) thì công thức giá trị của hàng hoá trước là : gt=c+v+m
nay sẽ chuyển thành :gt=k+p,với k (=c+v) chính là CPSX để tạo ra hàng hoá.Từ công
thức này,ta có thể thấy rằng CPSX của một hàng hoá luôn nhỏ hơn giá trị thực tế của
hàng hoá đó một lượng đúng bằng phần GTTD được tạo ra.Như vậy,nếu hàng hoá được
bán đúng với giá trị của nó thì nhà tư bản sẽ thu về được một khoản lợi nhuận đúng bằng
phần GTTD (m) chứa đựng trong hàng hoá đó.Tuy nhiên,nhà tư bản cũng vẫn có thể bán
một hàng hoá nhất định nào đó với giá cả nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị thực tế của
nó.Chừng nào mà giá bán vẫn còn cao hơn CPSX để sản xuất ra hàng hoá đó thì nhà tư

11
bản còn thu được lợi nhuận.Chính vì vậy đã làm cho lợi nhuận dường như là kết quả của
hoạt động kinh doanh, do tài nghệ kinh doanh của nhà tư bản tạo ra.Đây cũng chính là
nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và tồn tại của một số quan điểm sai lầm về lợi nhuận
mà ta đã nghiên cứu ở phần trên.



2/Tỷ suất lợi nhuận,tỷ suất lợi nhuận bình quân,giá cả sản xuất và quy luật tỷ suất lợi
nhuận có xu hướng giảm dần :
Như trên chúng ta đã phân tích,lợi nhuận thực chất chỉ là một hình thức biến tướng
của GTTD.Tuy nhiên,đối với nhà tư bản thì họ không quan tâm,không cần biết đến điều
đó.Khi tiến hành một hoạt động sản xuất hàng hoá,mục tiêu của nhà tư bản không phải là
hàng hoá được sản xuất ra cũng không phải là giá trị sử dụng của hàng hoá đó.Cái mà
nhà tư bản cần là cái phần giá trị mới thừa ra so với toàn bộ phần tư bản đã tiêu dùng,nó
được nhà tư bản gọi dưới cái tên là lợi nhuận.Mặc dù cái đích cuối cùng của mọi hoạt
động sản xuất-kinh doanh của nhà tư bản là lợi nhuận tuy nhiên nhà tư bản lại chẳng
quan tâm xem phần lợi nhuận đó được tạo ra từ đâu,từ TBBB hay từ TBKB vv...Đối với
nhà tư bản,lợi nhuận được tạo nên từ toàn bộ phần tư bản đã tiêu dùng,đúng như Mác đã
viết :"...nhà tư bản trông mong là tất cả các bộ phận của tư bản mà hắn ứng ra đều sẽ
đem lại lợi nhuận như nhau cả ".Từ quan niệm trên đã nảy sinh khái niệm về tỷ suất lợi
nhuận.Theo định nghĩa của Mác thì "Tỷ suất lợi nhuận (p') là tỷ số tính theo phần trăm
giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước".Ta có : p'=(m/(c+v))*100%.
Với sự xuất hiện khái niệm tỷ suất lợi nhuận,ta có thể thấy rằng,một lần nữa bản chất
bóc lột của CNTB lạiđược che dấu đi.Nếu như tỷ suất GTTD (m') đã phản ánh được sự
bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê,là thước đo trình độ bóc lột của giai
cấp tư sản thì tỷ suất lợi nhuận,đơn thuần,chỉ phản ánh mức lãi của việc đầu tư tư bản,nó
chỉ cho nhà tư bản biết nên đầu tư vào đâu thì có lợi hơn.
Trên đây,chúng ta đã nghiên cứu,xem xét về sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận cũng
như vai trò của nó trong phản ánh mức lãi của hoạt động đầu tư.Tuy nhiên,tỷ suất lợi
nhuận chỉ phản ánh trong phạm vi một nghành sản xuất,mỗi nghành có một tỷ suất lợi

12
nhuận riêng.Còn trong nền kinh tế TBCN với sự đa dạng về nghành nghề thì tất yếu dẫn
tới sự hình thành khái niệm tỷ suất lợi nhuận bình quân.Sở dĩ hình thành khái niệm này
là do trong nền kinh tế TBCN luôn tồn tại sự cạnh tranh,đó là hình thức đấu tranh gay
gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhauvề

TLSX,nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá.Trong nền kinh tế TBCN,do chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN cho nên sự tồn tại tình
trạng cạnh tranh là tất yếu dưới hai dạng là cạnh tranh trong nội bộ nghành và cạnh tranh
giữa các nghành.Mỗi hình thức cạnh tranh sẽ đem lại một kết quả khác nhau.Với cạnh
tranh trong nội bộ nghành,kết quả cuối cùng là làm cho tỷ suất lợi nhuận của nghành
giảm xuống.Còn cạnh tranh giữa các nghành thì lại dẫn tới sự hình thành nên tỷ suất lợi
nhuận bình quân.Sở dĩ như vậy là do,như ta đã biết,mỗi nghành sản xuất có một tỷ suất
lợi nhuận riêng rất khác nhau,nó phụ thuộc vào cấu tạo hữu cơ của lượng tư bản đầu tư
vào các nghành đó.Do đó,luôn tồn tại những nghành mà ở đó có tỷ suất lợi nhuận cao
hơn các nghành khác mà tỷ suất lợi nhuận của một nghành phản ánh mức lãi đạt được
nếu đầu tư vào nghành đó.Chính vì vậy mà các nhà tư bản sẽ đua nhau rút tư bản ra khỏi
những nghành có tỷ suất lợi nhuận thấp để đầu tư vào những nghành có tỷ suất lợi nhuận
cao.Và kết quả của sự di chuyển tự do,liên tực này là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận
bình quân.
Vậy "Tỷ suất lợi nhuận bình quân chính là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị
thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực,các
nghành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ".Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p' thì ta có :
p'=
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân đã dẫn tới sự biến đổi từ giá trị hàng hoá
thành giá cả sản xuất.Giá cả sản xuất được định nghĩa "bằng chi phí sản xuất cộng với
lợi nhuận bình quân".Ta có : giá cả sản xuất = k + p .
Ta có thể thấy rằng,trước đây,khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả
xoay quanh giá trị của hàng hoá.Giờ đây,với việc hình thành khái niệm giá cả sản xuất
thì giá cả của hàng hoá lại xoay quanh giá cả sản xuất.Đã từng có một số nhà kinh tế học
tư sản,dựa vào sự thật là giá cả sản xuất trong một số nghành không phù hợp với giá trị

13
của hàng hoá trong các nghành đó,để hòng bác bỏ lý luận giá trị lao động của Mác.Tuy
nhiên,cần phải thấy rằng quy luật giá trị vẫn hoàn toàn đúng đắn trong giai
đoạnTBCN,giá trị vẫn đóng vai trò là cơ sở là nội dung bên trong của giá cả sản xuất.Nói

cách khác,giá cả sản xuất thực chất chỉ là mộthình thức biến tướng của giá trị mà thôi.
Ta có thể thấy rõ được điều đó qua một số phân tích sau:
Một là,tổng số lợi nhuận của toàn bộ giai cấp tư sản thì đúng bằng với tổng số GTTD
do lao động không công của giai cấp công nhân tạo ra.Và do đó,tỷ suất lợi nhuận bình
quân cao hay thấp là do lượng GTTD được tạo ra trong xã hội quyết định.Sở dĩ như vậy
vì,như trên đã phân tích,nguồn gốc của lợi nhuận chỉ có thể xuất phát từ lao động không
công của công nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt chứ không thể từ một nguồn gốc nào
khác.Các nhà tư bản,như Mác nói,sẽ không thể bóc lột lẫn nhau,bóc lột trên lưng nhau
được.
Hai là, mặc dù trên thực tế,trong một số nghành,giá cả sản xuất của một hàng hoá có
thể cao hơn giá trị của nó trong khi ở một số nghành khác thì giá cả sản xuất của hàng
hoá lại thấp hơn giá trị của nó.Nhưng xét về tổng thể,trên phạm vi toàn xã hội,thì tổng số
giá cả sản xuất vẫn đúng bằng tổng số giá trị của tất cả hàng hoá.
Ba là,giá trị của một hàng hoá biến động tăng hoặc giảm cũng sẽ kéo theo sự biến động
tương ứng của giá cả sản xuất của hàng hoá đó.
Nói tóm lại,Mác đã giải thích được một cách chính xác và khoa học về nguồn gốc,bản
chất của lợi nhuận cũng như các khái niệm khác liên quan tới lợi nhuận,đặc biệt là những
khái niệm về tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.Điều này thể hiện sự tiến bộ
vượt trội của học thuyết kinh tế của Mác so với các học thuyết kinh tế khác.Hơn thế nữa,
không chỉ lý giải về sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận bình quân mà Mác còn giải thích
và chứng minh một cách đúng đắn và khoa học về quy luật tỷ suất lợi nhuận giảm
dần.Một quy luật mà mặc dù một số nhà lý luận của trường phái TSCĐ như A.Smith hay
D.Ricardo tuy đã nhận thức được về sự hiện diện của quy luật này nhưng vẫn chưa thể
giải thích được nó một cách đúng đắn và khoa học.

14
Mác đã chứng minh rằng sự tồn tại của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm
dần là do sự tăng lên của TBBB so với tổng tư bản đã dẫn tới sự giảm sút một cách
tương đối của TBKB so với tổng tư bản.Kết quả là TBBB sẽ tăng lên một cách tương đối
so với TBKB và do đó làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng giảm dần.Sở dĩ có hiện tượng

TBBB tăng lên tương đối so với TBKB,theo Mác giải thích, là do "...sự phát triển ngày
càng nhanh chóng của CNTB đã đem lại những phương pháp sản xuất mới cho phép vẫn
một số lượng công nhân như thế,vẫn một khối lượng sức lao động như thế do một khối
lượng tư bản khả biến nhất định thuê mướn, cùng trong một khoảng thời gian như thế,lại
sẽ vận động được một khối lượng tư liệu lao động,máy móc và các loại tư bản cố định
ngày càng lớn..." .Ta sẽ xem xét một ví dụ dưới đây để có thể thấy rõ hơn về lý luận trên
:
Giả sử có một lượng TBBB v=100 ; tỷ suất giá trị thặng dư m'=100%
do đó lượng GTTD tương ứng sẽ bằng m'*v = 100%*100=100
Sau đây,với sự tăng lên dần của TBBB (c),ta sẽ thấy rằng tỷ suất lợi nhuận (p') sẽ giảm
dần xuống.Ta có p'=m/(c+v) và nếu :
c=50 ,v=100 thì : p'=100/(50+100)=66,666%
c=200,v=100 thì : p'=100/(200+100)=33,333%
c=300,v=100 thì : p'=100/(300+100)=25%
c=400,v=100 thì : p'=100/(400+100)=20%
Như vậy là,với một lượng TBKB (v) và một trình độ bóc lột (m') không thay đổi thì sự
tăng lên dần của lượng TBKB (c) sẽ gây ra sự giảm dần của tỷ suất lợi nhuận p'.
Mặt khác,có thể nói rằng,nguyên nhân sâu xa của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu
hướng giản dần chính là sự tăng dần của năng suất lao động xã hội(NSLĐXH).Với nền
đại công nghiệp của CNTB , NSLĐXH ngày càng được nâng cao.Điều đó cho phép một
số lượng ít hơn về lao động có thể vận động được một khối lượng máy móc ngày càng
nhiều hơn để biến một lượng,cũng ngày càng nhiều hơn,các TLLĐ thành sản phẩm hàng

15
hoá.Nói khác đi,trong cơ cấu giá trị của hàng hoá thì phần TBBB (c) ngày càng tăng
trong khi phần TBKB (v) thì ngày càng giảm.Và vì vậy,mặc dù trình độ bóc lột là không
giảm nhưng tỷ suất lợi nhuận vẫn ngày càng giảm.
Tuy nhiên,cần phải thấy rằng,như Mác đã khẳng định,sự đúng đắn của quy luật tỷ suất
lợi nhuận giảm dần không có nghĩa là lượng GTTD,hay chính là lượng lao động không
được trả công mà nhà tư bản chiếm đoạt của người công nhân,không tăng lên một cách

tuyệt đối.Sở dĩ như vậy là do nhà tư bản không ngừng nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư
cũng như không ngừng tăng thêm tổng số lao động bị tư bản bóc lột.Hơn thế nữa,quy
luật này còn làm cho nhà tư bản càng tăng cường bóc lột công nhân tới mức tối đa nhằm
kìm hãm xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận.Ngoài ra,nó còn làm cho cuộc tranh
giành phân chia tổng khối lượng lợi nhuận ngay trong nội bộ giai cấp tư bản cũng diễn ra
ngày càng gay gắt.
Không chỉ có vậy mà trong nỗ lực tìm mọi cách kìm hãm xu hướng giảm dần của tỷ
suất lợi nhuận và nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận,nhà tư bản đã đua nhau đầu tư tư
bản ra nước ngoài đặc biệt là các quốc gia kém phát triển nơi có nguồn nhân công giá rẻ
và cấu tạo hữu cơ của tư bản thấp hơn so với các nước phát triển.Ở các nước này,bọn tư
bản ra sức vơ vét,bóc lột nhân dân các nước thuộc địa.Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa
các nước tư bản phát triển và các nước chậm tiến,giữa chính quốc và các nước thuộc địa
ngày càng gay gắt.
Ngoài ra,với tham vọng tăng thêm lợi nhuận để bù đắp vào chỗ giảm sút lợi nhuận do xu
hướng giảm sút lợi nhuận gây ra,nhà tư bản đã tăng cường mở rộng quy mô sản xuất,đẩy
sức cung của thị trường vượt xa khỏi giới hạn nhu cầu của người mua.Đây là một trong
các nguyên nhân dẫn tới các cuộc khủng hoảng thừa,loại khủng hoảng đặc trưng của
CNTB.
Nói tóm lại,có thể thấy rằng,quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần không
chỉ đơn thuần phản ánh xu hướng giảm dần của tỷ suất lợi nhuận trong xã hội tư bản mà
nó còn làm cho những mâu thuẫn nội tại của CNTB ngày càng trở nên sâu sắc và từ
đó,chỉ ra các hạn chế mang tính chất lịch sử của PTSX TBCN .Vì vậy,việc giải thích một
cách khoa học sự hình thành cũng như các tác động của quy luật tỷ suất lợi nhuận giảm

16
dần trong xã hội tư bản đã làm cho học thuyết kinh tế của Mác nói riêng và toàn bộ hệ
thống lý luận của Mác nói chung tăng thêm tính khoa học và phù hợp với thời đại.Những
lý luận này góp phần làm sáng tỏ những hạn chế mang tính lịch sử của CNTB.Nó chỉ ra
rằng tới một lúc nào đó thì những mâu thuẫn nội tại của CNTB cũng như những hạn chế
lịch sử của nó sẽ làm cho PTSX TBCN trở thành một trở ngại ngăn cản,kìm hãm sự phát

triển của LLSX và vì vậy,tất yếu tới một lúc nào đó,CNTB sẽ bị diệt vong và thay thế nó
sẽ là một xã hội khác tiến bộ hơn.


3/ Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận:
Học thuyết kinh tế của Mác xét về hoàn cảnh ra đời đã có một số ưu thế thuận lợi hơn
các học thuyết kinh tế trước đó. Ra đời trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của CNTB vì
vậy học thuyết kinh tế của Mác không chỉ giải thích được nguồn gốc,bản chất của lợi
nhuận mà còn thấy được những hình thái biểu hiện khác của lợi nhuận. Sở dĩ như vậy là
do cùng với quá trình phát triển của mình,CNTB không ngừng tăng cường sự chuyên
môn hoá và hợp tác hoá trong xã hội. Do vậy, nếu trước kia trong xã hội chỉ tồn tại tư
bản trong lĩnh vực sản xuất Công nghiệp thì nay đã được phân chia ra cả các lĩnh vực
khác như Thương nghiệp, tín dụng và cả trong Nông nghiệp nữa . Trên cơ sở sự phân
chia đó của tư bản, học thuyết của Mác cũng đã chỉ ra được sự phân chia tương ứng của
lợi nhuận. Nếu trước đây, toàn bộ phần giá trị thặng dư bị nhà Tư bản Công nghiệp
chiếm đoạt hết thì nay phần giá trị thặng dư đó lại được chia cho các lĩnh vực khác nữa
và từ đó dẫn tới sự hình thành của lợi nhuận Thương nghiệp, lợi tức cho vay và địa tô Tư
bản Chủ nghĩa.
Tuy nhiên, mặc dù lợi nhuận Công nghiệp, lợi nhuận Thương nghiệp, lợi tức cho vay
và địa tô Tư bản Chủ nghĩa đều có cùng nguồn gốc là phần giá trị thặng dư do lao động
không công của người lao động tạo ra, đều là các hình thức biểu hiện khác nhau của lợi
nhuận nhưng mỗi một hình thức lại có một số đặc điểm riêng khác biệt với các hình thức
khác. Để thấy rõ được điều này,sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu, xem xét lần lượt từng
hình thức này.

17
a/ Lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận Thương nghiệp:
Trước tiên, xét trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hóa ta sẽ thấy tồn tại hai
dạng tư bản là tư bản Thương nghiệp và tư bản Công nghiệp và tương ứng với chúng là
hai hình thức lợi nhuận, lợi nhuận Thương nghiệp và lợi nhuận Công nghiệp . Không

phải chỉ tới CNTB thì mới tồn tại hai dạng tư bản cũng như hai hình thái lợi nhuận này.
Nhưng trong các xã hội trước CNTB thì hai dạng tư bản này hoàn toàn độc lập với nhau.
Nhà tư bản sau khi sản xuất ra sản phẩm rồi phải tự mình mang sản phẩm ra thị trường
để tiêu thụ do đó toàn bộ tư bản của họ ban đầu không chỉ được đầu tư vào mỗi quá trình
sản xuất mà còn phải chi phí cho cả quá trình bán hàng do vậy lợi nhuận của nhà tư bản
Công nghiệp sẽ bị giảm đáng kể.Còn tư bản Thương nghiệp trong giai đoạn này,hay còn
được gọi là Thương nghiệp cổ xưa với chức năng lưu thông hàng hoá dựa trên cơ sở
“mua rẻ, bán đắt” và vì vậy lợi nhuận Thương nghiệp lúc này thực chất là kết quả của
việc “ăn cắp và lừa đảo”. Ta có thể thấy rõ điều này qua quan điểm của trường phái trọng
thương, cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá , cho rằng “không
một người nào thu được lợi mà không làm thiệt kẻ khác”.
Nhưng trong giai đoạn TBCN,do nhu cầu của sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá thì
Công nghiệp và Thương nghiệp hay nói rộng hơn là quá trình sản xuất và lưu thông
không thể tách biệt độc lập mà đã trở nên phụ thuộc, gắn kết lẫn nhau. Lúc này thì tư bản
Thương nghiệp, thực chất “là một bộ phận của tư bản Công nghiệp tách rời ra, phục vụ
qúa trình lưu thông hàng hoá của nhà tư bản Công nghiệp”. Khi đó, với sự hình thành
của tư bản Thương nghiệp thì cả tư bản Công nghiệp và tư bản Thương nghiệp đều thu
được những lợi ích mà được thể hiện ra là lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận Thương
nghiệp. Đối với tư bản Thương nghiệp, mặc dù chỉ tham gia vào lĩnh vực lưu thông, tức
là chỉ tham gia vào việc thực hiện giá trị, trong đó có giá trị thặng dư, chứ không hề tham
gia vào quá trình sản xuất ra giá trị nhưng vẫn thu được một phần lợi nhuận. Phần lợi
nhuận này được gọi là lợi nhuận Thương nghiệp. Nếu chỉ xét tới vai trò của tư bản
Thương nghiệp là thực hiện giá trị của hàng hoá mà tạm thời bỏ qua chức năng tiếp tục
quá trình sản xuất trong lĩnh vực lưu thông của nó thì đúng là tư bản Thương nghiệp
không hề tạo ra giá trị và giá trị thặng dư do vậy nhìn bề ngoài có thể lầm tưởng lợi
nhuận Thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt mà có . Tuy nhiên,lợi nhuận Thương nghiệp

18
thực chất, “là một phần giá trị trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà
nhà tư bản Công nghiệp nhường cho nhà tư bản Thương nghiệp”.

Sở dĩ nhà tư bản Công nghiệp chịu nhường và phải nhường một phần của thặng dư mà
mình chiếm đoạt được hay một phần lợi nhuận của mình cho nhà tư bản Thương nghiệp
là do:
Thứ nhất, với việc hình thành bộ phận tư bản Thương nghiệp chuyên trách việc lưu
thông hàng hoá thì tư bản Công nghiệp đã thu được nhiều lợi nhuận hơn so với khi mà tư
bản Công nghiệp phải đảm nhiệm cả việc lưu thông hàng hoá. Ngay cả khi phải chia sẻ
một phần lợi nhuận cho tư bản Thương nghiệp thì phần lợi nhuận còn lại vẫn nhiều hơn
cho nên nhà tư bản có thể nhường một phần lợi nhuận nhằm duy trì bộ phận tư bản
Thương nghiệp.
Thứ hai là, như trên đã phân tích, nếu chỉ xét tư bản Thương nghiệp với vai trò thuần
tuý là thực hiện giá trị thì tư bản Thương nghiệp không hề tạo ra một chút giá trị nào, tức
là hoạt động đó sẽ không mang lại một chút lợi nhuận nào cho nhà tư bản Thương
nghiệp. Do vậy,nếu muốn tư bản Thương nghiệp tiếp tục đảm nhiệm việc tiêu thụ hàng
hóa, thực hiện gia trị thì nhà tư bản Công nghiệp buộc phải nhường một phần giá trị
thặng dư cho tư bản Thương nghiệp.
Ngoài ra,sự chuyên môn hoá này còn góp phần mở rộng qui mô tái sản xuất,mở rộng
thị trường, tạo điều kiện cho Công nghiệp phát triển. Hơn nữa, tuy không trực tiếp tạo ra
giá trị thặng dư nhưng tư bản Thương nghiệp lại góp phần làm tăng năng suất lao động,
tăng lợi nhuận và do đó, làm cho tỷ suất lợi nhuận chung của xã hội tăng.
Như vậy, khái quát lại thì lợi nhuận Thương nghiệp có nguồn gốc từ phần giá trị thặng
dư được tạo ra trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên lợi nhuận đó được thực hiện như thế
nào? Do tư bản Thương nghiệp chỉ tham gia vào quá trình lưu thông cho nên lợi nhuận
Thương nghiệp chính là phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá.Nhưng nói
thế không có nghĩa là nhà tư bản Thươnh nghiệp phải mua hàng hoá với đúng giá trị của
nó để rồi bán cao hơn giá trị nhằm thu lợi nhuận chênh lệch. Mà thực chất thì nhà Tư bản
Thương nghiệp

19
sẽ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và bán đúng bằng giá trị của hàng hoá. Nguyên nhân
của hiện tượng này là do sự hình thành một tỉ suất lợi nhuận bình quân mới là bình quân

các tỉ suất lợi nhuận của hai nghành Công nghiệp và Thương nghiệp. Ta có thể thấy rõ
điều này khi phân tích ví dụ sau:
Một nhà Tư bản Công nghiệp có một lượng tư bản là 800 với cấu tạo: 700c + 100v
với tỉ suất giá trị thặng dư: m’ = 100% => giá trị hàng hóa là: 700c + 100v + 100 = 900
Tỉ suất lợi nhuận nghành Công nghiệp sẽ là:
P’
CN
= 100/800 * 100% = 12,5%
Bây giờ,nếu có thêm một nhà tư bản Thương nghiệp bỏ ra 200 để mua hàng hoá =>lúc
đó ta có tỉ suất lợi nhuận bình quân sẽ bằng:

100
*100% = 10%

800 + 200
Theo tỉ suất lợi nhuận chung mới này thì phần lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận
Thương nghiệp tương ứng sẽ bằng:
LnCN = 800 * 10% = 80
LnTN = 200 * 10% = 20
Khi đó nhà tư bản Thương nghiệp sẽ mua hàng hoá từ nhà tư bản Công nghiệp với giá
thấp hơn giá trị:
800 + 80 = 880 (<900)
và sẽ bán với giá đúng bằng giá trị và thu được lợi nhuận Thương nghiệp:
880 + 20 = 900
Như vậy là, với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận chung giữa hai ngành Công nghiệp và
Thương nghiệp thì lợi nhuận Thương nghiệp đã được thực hiện. Với sự xuất hiện của lợi

20
nhuận Thương nghiệp trong xã hội tư bản,đã hình thành nên hai loại giá cả sản xuất là
giá cả sản xuất Công nghiệp và giá cả sản xuất thị trường. Nó cũng góp phần che dấu

thêm một mức nữa quan hệ bóc lột TBCN.

b/ Lợi tức cho vay và lợi nhuận ngân hàng:
Như trên đã phân tích,tư bản Thương nghiệp là một bộ phận tư bản Công nghiệp tách
ra, phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của nhà tư bản Công nghiệp. Còn tư bản cho
vay, thực chất cũng là một bộ phận của tư bản Công nghiệp được tách ra nhưng là
để,một mặt vừa đáp ứng nhu cầu về tư bản,mặt khác là để thoả mãn sự thèm khát lợi
nhuận của nhà tư bản. Sau đây, ta sẽ tiến hành xem xét nguồn gốc hình thành của tư bản
cho vay để làm rõ thêm điều đó.
Trước hết, cần phải thấy rằng trong quá trình chu chuyển của tư bản, có nhiều lúc, nhà
tư bản Công nghiệp hoặc Thương nghiệp có một số tư bản tiền tệ nhàn rỗi, ví dụ như tiền
trong quỹ khấu hao tái sản cố định, tiền dùng để mua nguyên nhiên liệu, vật liệu nhưng
chưa tới kỳ mua.... Nếu nhà tư bản chỉ để tiền ở dạng nhàn rỗi, không hoạt động như vậy
thì lượng tiền đó sẽ không mang lại cho nhà tư bản một thu nhập nào.Mà đối với nhà tư
bản thì tiền phải đẻ ra tiền,bất cứ một đơn vị tư bản nào cũng phải mang lại lợi nhuận.
Do vậy mà nhà tư bản nẩy sinh ý định đem lượng tư bản nhàn rỗi đó cho người khác vay
để kiếm lời.
Mặt khác, cũng chính trong những thời gian đó, lại có những nhà tư bản lại đang rất
cần tiền, ví dụ như đang cần mua nguyên nhiên vật liệu để tiếp tục sản xuất nhưng lại
chưa bán được hàng hoá, cần tiền để đổi mới tài sản cố định nhưng quỹ khấu hao không
đủ... Do đó, những nhà tư bản này tất yếu có nhu cầu vay tư bản của người khác.
Như vậy là cùng một lúc vừa có những nhà tư bản có nhu cầu đi vay lại vừa có những
nhà tư bản có nhu cầu cho vay. Và tất yếu sẽ hình thành nên mối quan hệ tín dụng TBCN
và nhà tư bản Công nghiệp có tư bản nhàn rỗi sẽ trở thành nhà tư bản cho vay.
Vậy tư bản cho vay "là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người
khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó". Đặc điểm nổi bật của
tư bản cho vay là nó không thuộc sở hữu của nhà tư bản sử dụng nó vào sản xuất. Có

21
nghĩa là khi nhà tư bản cho vay cho người khác vay một lượng tư bản tiền tệ là chỉ cho

người đó quyền sử dụng lượng tư bản tiền tệ đó chứ không cho quyền sở hữu lượng tư
bản đó. Do vậy mà ở tư bản cho vay thì quyền sử dụng và quyền sở hữu được tách rời
nhau, đây cũng là sự khác biệt căn bản của tư bản cho vay với tư bản Công nghiệp và tư
bản Thương nghiệp.
Như trên đã phân tích, nhà tư bản cho vay cho người khác sử dụng lượng tư bản tiền tệ
nhàn rỗi của mình không phải do lòng tốt hay vì một cái gì khác mà chỉ đơn thuần là để
kiếm lời. Chính vì vậy mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay một số tiền
nào đó, khoản tiền này được gọi là lợi tức và nó dược trích từ phần lợi nhuận thu được
của nhà tư bản đi vay sau khi anh ta sử dụng lượng tư bản đi vay vào quá trình sản xuất.
Vậy lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư
bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử
dụng. Như vậy thì xét cho cùng nguồn gốc của lợi tức chính là phần giá trị thặng dư mà
nhà tư bản Công nghiệp chiếm đoạt của người lao động.
Với sự hình thành của tư bản cho vay và tương ứngvới nó là lợi tức cho vay thì lúc
này phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản Công nghiệp và tư bản Thương nghiệp
thu được không còn thuộc hoàn toàn về họ mà phần lợi nhuận bình quân đó được chia ra
thành lợi tức cho vay là khoản đem trả cho nhà tư bản cho vay, phần còn lại sau khi trả
lợi tức được gọi là thu nhập của chủ xí nghiệp. Lượng lợi tức đem trả nhiều hay ít tuỳ
theo quan hệ cung cầu về tư bản cho vay và nó phụ thuộc vào tỉ suất lợi tức, là tỉ lệ phần
trăm giữa tổng số lợi tức và tổng số tư bản tiền tệ cho vay.
Nếu kí hiệu lợi tức là Z còn tỉ suất lợi tức là Z’ thì ta có:
Z’ = ( Z/tư bản cho vay) * 100%
Phần lợi tức cao hay thấp là do tỉ suất lợi tức quy định,đến lượt nó thì tỉ suất lợi tức lại
bị quy định bởi các yếu tố:
Giới hạn cao nhất của tỉ suất lợi tức chính là tỉ suất lợi nhuận bình quân do vậy mà sự
thay đổi của tỉ suất lợi nhuận bình quân cũng dẫn tới sự thay đổi thuận chiều tương ứng

22
của tỉ suất lợi tức. Cũng chính vì vậy cho nên,vì tồn tại quy luật giảm dần của tỉ suất lợi
nhuận do đó tỷ suất lợi tức cũng có xu hướng giảm dần.

Tỉ suất lợi tức phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu về tư bản cho vay.
Nói tóm lại,xuất phát từ việc nảy sinh mối quan hệ tín dụng TBCN cho nên đã nảy
sinh các nhu cầu cho vay và đi vay đã dẫn tới sự hình thành tư bản cho vay và lợi tức cho
vay. Tuy nhiên, quan hệ tín dụng TBCN ở thời kỳ này mới chỉ ở dạng đơn giản mang
tính trực tiếp, tức là nhà tư bản cho vay thiết lập trực tiếp mối quan hệ tín dụng với nhà
tư bản đi vay. Nhưng cùng với sự phát triển của CNTB thì nhu cầu đi vay và cho vay
ngày càng nhiều, các quan hệ tín dụng trong xã hội tư bản trở nên trồng chéo, phức tạp.
Do vậy đã đòi hỏi phải xuất hiện một tổ chức đóng vai trò trung gian để đơn giản hoá các
quan hệ tín dụng này. Đó chính là ngân hàng TBCN, là một tổ chức kinh doanh tư bản
tiền tệ, đóng vai trò môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Ngân hàng thực hiện
chức năng môi giới này thông qua hai nghiệp vụ cơ bản của nó là nghiệp vụ cho vay và
nghiệp vụ nhận gửi. Với nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng thu hút tiền vốn vào quỹ của nó
bằng cách tập hợp các tư bản và thu nhập nhàn rỗi không hoat động. Còn với nghiệp vụ
cho vay, ngân hàng cho các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh,tức là các nhà tư bản Công
nghiệp và tư bản Thương nghiệp vay tư bản tiền tệ để sử dụng hay nói khác đi nghiệp vụ
cho vay là nghiệp vụ phân phối và sử dụng những tư bản ngân hàng có được qua nghiệp
vụ nhận gửi.
Trong nghiệp vụ nhận gửi,để huy động được các nguồn tư bản nhàn rỗi, Ngân hàng trả
một khoản lợi tức nhận gửi cho các khoản gửi. Đồng thời, trong nghiệp vụ cho vay,
Ngân hàng lại thu một khoản lợi tức cho vay của những người đi vay.Và như mọi tổ
chức kinh doanh TBCN khác,mọi hoạt động của Ngân hàng cũng phải nhằm mục tiêu
đem lại lợi nhuận.Chính vì vậy, dựa trên việc quy định lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức
cho vay, Ngân hàng đã thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của mình.Khoản lợi
nhuận này được gọi là lợi nhuận Ngân hàng,nó chính là khoản chênh lệch giữa lợi tức
cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi đã trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ
Ngân hàng và cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ.Khác với lợi tức
vận động theo quy luật tỉ suất lợi tức giảm dần, lợi nhuận ngân hàng hoạt động theo quy

23
luật tỉ suât lợi nhuận bình quân giảm dần,có nghĩa là lợi nhuận ngân hàng ngang bằng

với lợi nhuận bình quân.

c/ Địa tô Tư bản Chủ nghĩa:
Ở trên chúng ta đã nghiên cứu và xem xét sự hình thành và xâm nhập của CNTB vào
lĩnh vực Thương nghiệp và tín dụngvà tương ứng là sự hình thành nên các bộ phận tư
bản Thương nghiệp; tư bản cho vay và tư bản Ngân hàng. Đến phần này, chúng ta sẽ
xem xét sự xâm nhập của CNTB vào trong Nông nghiệp dẫn tới sự hình thành bộ phận
tư bản kinh doanh trong Nông nghiệp và sự xuất hiện một hình thức mới của lợi nhuận là
địa tô Tư bản Chủ nghĩa.
Trước tiên, ta sẽ xem xét sự xâm nhập của PTSX TBCN vào trong Nông nghiệp. Với
sự phát triển của CNTB, giai cấp Tư bản không chỉ thống trị nghành Công nghiệp mà
còn dần dần thao túng cả lĩnh vực Nông nghiệp. Sự xâm nhập của CNTB vào lĩnh vực
Nông nghiệp có thể diễn ra theo hai cách sau
Một là, trước hết vẫn duy trì về căn bản nền kinh tế phong kiến địa chủ trước kia và
sau đó thông qua các cuộc cải cách mà dần dần chuyển sang đường lối kinh tế theo kiểu
Tư bản Chủ nghĩa.
Cách thứ hai là,ngay từ đầu, thông qua con đường Cách mạng Tư sản lật đổ chế độ
kinh tế phong kiến cũ; giải phóng lực lượng sản xuất thoát khỏi xiềng xích nông nô. Trên
cơ sở đã xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, thiết lập QHSX TBCN trong Nông nghiệp
từ đó phát triển nhanh chóng Nông nghiệp theo con đường các ấp trại TBCN.
Như vậy, dù sự xâm nhập của PTSX TBCN vào Nông nghiệp được thực hiện theo
cách nào đi chăng nữa thì hậu quả của sự xâm nhập này vẫn là hình thành nên trong nền
Nông nghiệp TBCN ba giai cấp chủ yếu là giai cấp địa chủ,giai cấp tư bản Nông nghiệp
và giai cấp công nhân Nông nghiệp. Nhưng cần phải thấy rằng giai cấp địa chủ lúc này
không phải là những địa chủ xuất thân từ tầng lớp quí tộc, tăng lữ như trong giai đoạn
phong kiến mà địa chủ lúc này, thực chất là những nhà tư sản,đã đầu tư tư bảnđể nhằm
thu gom,thao túng ruộng đất, gây ra tình trạng'lũng đoạn quyền tư hữu ruộng đất'.

24
Chính vì sự xuất hiện của giai cấp địa chủ trong nông nghiệp cho nên giá trị thặng dư

,được hình thành do lao động không công của những công nhân làm thuê trong Nông
nghiệp, sẽ được phân chia khác với trong lĩnh vực Công nghiệp trên cơ sơ đảm bảo lợi
nhuận cho không chỉ giai cấp tư sản Nông nghiệp mà còn cho cả giai cấp địa chủ,những
người mà thực chất là các nhà tư bản đã đầu tư vào ruộng đất. Điều đó có nghĩa là lượng
giá trị thặng dư mà giai cấp tư bản Nông nghiệp chiếm đoạt được sẽ phải không những
đủ để họ có thể thu được lợi nhuận bằng với lợi nhuận bình quân mà còn phải dư ra một
khoản để trả cho chủ ruộng đất mà nhà tư bản đã thuê. Khoản dư ra để trả cho ruộng đất
đó được gọi là địa tô Tư bản Chủ nghĩa.
Vậy địa tô Tư bản Chủ nghĩa “là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi
phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất”. Sở dĩ ở đây, phần lợi
nhuận mà nhà tư bản kinh doanh ruộng đất thu được phải bằng với lợi nhuận bình quân
vì nếu nhỏ hơn lợi nhuận bình quân thì các nhà tư bản sẽ rút tư bản ra khỏi lĩnh vực
Nông nghiệp dể đầu tư vào các lĩnh vực khác mang lại lợi nhuận nhiều hơn. Tuy nhiên
nếu lợi nhuận của nhà tư bản Nông nghiệp đã bằng lợi nhuận bình quân,mà như ta đã
biết thì tổng số lợi nhuận bao giờ cũng bằng tổng giá trị thặng dư. Như vậy thì giai cấp tư
sản kinh doanh trong Nông nghiệp đã kiếm đâu ra phần lợi nhuận siêu ngạch để trả cho
giai cấp địa chủ dưới hình thức địa tô Tư bản Chủ nghĩa. Để trả lời câu hỏi này ta sẽ phải
xem xét sự hình thành của địa tô Tư bản Chủ nghĩa để thấy được nguồn gốc, bản chất và
các hình thái của nó.
Trước tiên ta sẽ xem xét nguyên nhân tạo ra phần lợi nhuận siêu ngạch trong sản xuất
Nông nghiệp. Trong lĩnh vực Công nghiệp, lợi nhuận siêu ngạch được hiểu là phần lợi
nhuận chênh lệch so với lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản,có những điều kiện sản
xuất cá biệt tốt hơn điều kiện sản xuất trung bình của toàn xã hội, thu được.Phần lợi
nhuận siêu ngạch này chỉ mang tính tạm thời, cá biệt. Còn trong lĩnh vực Nông
nghiệp,lợi nhuận siêu ngạch cũng mang ý nghĩa tương tự, nó cũng là phần lợi nhuận
chênh lệch mà những nhà tư bản đầu tư vào những mảnh đất mầu mỡ hơn có thể thu
được. Tuy nhiên, khác với trong lĩnh vực Công nghiệp, phần lợi nhuận siêu ngạch trong
lĩnh vực Nông nghiệp mang tính ổn định, lâu dài và khá phổ biến. Sở dĩ như vậy là vì
trong Nông nghiệp, một tư liệu lao đông chủ yếu là đất đai lại có tính chất hạn chế,đại bộ


25

×