Tải bản đầy đủ (.doc) (152 trang)

nghiên cứu hàm long sơn chí- tác giả và tác phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 152 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HÀ
(THÍCH HOẰNG TRÍ)
NGHIÊN CỨU HÀM LONG SƠN CHÍ-
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2014
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HÀ
(THÍCH HOẰNG TRÍ)
NGHIÊN CỨU HÀM LONG SƠN CHÍ-
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Nguyễn Tá Nhí
2. PGS. TS. Lã Minh Hằng
Chuyên ngành : HÁN NÔM
Mã số : 62.22.40.01
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết
quả và số liệu nêu trong luận án là hoàn toàn trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận án
NGUYỄN HÀ
(THÍCH HOẰNG TRÍ)
QUY ƯỚC VIẾT TẮT
ĐHSC Đỉnh Hồ sơn chí


PĐTSL Phổ Đà sơn chí
HLSC Hàm Long sơn chí
BQTSL Báo Quốc tự sự lục
LXSC Lưỡng Xuân sơn chí
BAVH Bulletin des Amis du Vieux Hué
30a4 Tờ 30, trang a, dòng 4
Tp Thành phố
UBKHXHVN Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam
T5 Tập 5
MỤC LỤC
NGHIÊN CỨU HÀM LONG SƠN CHÍ 1
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1
NGHIÊN CỨU HÀM LONG SƠN CHÍ 2
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 2
MỤC LỤC 1
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Phương pháp nghiên cứu 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
5. Đóng góp mới của luận án 5
6. Kết cấu luận án 6
PHẦN NỘI DUNG 7
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ HÀM LONG SƠN CHÍ VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Giới thuyết về Hàm Long sơn chí 7
1.1.1.Tên chùa, tên núi và tên gọi “Hàm Long” 7
1.1.2. Hàm Long sơn chí mang loại hình văn học chức năng trong nền văn học
trung đại Việt Nam 11
1.2. Các nghiên cứu về tác giả- nhà sưu tầm và biên soạn tác phẩm Hàm Long sơn chí 12

1.2.1. Về Trần Viết Thọ (1836-1899) 12
1.2.2. Về Nguyễn Phúc Hồng Vịnh (1851-?) 16
1.2.3. Về tác phẩm Hàm Long sơn chí 18
* Tiểu kết chương 1 20
Chương 2. THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP CỦA TRẦN VIẾT THỌ 21
VÀ NGUYỄN PHÚC HỒNG VỊNH 21
2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội và khuynh hướng văn học từ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 21
2.1.1. Bối cảnh lịch sử- xã hội nửa cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX 21
2.1.2. Các khuynh hướng văn học trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX-
đầu thế kỷ XX 25
2.2. Tác giả Hàm Long sơn chí: Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh 26
1
2.2.1. Trần Viết Thọ, hiệu Điềm Tịnh cư sĩ 27
2.2.2. Nguyễn Phúc Hồng Vịnh, hiệu Như Như đạo nhân 35
2.3. Những tình tiết mở rộng khi nghiên cứu cuộc đời Như Như đạo nhân và Điềm Tịnh cư sĩ 41
2.3.1.Mấy câu hỏi đáng suy nghĩ về tư tưởng của hai tác giả 41
2.3.2. Con đường đưa Điềm Tịnh cư sĩ và Như Như đạo nhân đến với đạo Phật 44
* Tiểu kết chương 2 48
Chương 3. NGHIÊN CỨU TÁC PHẨM HÀM LONG SƠN CHÍ 50
3.1. Tiền đề cho việc viết Hàm Long sơn chí 50
3.1.1. Núi Hàm Long và chùa Báo Quốc 50
3.1.2. Nhân duyên và niên đại ra đời của tác phẩm 52
3.1.3. Ý nghĩa của việc biên soạn tác phẩm Hàm Long sơn chí 58
3.2. Đôi nét về văn bản và nội dung tác phẩm Hàm Long sơn chí 60
3.3. Khảo cứu văn bản Hàm Long sơn chí 63
3.3.1. Tập Hàm Long sơn chí tổng mục 含含含含含含 63
3.3.2. Tập Lãm sơn tự 含含含 68
3.3.3. Tập Hàm Long sơn chí quyển tam chi nhất 含含含含含含含含 74
3.3.4. Tập Tường Vân tự sự lục 含含含含含 78
3.3.5. Tập Thiên hoa cửu biện đồ 含含含含含 80

3.3.6. Tập Giới kỳ khánh liên 含含含含 83
* Tiểu kết chương 3 89
Chương 4. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA HÀM LONG SƠN CHÍ 91
4.1. Giá trị nội dung của Hàm Long sơn chí 91
4.1.1. Giá trị lịch sử của Hàm Long sơn chí 91
4.1.2. Những giá trị tư tưởng hàm chứa trong Hàm Long sơn chí 106
4.2. Giá trị nghệ thuật của Hàm Long sơn chí 114
4.2.1. Văn học nghệ thuật 115
4.2.1.1. Về Thơ 115
4.2.1.2. Về Từ 121
4.2.1.3. Về Phú 123
4.2.1.4. Về Đối liên 124
4.2.1.5. Về Truyện 127
4.2.1.6. Về Ký 129
4.2.2. Văn học chức năng 130
4.2.2.1. Về Ngữ lục 130
4.2.2.2. Về Biện, luận 131
4.2.2.3. Về Tựa bạt 132
4.2.2.4. Về Tế văn 135
4.2.2.5. Về Chiếu, chỉ, biểu, dụ, sớ 136
2
* Tiểu kết chương 4 136
PHẦN KẾT LUẬN 138
TÀI LIỆU THAM KHẢO 142
PHẦN PHỤ LỤC 148

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn học triều Nguyễn chiếm khối lượng tác phẩm và số lượng tác gia lớn
nhất trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Các tác gia, tác phẩm đó đã tạo nên

diện mạo của văn học giai đoạn này: đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung.
Trong số các tác gia giai đoạn này, thì những người xuất thân từ hoàng tộc chiếm đa
số. Có thể kể tên các tác gia tiêu biểu như Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương,
Tương An quận vương, Công chúa Mai Am.v.v. Ngay cả các vị hoàng đế Minh
Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức cũng có biệt tài văn hay chữ tốt, sáng tác với số lượng tác
phẩm thơ văn lên đến trên dưới mười ngàn bài. Trong số các tác gia hoàng tộc triều
Nguyễn, nổi bật là Nguyễn Phúc Hồng Vịnh 阮福洪永 hiệu Như Như đạo nhân 如如
道人 với tác phẩm Hàm Long sơn chí (HLSC) 含龍山志 được soạn chung với Phó
bảng Trần Viết Thọ 陳曰壽, hiệu Điềm Tịnh cư sĩ 恬靜居士. Việc sưu tầm, dịch
chú, giới thiệu tác phẩm này sẽ góp phần tạo dựng nên diện mạo chung cho văn học
Hán Nôm trên đất cố đô thời Nguyễn.
Thật may mắn cho chúng tôi, trong quá trình tìm tòi tư liệu, sách vở ở các
thư viện công và các tủ sách tư nhân để đề xuất đề tài luận án tiến sĩ, chúng tôi nhờ
duyên hàn mặc, đã thủ đắc tác phẩm HLSC.
HLSC đã ghi lại những biến cố xã hội của vùng đất Thuận Quảng, khi Thuận
Quảng còn là một bộ phận của Đàng Trong dưới sự trị vì của các chúa Nguyễn - đối
lập với Đàng Ngoài dưới sự trị vì của triều đình Lê-Trịnh; là vùng đất của một nước
quân chủ dưới thời nhà Nguyễn; là vùng đất của một nước thuộc địa - nửa phong
kiến, một vùng đất của cái gọi là Nam triều. Đặt tác phẩm này trong những không
gian Nam- Bắc phân chia suốt bốn thế kỷ (từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX) để nhận ra
rằng, nó nằm trong thiết chế văn hoá - tư tưởng “Nho Thích song hành” hay “cư Nho
3
mộ Thích” của Đàng Trong, của triều Nguyễn, Nam triều. HLSC đã thể hiện được một
khuynh hướng văn học của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
HLSC là một tác phẩm mang những đặc trưng của văn học trung đại: tác giả
của nó là các nhà nho; được thể hiện bằng ngôn ngữ Hán - Việt, ký tự bằng chữ
Hán; các thể loại trong HLSC là các thể loại của văn học trung đại; độc giả của nó là
những người biết chữ Hán. Vì vậy, nghiên cứu HLSC, phải làm sáng tỏ giá trị đa
chức năng về văn học, sử học và tư tưởng - triết học của nó.
Với những lí do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ

của mình: Nghiên cứu Hàm Long sơn chí - tác giả và tác phẩm.
2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp văn bản học được sử dụng để tìm ra văn bản gần nhất với
bản gốc HLSC.
2. Các phương pháp luận sử học được vận dụng để khái quát hoá những hoàn
cảnh chính trị, lịch sử - xã hội, văn hoá - tư tưởng làm nảy sinh các khuynh hướng
văn học của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, và trong việc xây
dựng một cách chân thật tiểu sử của Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh.
3. Vận dụng phương pháp nghiên cứu loại hình - so sánh để phân loại và
nhận ra những khác biệt các khuynh hướng văn học tương ứng với các loại tác giả
của các khuynh hướng văn học đó, giúp nhận diện một cách cụ thể tính chất phong
phú, đa dạng của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
4. Vận dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành theo quan điểm mở rộng hệ
thống: đặt mỗi yếu tố được luận án nghiên cứu trong mỗi hệ thống càng rộng càng
tốt, càng có nhiều yếu tố tương tác với nhau trong hệ thống đó càng giúp tác giả
luận án, nhờ quan sát những mối quan hệ và liên hệ của chúng mà nhận ra đặc
điểm, tính chất của yếu tố mình đang được tập trung phân tích, đánh giá.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Văn bản Hán Nôm HLSC do Hòa thượng Thích Hải Ấn - Trụ trì chùa Từ
Đàm, thành phố Huế, cung cấp bản photocopy năm 2009.
- Các văn bản Hán Nôm khác có ghi chép về hai tác giả Trần Viết Thọ và
Nguyễn Phúc Hồng Vịnh, cùng tác phẩm HLSC được dùng làm tài liệu bổ trợ cho
việc nghiên cứu về HLSC.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
4
Luận án đặt vấn đề nghiên cứu về tác giả và tác phẩm HLSC, do vậy luận án
tập trung vào các vấn đề sau:
- Phân tích các văn bản Hán Nôm liên quan, tiến tới phục dựng một cách đầy

đủ cuộc đời cùng những đóng góp của Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh;
xây dựng văn bản HLSC dưới ánh sáng của văn bản học; phân tích, đánh giá những
giá trị nhiều mặt của HLSC cũng như giá trị của một khuynh hướng văn học trong
nhiều khuynh hướng văn học ở giai đoạn văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX -
đầu thế kỷ XX.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một cách tập trung, tương đối toàn diện, hệ thống tác phẩm
HLSC và tiểu sử của Trần Viết Thọ, Nguyễn Phúc Hồng Vịnh với tư cách vừa là hai
nhà sưu tập văn thơ, vừa là hai tác giả trước tác văn thơ của HLSC. Với những mục
đích đó, luận án của chúng tôi có nhiệm vụ:
- Xây dựng tiểu sử của Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh;
- Tái lập một văn bản gần nhất với nguyên bản HLSC;
- Lý giải những điều kiện chính trị, lịch sử - xã hội, văn hoá làm xuất hiện
HLSC như một khuynh hướng văn học bên cạnh những khuynh hướng văn học khác
mà các nhà nghiên cứu văn học đã phát hiện ở giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX;
- Nêu bật những giá trị văn học, sử học, tư tưởng gắn liền với những giá trị
về hình thức nghệ thuật của HLSC như một trước tác của văn học trung đại Việt
Nam ở đó văn, sử, triết bất phân.
5. Đóng góp mới của luận án
Tập trung đi sâu nghiên cứu tác phẩm, giải quyết tốt các vấn đề đặt ra ở phần
Lý do chọn đề tài, luận án được thực hiện sẽ có những đóng góp chính như sau:
- Góp phần làm sáng tỏ về con người, hành trạng của Điềm Tịnh cư sĩ Trần
Viết Thọ và Như Như đạo nhân Nguyễn Phúc Hồng Vịnh, bổ khuyết cho những
khiếm khuyết của các nghiên cứu trước đây liên quan đến hai tác gia này.
- Cung cấp một văn bản HLSC gần nhất với nguyên tác, làm cơ sở cho các
công trình nghiên cứu tiếp theo.
- Đưa ra những nhận xét về giá trị nội dung và nghệ thuật của HLSC như một
khuynh hướng văn học bên cạnh những khuynh hướng văn học khác của văn học
Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.

5
6. Kết cấu luận án
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Phần phụ lục, nội dung luận án chia
thành bốn chương sau:
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Phương pháp nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5. Đóng góp mới của luận án
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Tổng quan về Hàm Long sơn chí và tình hình nghiên
cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2. Thân thế, sự nghiệp của Trần Viết Thọ và Nguyễn
Phúc Hồng Vịnh
Chương 3. Nghiên cứu tác phẩm Hàm Long sơn chí
Chương 4. Giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Hàm Long
sơn chí
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC

6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ HÀM LONG SƠN CHÍ VÀ TÌNH
HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN
ÁN
Tác phẩm Hàm Long sơn chí cùng hai tác giả Trần Viết Thọ và Nguyễn
Phúc Hồng Vịnh đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ rất sớm. Trước khi đi
vào tìm hiểu một cách tổng quan về tư liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu, tác giả

luận án bước đầu tìm hiểu ý nghĩa và lược khảo một vài địa phương mang tên gọi
Hàm Long, rồi sau đó lược thuật một số công trình nghiên cứu có ghi chép, khảo
cứu về tác giả- soạn giả và tác phẩm HLSC trong những tác phẩm Hán văn, Pháp
văn cũng như Việt văn.
1.1. Giới thuyết về Hàm Long sơn chí
1.1.1. Tên chùa, tên núi và tên gọi “Hàm Long”
“Tự” (chùa) hay “tự viện” (chùa viện) là nơi an trí tượng Phật và dành cho
tăng, ni cư trú tu hành Phật đạo. Còn có các tên gọi khác như tự sái, Tăng tự, đạo
tràng, Phật sái, Phạm sái, lan-nhã, tùng lâm, chiên-đàn lâm, đàn lâm… Theo Pháp
uyển châu lâm, quyển 39, có liệt kê các tên gọi khác của “tự”, như: Tịnh trụ xá,
pháp đồng xá, xuất thế gian xá, kim cương tịnh sái, tịch diệt đạo tràng, thanh tịnh vô
cực viên, viễn ly ác xứ, thân cận thiện xứ. Tương đương với “tự” hoặc “viện” còn
có tên gọi tiếng Phạn là vihara, samgharama. Vihara dịch âm là Tỳ-ha-ra, dịch ý là
trú xứ, du hành xứ; samgharama dịch âm là tăng-già-lam, già-lam, dịch ý là chúng
viên. Ngôi chùa xuất hiện đầu tiên tại Ấn Độ lúc Phật còn tại thế là tinh xá Trúc Lâm
tại thành Vương Xá và tinh xá Kỳ Viên tại thành Xá Vệ nằm ở miền Trung Ấn Độ.
Theo Đại Tống tăng sử lược, quyển thượng, điều mục Sáng tạo già-lam ghi:
“Tại Trung quốc, Hồng Lô tự là nơi do triều đình thiết lập để tiếp đãi tân khách bốn
phương. Các khách Tăng từ Tây Vực sang Trung Hoa ban đầu đều được đón tiếp tại
Hồng Lô tự rồi sau đó mới đi đến các nơi khác hành đạo và cư trú. Về sau, người
Trung Quốc gọi các nơi Tăng ni cư trú là “tự”. Chùa Tăng đầu tiên của Trung Quốc là
Bạch Mã tự được xây dựng vào niên hiệu Vĩnh Bình (58-75) đời Đông Hán Minh đế”.
7
Ngoài tên hiệu của chùa viện, người ta còn lấy tên núi để phụ đặt tên chùa.
Do ngày xưa đa số các ngôi chùa được xây dựng trên núi cao nhằm cách ly với sự
ồn ào náo nhiệt của dân chúng nên người ta gộp tên núi và tên chùa để gọi, chẳng
hạn: chùa Bổ Đà trên núi Bổ Đà tỉnh Bắc Giang, chùa Hàm Long trên núi Hàm
Long tỉnh Thừa Thiên Huế Về sau, các ngôi chùa xây dựng ở đồng bằng người ta
cũng lấy tên núi để gọi tên chùa, nên tên núi (sơn) trở thành tên gọi khác của chùa (tự).
Xét theo thành phần xã hội xây dựng chùa viện thì những ngôi chùa do vua

quan tạo lập gọi là quan tự (chùa quan); những ngôi chùa do tư nhân xây dựng gọi
là tư tự (chùa tư); còn những ngôi chùa do các vị Tăng trác tích ẩn cư ở rừng sâu núi
cao gọi là sơn tự (chùa núi).
Người xưa quan sát hình thế núi sông bày đặt trên mặt đất mà gọi là sơn
mạch, còn gọi là long mạch, bởi lẽ hình núi nhấp nhô uốn lượn giống như con rồng
lớn đang di chuyển. Trí tưởng tượng phong phú giàu hình ảnh của người xưa, lại
hình thành hàng loạt các địa danh như: 龍首 Long thủ (đầu rồng), Long bàn 龍蟠
hoặc 蟠龍 Bàn long (rồng cuộn mình), 龍含 Long hàm hoặc 含龍 Hàm long (hàm
rồng), 龍尾 Long vĩ (đuôi rồng), 昇龍 Thăng long (rồng bay lên), 下龍 Hạ long
(rồng giáng hạ), 龍洞 Long động (hang rồng)… Các thư tịch cổ như Đại Nam nhất
thống chí, Đồng Khánh địa dư chí lục, Bắc Ninh tỉnh chí, Hải Dương tỉnh địa dư
chí… còn ghi được tên một số địa danh gọi là Long hàm (Hàm rồng), Hàm long
(Rồng ngậm).v.v…
Núi Hàm Rồng ở tỉnh Thanh Hóa. Sách Đồng Khánh địa dư chí lục cho biết
ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa có núi Long Hàm, thường gọi là Hàm Rồng.
Chùa Hàm Long trên núi Lãm Sơn tỉnh Bắc Ninh. Sách Đồng Khánh địa
dư chí lục cho biết ở địa phận xã Lãm Sơn Dương, tổng Lãm Sơn Nam, huyện
Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh có chùa Hàm Long, còn gọi là chùa Long Hàm. Chùa
nằm ở khu vực núi Lãm Sơn, còn gọi là núi Dạm. Dãy núi Lãm Sơn gồm 23
ngọn san sát liền kề. Chân núi bắt đầu từ xã Nghi Vệ, tổng Nội Viên, huyện Tiên
Du, chạy ngược lên đến xã Lãm Sơn. Chùa Hàm Long được dựng trên núi Lãm
Sơn, huyện Quế Võ. Thần phả ở chùa cho biết, chùa do thiền sư Dương Không
Lộ xây dựng từ đời nhà Lý. Đến đời Lê, thiền sư Thích Trừng Trừng từng tu tập
ở đây. Thiền sư là người họ Trịnh, vốn là con trai thứ 13 của Tấn Quang vương
Trịnh Bính. Ông được cho đất Hoàng Mai làm thực ấp. Một lần đào ao thấy có
tượng Phật bằng đá quý, ông liền nuôi chí xuất gia, cải đổi gia thất làm chùa, gọi
8
là chùa Liên Tông, sau đổi thành Liên Phái. Ông theo học hòa thượng Chân
Nguyên ở chùa Long Động, sau được cử về trông coi chùa Hàm Long ở Quế Võ.
Khi viên tịch, các môn đệ cho xây tòa tháp đá năm tầng rất uy nghi, gọi là tháp

Cứu Sinh.
Ngay ở thành phố Hà Nội cũng tồn tại một ngôi chùa Hàm Long. Hơn thế
nữa, con phố có ngôi chùa này cũng gọi luôn là phố Hàm Long. Chùa được xây
dựng ở phường Phục Cổ, tổng Tá Túc, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên.
Phường Phục Cổ là khu đất cao giữa vùng dày đặc đầm nước của tổng Tiền Túc
như thôn Bến Đá, thôn Chợ Bến Đá, thôn Vạn Hà, phường Thủy Cơ Đông Trạch,
phường Thủy Cơ Biện Dương, phường Thủy Cơ Lãng Hồ… Chùa vốn có từ cổ,
đến cuối thế kỷ XVII đã bị hư hỏng. Đầu đời Vĩnh Thịnh (1705-1719) nhà Lê, bà
Thái phi họ Trương, vợ của Tấn Quang vương Trịnh Bính bỏ tiền của ra giúp dân
xây dựng lại. Công việc hoàn tất liền nhờ Thám hoa Nguyễn Quý Đức (1648-
1720) soạn bia ghi lại sự việc. Sau đó lại nhờ Tiến sĩ Đặng Đình Tướng (1649-
1735) soạn thêm một bia nữa. Cả hai văn bia này đều được soạn năm Vĩnh Thịnh
thứ 10 (1714), đều có kích cỡ lớn, cũng có tên là Hàm Long tự bi ký. Văn bia do
Thám hoa Nguyễn Quý Đức biên soạn cho biết, chùa được xây dựng trên khu đất cao
hình như con rồng nằm cuộn, ngậm viên ngọc quý nên có tên gọi là Hàm Long.
Ngoài ra, ở huyện Đông Triều, trấn Hải Dương xưa (nay thuộc tỉnh Quảng
Ninh) cũng có ngôi chùa tên là Hàm Long. Chùa được xây dựng trên núi thuộc xã
Bích Nham, tổng Vĩnh Đại, huyện Đông Triều. Ngọn núi này có tên là Đông Sơn,
dân gian quen gọi là Non Đông, nằm trong dãy núi Yên Tử. Chùa do vị Thánh tổ
Vương Quán Viên khai sơn phá thạch xây dựng từ đời Trần.
Vua Trần Anh tông từng ngự giá đến lễ Phật ở chùa Non Đông, và ban hiệu
cho thiền sư Vương Quán Viên là Huệ Nhẫn quốc sư. Đến năm Khai Thái thứ 2
(1325), thiền sư viên tịch, nhà vua cử quan triều thần đến điếu viếng, sau lại làm thơ
tán thán công đức của ngài. Câu cuối bài thơ viết:
Tự tòng Viên công khứ thế hậu,
Thiên hạ Thích tử không vô nhân.
Quán Viên từ buổi quy Tây,
Sư tăng thiên hạ chẳng ai sánh bằng.
Chùa nay đã bị hư nát, song tấm bia cổ vẫn còn giữ được.
Có một ngọn núi nằm trong dãy Hoàng Liên sơn hùng vĩ được mang tên

núi Hàm Rồng. Núi này nằm ngay ở trung tâm thị trấn Sapa, tỉnh Lào Cai, là một
trong những điểm du lịch hấp dẫn du khách. Núi Hàm Rồng gắn liền với truyền
thuyết hai anh em loài rồng trốn vua cha đi chơi ở thủy cung. Bị vua cha phát
hiện gọi về, rồng anh nghe thấy đã bay về trời kịp, rồng em mải chơi chốn thủy
9
cung nên chẳng nghe thấy. Trời sập tối, rồng em mới sực tỉnh quẫy đuôi ngoi lên
thì cổng trời đã đóng chặt lại. Rồng em đành phải ở lại mãi mãi hạ giới và hóa
thành núi đá với tư thế đầu lúc nào cũng ngẩng lên, dõi mắt về trời, nên mọi
người đặt thế núi này là núi Hàm Rồng.
Ở tỉnh Thừa Thiên Huế cũng có núi Hàm Long. Đến đời Nguyễn, khu vực
này xây dựng ngôi chùa nổi tiếng, đó là chùa Báo Quốc, thu hút sự quan tâm của
nhiều vị vua triều Nguyễn cùng nhiều người trong hoàng tộc đến ủng hộ ngôi
già-lam này. Sau các tác giả Nguyễn Phúc Hồng Vịnh và Trần Viết Thọ đã sưu
tầm thơ văn, bia ký ở đây, soạn ra sách HLSC.
Trong Phật giáo, nhiều kinh điển đề cập đến loài rồng như hàng hộ pháp đắc
lực cho đức Phật Thích-ca Mâu-ni lúc tu hành cũng như trên bước đường hoằng hoá
trong suốt cuộc đời của ngài. Do đó, loài rồng được liệt vào hàng đệ tử của đức
Phật. Sức mạnh, uy đức thiêng liêng của nó không những có sự biểu hiện tương
đồng với hoạt động con người mà còn siêu việt hơn cả loài người. Rồng là con vật
do người biến hiện thành, vừa làm hộ pháp, ủng hộ đắc lực cho đức Phật khi gặp ma
chướng ác đạo, vừa trở thành đệ tử tuân thủ những lời giáo huấn của Phật.
Từ hình tượng con rồng là hàng hộ pháp ủng hộ đức Phật trong kinh điển
Phật giáo Ấn Độ đến hình tượng con rồng biến hoá theo kinh điển cổ đại Trung
Quốc, các văn nhân thi sĩ Trung Hoa và Việt Nam đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa
hai nguồn tư tưởng ấy để rồi cho ra đời nhiều áng văn chương bất hủ có liên hệ đến
hình tượng rồng thiêng. Hình tượng con rồng được thể hiện ra tướng trạng của thế
núi vểnh râu, hất hàm, nhe răng, chìa môi, nhếch miệng trong tác phẩm HLSC.
Để mô tả thế núi Hàm Long, mở đầu bài tựa, tác giả đã dẫn nhiều danh sơn
kỳ lâm trên toàn đất nước Đại Việt mang tên gọi động vật như cá, rùa, lân, phụng:
“Vậy làm sao mà có núi cá (núi Song châu ngư), mà có núi rùa (tên núi ở Nghệ An),

mà có núi Lân (núi Kì Lân ở Ninh Bình), mà có núi Phụng (núi Kim Phụng); các
hiện tượng thiên nhiên như mây, mưa, sấm, sét cũng theo cách nhìn ấy mà có núi
Mây (núi Thuý Vân), mà có núi Mưa (núi Vũ Sư), mà có núi Sấm (núi Lôi Kê), mà
có núi Sét (Định Môn, quen gọi là núi Đình Môn)” [Hàm Long sơn chí tự].
Hình thế thiên nhiên kỳ vĩ khắp mọi miền ở nước ta đã tạo nên những biểu
tượng đặc biệt của núi sông. Người xưa quán xét hình thế kì lạ do tạo hóa gây tạc ra
như vậy mà đặt tên cho các ngọn núi, dòng sông, và núi Hàm Long, giếng Hàm
Long tại Huế cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Vì vậy, Hàm Long sơn ở đây còn
gọi là Hàm Long tự.
10
1.1.2. Hàm Long sơn chí mang loại hình văn học chức năng trong
nền văn học trung đại Việt Nam
Văn học trung đại là văn học tồn tại gắn liền với sự tồn tại của thể chế phong
kiến. Nền văn học này mang đậm ý thức hệ phong kiến và chịu ảnh hưởng bởi thế
giới quan và nhân sinh quan tôn giáo. Tuy nhiên, nó không phải là tiếng nói riêng
của giai cấp phong kiến, tuyên truyền cho bộ máy phong kiến mà là tiếng nói của
dân tộc Việt Nam, đại diện cho tư tưởng tình cảm và giá trị thẩm mỹ của người
Việt. Văn học trung đại Việt Nam bắt đầu từ khi Ngô Quyền đánh tan quân Tống
(938) thiết lập một nhà nước độc lập, tự chủ cho đến hết thế kỷ XIX- những năm
đầu thế kỷ XX.
Tuy hình thái xã hội Việt Nam trong quãng thời gian trên có thay đổi theo
từng hình thái, chẳng hạn, từ giữa thế kỷ XIX (1858), xã hội Việt Nam đã dần
chuyển từ xã hội phong kiến sang một hình thái xã hội khác: thực dân nửa phong
kiến. Nhìn chung, hệ thống thể loại của văn học giai đoạn này vẫn có thứ bậc tôn ty,
đậm tính chức năng, chịu ảnh hưởng thế giới quan tôn giáo và ý thức hệ phong kiến,
cơ chế mỹ học có tính quy phạm, ước lệ, tượng trưng. Tác phẩm Hàm Long sơn chí
ra đời trong giai đoạn này cũng không nằm ngoài những quy cách sáng tạo nghệ
thuật ấy. Tác giả Như Như đạo nhân đã chọn một thể loại trong thể loại thơ văn
trung đại để đặt tên cho tác phẩm của mình, đó là thể Chí.
Theo Trung văn đại từ điển ghi: “Sách ghi chép gọi là chí 志, cũng viết là chí

誌. [Chu lễ, Xuân quan, Tiểu lại]: ‘Nắm quyền hành về việc ghi chép của đất nước’.
[Chú]: ‘Chí có nghĩa là ghi chép vậy”. [117, tr.5201].
Chí là một trong ba lối viết sử của thể kỉ truyện của sử gia, nhưng HLSC
không thuộc loại hình lịch sử mà nghiêng về loại hình văn chương. Khi xác định
được thể loại của văn bản, chúng ta cần xác định tác phẩm HLSC thuộc loại hình văn
học nào: chức năng hành chính, lễ nghi hay chức năng nghệ thuật. Muốn xác định
được tác phẩm này thuộc loại hình văn học nào thì chỉ cần dựa vào nội dung bài tựa
Hàm Long sơn chí tự, chúng ta sẽ thấy được chức năng lễ nghi trong đó.
- Thứ nhất, HLSC gắn với chức năng thực hành mà tác giả đã tự nguyện tuân
thủ. Xét về cấu trúc văn bản thì đây là tác phẩm được tập hợp nhiều thể loại văn học
thơ, từ, phú, truyện, đối liên, ngữ lục, biện thuyết, chiếu, biểu, sớ… để “tập thành”
nên một tác phẩm chí với hệ thống ngôn từ đa dạng. Điều này có nghĩa, tác phẩm
HLSC có hệ thống chung cho toàn văn bản ghi chép những dữ kiện quan trọng có
liên quan đến Phật giáo Thuận Hóa thời chúa Nguyễn, vua Nguyễn, nhưng trong
11
mỗi văn bản lại có nhiều tiểu hệ thống, mà mỗi tiểu hệ thống mang một thể loại văn
học trong nền văn học trung đại Việt Nam.
- Thứ hai, HLSC mang tính quy tắc mà tác giả của nó đã tuân theo một cách
nghiêm nhặt trong cách thức ghi chép. Chí phải có lạc khoản về thời gian ghi chép,
địa điểm ghi chép, nhân vật ghi chép, như đoạn cuối bài tựa ghi: “Phật xuất thế năm
2956, năm Kỷ Hợi. Đệ tử pháp danh Trừng Khế, hiệu Như Như cung kính cúi đầu
làm tựa”.
- Thứ ba, khi HLSC là một tác phẩm mang chức năng lễ nghi [tôn giáo], tác
giả đã đặt cho mình một mục đích mang tính chủ quan: “Khế tôi lạm cày trên ruộng
phước, được hạt giống Phật, gặp phải những hạt giống vung vãi thế này, nơm nớp
sợ rằng, nếu để tán thất rồi thì khó mà giữ lại được. Gặp lúc thầy tôi sai Khế viết chí
về núi này thì cũng chính là gặp thời gặp tiết thu lấy hạt lúa. Khí cụ tốt để cất giữ có
lẽ là ở đây chăng? Mặc dù thành trụ theo lẽ tuần hoàn ta không biết được nhưng
phải thu cất hạt giống tích trữ cho ngày sau, để những người mang chủng tử Bà-la-
môn có được hạt giống gieo trồng rộng khắp khiến cho chúng không bị tán thất thì

việc ghi chép lại ở đây không phải là không có ích lợi vậy!”.
Việc xác định loại hình văn học chức năng như trên để nghiên cứu HLSC
cũng nhằm mục đích làm sáng tỏ giá trị nghệ thuật trong tác phẩm và thẩm định giá
trị thẩm mĩ trong nền văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
1.2. Các nghiên cứu về tác giả- nhà sưu tầm và biên soạn tác
phẩm Hàm Long sơn chí
1.2.1. Về Trần Viết Thọ (1836-1899)
Xung quanh cuộc đời của Trần Viết Thọ, các ghi chép trong sách Hán Nôm
và các khảo cứu của các học giả hiện nay, cũng đã ghi lại những mốc thời gian đáng
nhớ trong quãng đời của ông.
- Quốc triều khoa bảng lục do Long Cương tàng bản, Cao Xuân Dục đã cung cấp
các thông tin ngắn gọn về tên tuổi, quê quán, năm sinh, năm đỗ cử nhân, năm đỗ Phó
bảng: “陳曰壽廣治登昌深朝丙申三十六丁卯舉人督學休致” [102,VHv.640]
(Trần Viết Thọ, quê quán xã Thâm Triều, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị. Sinh
năm Bính Thân, đỗ Cử nhân năm 36 tuổi. Làm Đốc học. Nghỉ hưu), nhưng thời
điểm ông ra làm Đốc học và năm tháng về hưu thì lại không ghi rõ.
- Cao Xuân Dục trong Quốc triều Hương khoa lục lại không cho biết thông
tin về năm sinh và năm mất của ông mà chỉ ghi rất ngắn gọn: “Trần Viết Thọ, người
12
xã Thâm Triều huyện Đăng Xương. Thi đậu Phó bảng khoa Tân Mùi (1871). Hiện
là Đốc học” [12, tr. 373].
- Phạm Đức Thành Dũng và Vĩnh Cao trong công trình khảo cứu về Khoa cử
và các nhà khoa bảng của triều Nguyễn đã cung cấp các thông tin khá đầy đủ về các
mốc thời gian quan trọng trong cuộc đời của Trần Viết Thọ, tuy nhiên cũng chưa
đưa ra được thời điểm cụ thể ông nhậm chức Đốc học cũng như năm ông cáo bệnh
nghỉ hưu: “Trần Viết Thọ, người xã Thâm Triều, huyện Đăng Xương, nay thuộc
huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị. Sinh năm Bính Thân (1836), Cử nhân khoa Đinh
Mão (1867); đỗ Phó bảng khoa Tân Mùi (1871), năm 36 tuổi. Từng giữ chức Đốc
học, sau cáo bệnh về nghỉ hưu” [15, tr. 595].
- Ngô Đức Thọ trong Các nhà khoa bảng Việt Nam đã cung cấp các thông tin

liên quan đến tiểu sử (năm sinh, năm thi đỗ, ra làm quan cũng như quê quán) của
Trần Viết Thọ như sau: “Trần Viết Thọ (1836 - ?), người xã Thâm Triều, huyện
Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị - Nay là xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị. Sinh năm Bính Thân. Cử nhân khoa Đinh Mão (1867). 36 tuổi đỗ Phó
bảng khoa Tân Mùi, niên hiệu Tự Đức 24 (1871). Đốc học” [61, tr. 754].
- Đại Nam thực lục là bộ chính sử, ghi chép khá đầy đủ các thông tin của
triều Nguyễn. Việc Trần Viết Thọ thi đậu Phó bảng cùng với các nhà Phó bảng khác
như các khảo cứu nêu trên cũng có ghi lại trong bộ sách sử này: “Cho bọn Nguyễn
Khuyến ba người đỗ Tiến sĩ và Đồng tiến sĩ xuất thân có thứ bậc. Lại lấy năm người
đỗ Phó bảng (Tiến sĩ Nguyễn Khuyến ba lần đỗ đầu. Đồng Tiến sĩ: Nguyễn Kham,
Nguyễn Xuân Ôn. Phó bảng: Trần Khánh Tiến, Nguyễn Xuân, Nguyễn Đức, Lê
Doãn Nhạ, Trần Viết Thọ)” [80, tr.103].
Có thể nói, hầu hết các ghi chép, các khảo cứu nêu trên mới chỉ dừng lại ở
việc giới thiệu một cách hết sức khái quát về tên tuổi, năm sinh, năm mất (thậm chí
có khảo cứu lại không cho biết ông mất năm nào), quê quán, năm thi đậu của Trần
Viết Thọ. Còn rất nhiều thông tin quan trọng liên quan đến hành trạng của một vị
quan Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ này, thì lại chưa được các khảo cứu nêu trên đề
cập đến.
Lý giải nguyên nhân dẫn đến sự nghèo nàn thông tin liên quan đến Trần Viết
Thọ, chúng tôi cho rằng sự nghiệp trước tác của ông chỉ gắn liền với những năm
tháng sống cuộc đời đạm bạc chốn Thiền môn tại Huế cũng như lúc hạ thủ công phu
ở quê nhà Quảng Trị nên những tư liệu nói về ông còn hạn chế. Đây là thời gian
ông treo ấn từ quan, lui về nuôi dưỡng cha già và tự mình nỗ lực tu hành, bỏ ngoài
13
thân những danh lợi hão huyền của thế sự, nên ít ai biết đến cuộc sống riêng tư của
ông trong thời gian này.
Thật may mắn, những ghi chép về tổ đình Báo Quốc đã cung cấp những
thông tin về quãng đời của ông sau khi treo ấn từ quan. Trong một khảo cứu đăng
trên Tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hué, Laborde đã ghi thêm một đoạn ngắn
về cuộc đời của Trần Viết Thọ để tưởng nhớ người Phật tử có công trong việc ghi

lại lịch sử ngôi Tổ đình Báo Quốc trên núi Hàm Long:
“Ajoutons quelques lignes en mémoire de M. Trần Viết Thọ, le mandarin
auquel on doit un exposé historique de la pagoda. Il fut, de son vivant, Đốc Học,
Directeur de l’école provinciale de Quảng Trị. Il avait 59 ans lorsque, malgre les
supplications des hauts mandarins, de ses élèves et de sa famille, il demanda sa mise
à la retraite et embrassa la vie monastique; sa ferveur religieusa fut telle, qu’après
s’ètre soumis pendant plusieurs années à un ascétisme des plus rigoureux, il
annonca un beau jour à sa femme et à ses enfants qu’il appartenait désormais au
Bouddha et qu’il était prèt à lui faire le sacrifice de son corps; il mit alors lui-mème
le feu à la petite paillotte dans laquelle il s’était retiré, s’assit avec sérénité au milieu
du brasier, attisa tranquillement le foyer, et, un livre bouddhique en main, il se
laissa stoiquement dévorer, peu à peu, par les flammes.
Ceci n’est pas une légende; la fin mystique de Trần-Viết-Thọ fut connue de
tous; les plus hautes personnalités de Hué, en tête desquelles furent LL. EE. les
Ministres Trương-Quang-Đản, Nguyễn-Thuật, Cao-Xuân-Dục et Hoàng-Cao-Khải,
honorèrent le mort de leur visite [94, tr. 241].
(Chúng ta nên thêm vài dòng để tưởng nhớ ông Trần Viết Thọ- vị quan mà
nhờ ông người ta mới có một bài viết về lịch sử ngôi chùa. Lúc còn sống, ông là
Đốc học, Hiệu trưởng trường tỉnh ở Quảng Trị. Năm ông 59 tuổi, mặc dù có lời
thỉnh cầu khẩn thiết của nhiều thượng quan, của các học trò và gia đình, ông vẫn
xin về hưu và vào tu trong chùa. Đạo tâm của ông chí thành đến độ, sau nhiều năm
tu khổ hạnh nghiêm ngặt, một hôm ông tuyên bố với vợ con rằng, từ đây ông thuộc
về Phật và sẵn sàng hiến dâng hình hài cho Phật; thế rồi ông tự châm lửa đốt túp
lều tranh nơi ông ẩn cư, bình tĩnh ngồi giữa đám lửa, thản nhiên khêu lửa, và tay
cầm cuốn kinh, điềm tĩnh để cho lửa ngọn lửa thiêu huỷ thân thể mình.
Đây không phải là một huyền thoại, sự kết thúc [sự sống] thần bí của ông
Trần Viết Thọ đã được mọi người biết đến. Các nhân vật cao cấp nhất ở Huế, đứng
14
đầu là các vị Thượng thư Trương Quang Đản, Nguyễn Thuật, Cao Xuân Dục và
Hoàng Cao Khải đã thân hành đến viếng để tỏ sự tôn kính người quá cố).

Qua bài báo của Laborde, chúng ta có thêm các thông tin quan trọng về Trần
Viết Thọ: ông từng làm Đốc học trường tỉnh ở Quảng Trị trước khi hồi hưu; ông
chính thức cáo quan về tu ở chùa Báo Quốc vào năm 59 tuổi; nhờ ông soạn cuốn
Báo Quốc tự sự lục (BQTSL) mà mọi người sau này mới biết rõ về ngôi Tổ đình
Báo Quốc, đồng thời cũng hiểu thêm về hạnh nguyện cao cả của ông.
- Sách Đại Nam thực lục ghi: “Tháng 12,… Tuần Phủ Quảng Trị, Quảng
Bình là Nguyễn Văn Thi dâng tập tâu trình bày: ‘Bọn nguyên Thị giảng học sĩ, sung
Toản tu Quốc sử quán, đã hưu dưỡng là Vũ Tử Văn; nguyên Thị độc lĩnh Án sát
Phú Yên, sung Thương tá tỉnh ấy là Nguyễn Chất; Trước tác lĩnh Đốc học tỉnh ấy là
Trần Viết Thọ; về Hàm Nghi năm đầu [1885], bọn giặc sấn vào tỉnh thành cướp lấy
ấn quan phòng và khí giới, thế rất hoành hành, các viên ấy nghe biến, biết thân đến
hiểu dụ, nghiêm sắc mặt trách mắng bọn ấy giao trả ấn quan phòng, ra khỏi thành
giải tán; bọn ấy đã không chịu nhục với giặc, lại biết đuổi giặc, nghĩ nên khen
thưởng để khuyến khích’. Chuẩn cho đều thăng 1 trật” [90, tr. 446].
- Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm trong Lịch sử Phật giáo xứ Huế, có ghi:
“Điềm Tịnh cư sĩ: tên thật của ông là Trần Viết Thọ, quán xã Thâm Triều tổng Bích
La huyện Thuận Xương phủ Triệu Phong- Quảng Trị. Sinh vào năm Minh Mệnh
thứ 17, Bính Thân (1836). Ông vốn là một nhà Nho khoa bảng, có tự là Sơn Phủ,
hiệu là Điềm Tịnh cư sĩ. Ông thi đậu Phó bảng vào năm Tự Đức thứ 24, Tân Mùi
(1871), ông đã xuất chính, trải qua các chức Tri huyện, Tri phủ. […] Điềm Tịnh cư
sĩ đã cùng với hòa thượng Tăng Cang chùa Diệu Đế soạn quyển Báo Quốc sự lục,
cùng các trước tác khác và đặt tên sách là Hàm Long sơn chí; lúc ấy làm được hai
cuốn” [4, tr. 377].
- Nguyễn Phước Tương trong Phó bảng Trần Viết Thọ - con người khẳng
khái, ung dung, mở đầu bài nghiên cứu đã viết: “Phó bảng Trần Viết Thọ sinh ngày
rằm tháng 9 năm Bính Thân, tức ngày 24 tháng 10 năm 1806, dưới thời vua Gia
Long (1802-1820) tại làng Thâm triều, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị nay là
xã Triệu Tài huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong một gia đình nho học. Ông
có húy là Thanh Phúc, tự là Chu Toàn, hiệu là Điềm Tịnh. Ông cũng có tên tu hành
là Cư sĩ Đại Sư” [82, tr.81].

Qua bài viết, Nguyễn Phước Tương đã nhầm lẫn hai chỗ: Thứ nhất, năm
Bính Thân (1836) thuộc niên hiệu vua Minh Mệnh chứ không phải niên hiệu Gia
15
Long; Thứ hai, Trần Viết Thọ không thể có hai danh xưng vừa “Cư sĩ” vừa “Đại
sư” được, vì cư sĩ là người tại gia, còn đại sư thường là trỏ người xuất gia. Tiếp
theo, tác giả lược kê những chức vụ mà Trần Viết Thọ đã hợp tác với triều đình nhà
Nguyễn, ca ngợi nhà nho Trần Viết Thọ bất hợp tác với thực dân Pháp, nhưng các
cứ liệu mà tác giả bài báo sử dụng chỉ là dã sử hoặc truyền thuyết, nên không có sức
thuyết phục. Nội dung bài viết đa phần nhằm tán dương công hạnh của một nhà nho
bất hợp tác với Pháp, ít dựa vào tư liệu nền [Hán Nôm] để nghiên cứu. Chính vì lý
do ấy mà nội dung bài viết còn nhiều bất cập về danh xưng và thông tin xác thực về
cuộc đời của một vị Phó bảng triều Nguyễn này.
1.2.2. Về Nguyễn Phúc Hồng Vịnh (1851-?)
Các ghi chép, khảo cứu về tác giả Nguyễn Phúc Hồng Vịnh trước đây khá sơ
sài. Cho đến nay, chúng tôi mới chỉ tìm thấy ghi chép liên quan đến tác giả Nguyễn
Phúc Hồng Vịnh trong Đại Nam chính biên liệt truyện: “Trấn Biên quận công Miên
Thanh, tự là Giản Trọng, hiệu là Duân Đình, con thứ 51 của Thánh Tổ Nhân hoàng
đế, mẹ là quý nhân họ Lê, anh cùng mẹ với Phong quốc công Miên Kiền, sinh năm
Minh Mạng thứ 11 (1830). Con thứ 3 Hồng Vịnh lúc trẻ thông minh nhanh nhẹn,
thích ngâm vịnh, phong cách giống như cha, có tập thơ Đào Trang in khắc. Tuy Lý
vương khen là không hổ là con người cha có tiếng. Gồm thông cả nghề làm thuốc.
Lúc mới ra làm việc trải bổ Tri huyện, đổi sung Trợ giáo, rồi thăng hàm Thị giảng
về hưu” [89, tr. 41-42].
Ghi chép này của Đại Nam chính biên liệt truyện được nhắc đến ở phần cuối
mục Tự trước niên phổ (TTNP) của Như Như đạo nhân trong HLSC: “Quốc sử quán
soạn bộ [Đại Nam chính biên] liệt truyện thì sự nghiệp lúc sinh thời của Hồng Vịnh
được lược thuật phụ vào phần sau truyện của Tiên công [Nguyễn Phúc Miên Thanh]”.
- Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm trong Lịch sử Phật giáo xứ Huế, viết về
Như Như đạo nhân: “Thế danh là Nguyễn Phúc Hồng Bàng, quê quán của đạo nhân
không thấy ghi. Chỉ biết ông là đệ tử của Hòa thượng Tâm Truyền ở chùa Báo

Quốc, có pháp danh là Trừng Khế, tự là Như Như. Ông sanh vào giờ Dần ngày 15
tháng 01 năm Tân Hợi, tự Đức thứ 5 (1851). […] Đạo nhân có trước thuật Lưỡng
Xuân sơn chí (LXSC) khoảng 100 cuốn, chép thơ văn của bạn bè và chư sơn tự Tăng
làm ở Thi xã Liên trì. […] Vào mùa xuân năm Kỷ Hợi (1899), Tâm Truyền đại sư
bảo đạo nhân tục biên bộ Hàm Long sơn chí. Chỉ trong vòng 3 tháng, Như Như đạo
nhân hoàn thành bộ sách tục biên” [4, tr. 379].
16
- Trần Trọng Dương trong Khảo sát tình hình văn bản tác phẩm một số tác gia
hoàng tộc triều Nguyễn đã giới thiệu một cách khái quát về tác giả Nguyễn Phúc Hồng
Vịnh: “Nguyễn Phước Hường Vịnh (?-?) hiệu Trọng Vĩnh
1
, con thứ ba của Trấn Biên
quận công Miên Thanh, thời trẻ thông minh nhanh nhẹn, thích ngâm vịnh, phong cách
giống như cha, kiêm thông nghề thuốc. Lúc mới ra làm việc từng trải chức Bổ tri
huyện, sau đổi sung Trợ giáo, rồi thăng hàm Thị giảng. Tác phẩm có Đào Trang tập.
Ông viết rất nhiều thơ về cảnh quan xứ Huế. Thơ ông đượm ý vị thiền, cảm hứng trầm
lặng. Thơ ông cũng in dấu những suy tư của một bề tôi đối với vua và những công việc
của đất nước” [17, tr. 302-321].
Bài viết của Trần Trọng Dương đã giới thiệu văn bản Đào Trang tập [VHv.15]
của viện Nghiên cứu Hán Nôm. Về văn bản Đào Trang tập, tác giả Di sản Hán Nôm
Việt Nam- Thư mục đề yếu, cho biết: “VHv.15 gồm toàn bộ tám tập thơ của Hường
Vịnh, gồm những bài vịnh cảnh vật, thời tiết, thơ thuật sự, cảm hoài, vịnh sử, thơ thù
tặng…” [17, tr. 302-321]. Nhưng theo sự khảo sát của Trần Trọng Dương thì văn bản
VHv.15 gồm hai bản in ở hai lần in đóng gộp lại. Bản in lần một, chỉ có in Quân Đình
thi thảo trích lục 筠亭詩草摘錄 của Miên Thanh và 6 tập thơ của Hường Vịnh. Bản in
lần hai có bổ sung một bài thơ cho tập Quân Đình thi thảo trích lục, ngoài ra còn có
thêm 4 tâp thơ nữa của Hường Vịnh; phụ thêm tập Lại An thi thảo trích lục 賴安詩草
摘錄 (gồm 26 bài thơ) của Hình bộ Thượng thư Nguyễn Bài Vĩnh Cao do Hường Vịnh
phụng hiệu, và Thập nhị đầu-đà hạnh oa ngâm thảo 十二頭陀行窩吟草 của Ưng Phúc.
Mười tập thơ của Hường Vịnh trong Đào Trang tập bao gồm: Đào Trang tập nhất:

Nghiễn Bắc sơn phòng ngâm sao 硯北山房吟舉; Đào Trang tập nhị: Lô Hoa thiển thuỷ
đình ngâm sao 蘆花淺水亭吟舉; Đào Trang tập tam: Tiểu Thuý Vân sơn chi sào ngâm
sao 小翠雲山之巢吟舉; Đào Trang tập tứ: Trú hạc ngâm sao 住鶴 吟舉; Đào Trang tập
ngũ: Tam Thuý Lâm tạ ngâm sao 三翠林舉吟舉; Đào Trang tập lục: Xuân sơn thương
thuý nhi tri tiếu hiên ngâm sao 春山蒼翠而知笑軒吟舉; Đào Trang tập thất: Tùng cúc
do tồn chi hoá đài ngâm sao 松菊猶存之化臺吟舉; Đào Trang tập bát: Tiên Thuý động
thiên ngâm sao 鮮翠洞天吟舉; Đào Trang hậu tập nhất: Cổ Thuý trai ngâm sao 古翠齋
吟舉; Đào Trang hậu tập nhị: Hạc Tiệp sào ngâm sao 鶴睫吟舉. Theo thống kê 10 tập,
1
Hồng Vịnh, hiệu “Vĩnh Trọng”, chứ không phải “Trọng Vĩnh” như tác giả bài nghiên cứu này viết.
17
Hường Vịnh còn 250 bài thơ được chép trong Đào Trang tập. Trên thực tế, thơ Hường
Vịnh có khoảng trên 704 bài thơ.
Như Như là một người từ nhỏ đã học qua lễ giáo Nho gia, tuổi trung niên
đam mê Hoàng- Lão, về sau đến chùa quy y, sau khi từ quan ông thế phát với các
đại sư chùa Viên Thông, chùa Báo Quốc, trở thành cư sĩ tu Phật, nhưng suy nghĩ
của ông không chấp nê hình thức, sống đạm bạc và tinh thần luôn rộng mở, dung
thông mọi tư tưởng, thậm chí có người con gái cũng cho lấy chồng khác đạo. “Vì ta
quy y đại sư ở chùa Viên Thông, lại được đại sư chùa Báo Quốc thọ ký. Thường
qua lại với các chùa Từ Hiếu, Thiên Hoà, rồi cho phép người nhà tham gia Giáo hội
Phúc Quả”[Hóa đài tự chí]. Cho người nhà tham gia giáo hội Thiên chúa giáo có
nghĩa là ông vừa tôn trọng vừa thân cận với một tôn giáo phương Tây đang tìm cách
truyền vào Việt Nam lúc bấy giờ. Điều này trái hẳn với quan điểm của vua Tự Đức
khi ban đạo dụ năm 1848 rằng: “Đạo Chúa hiển nhiên là trái với tự nhiên, bởi nó
không tôn trọng các tổ tiên đã khuất. Các thầy giảng đạo gốc Âu châu, là các kẻ
đáng tội nhất, sẽ bị ném ra biển, với đá cột quanh cổ, và một phần thưởng ba mươi
nén bạc sẽ được trao cho bất cứ ai bắt được một người trong họ. Các thầy giảng gốc
Việt Nam ít tội hơn, và trước tiên sẽ bị tra tấn để xem họ có sẽ từ bỏ những sai lầm
của mình hay không. Nếu từ chối, họ sẽ in dấu trên mặt và đày đi đến những vùng
rừng thiêng nước độc. Còn những ngu-dân thì các quan phải ngăn-cấm, đừng để cho

đi theo đạo mà bỏ sự thờ-cúng cha ông, chứ đừng có giết hại” [31, tr. 242].
Chính tinh thần phóng khoáng của Trần Viết Thọ mà trong nội dung câu đối
của người bạn tri kỷ của ông- Thiếu Nham- thân tặng, đã ca ngợi ông là người dung
thông cả bốn tôn giáo lớn: Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo và Thiên chúa giáo.
Dụng tận nhất tâm sinh, tứ giáo hỗ tham thành chính quả;
(Dụng tâm hết một đời, bốn giáo cùng tu thành chính quả)
Như Như đạo nhân rất lấy làm hài lòng, coi lời chúc tặng của bạn là tấm lòng
tri kỷ hiểu thấu được tâm can mình và thích chí: “Thì đủ biết đó là lời hiểu được ta
vậy!” [Hóa đài tự chí].
1.2.3. Về tác phẩm Hàm Long sơn chí
- Nguyễn Lang có ghi trong Việt Nam Phật giáo sử luận: “Sách Hàm Long
sơn chí của cư sĩ Ðiềm Tịnh trước tác mà Mật Thể đã được đọc trước khi viết Việt
Nam Phật giáo sử lược (đó là một bản chép tay - sách này chưa từng được khắc
bản) hiện giờ bị thất lạc, chưa tìm ra được” [35, tr.192].
18
- Lê Mạnh Thát trong Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, có giới thiệu tác
giả Điềm Tịnh cư sĩ và Như Như đạo nhân với các tác phẩm: “Hàm Long sơn chí;
Dương xuân sơn chí; Đào trang thi tập (Như Như); Thiền môn tòng thuyết (Điềm
Tịnh)” [56, tr. 21-22]. Song, đây chỉ là “bản dự kiến danh sách các tác gia và tác
phẩm sẽ công bố trong bộ Tổng tập văn học này” [56, tr. 13].
- Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm trong Lịch sử Phật giáo xứ Huế, mô tả tác
phẩm Hàm Long sơn chí như sau: “Về hình thức, đây là một bộ sách ở dạng cảo
bản, chưa thấy khắc in san hành. Sách gồm có bao nhiêu tập, bao nhiêu quyển hiện
chưa kiểm được sau thời gian loạn lạc. Sách đã lưu hành phân tán nhiều nơi, thật là
một điều đáng tiếc. […] Ở gáy sách phía trên có in chữ Hàm Long sơn chí; đến gạch
kiểu sách chữ Hán xưa; đến Quyển…; ở dưới có mấy chữ “Báo Quốc tự tàng bản”,
còn lại ba mặt viền màu đỏ để khỏi bẩn” [4, tr.380].
- Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn khi khảo cứu về các vị đại sư hòa thượng
của xứ Thuận Hóa trong cuốn Chư tôn Thiền đức Phật giáo Thuận Hoá đã nêu ra được
những nét căn bản về công hạnh và sự nghiệp của nhiều vị đại sư, hoà thượng có liên

quan đến sự nghiệp hoằng dương Phật pháp tại vùng đất cố đô Huế. Trong khảo cứu
của hai tác giả viết chung này cũng có nhắc đến tác phẩm HLSC. Tuy nhiên, cuốn
sách còn tồn tại nhiều vấn đề sử liệu (sử liệu nêu ra còn mơ hồ), nên tính thuyết
phục chưa cao.
- Nguyễn Phước Tương trong Phó bảng Trần Viết Thọ - con người khẳng
khái, ung dung mô tả tác phẩm HLSC như sau: “Trong thời gian làm việc ở kinh đô,
tuy bộn bề công việc của triều đình, nhưng Phó bảng Trần viết Thọ vẫn sáng tác văn
thơ. Ông đã cùng với ông Hồng Vịnh sáng tác tác phẩm Hàm Long sơn chí, một tác
phẩm đồ sộ mà hai vị để lại cho đời sau” [82, tr.85].
- Thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hà- Nghiên cứu tác
phẩm Thiền môn tùng thuyết tập của Phó bảng Trần Viết Thọ, chúng tôi đã có các
khảo cứu khá chi tiết về tên tuổi, thành phần xuất thân, con đường làm quan và thi cử,
quá trình tu hành và trước tác của Phó bảng Trần Viết Thọ, hiệu Điềm Tịnh cư sĩ, cung
cấp cho giới nghiên cứu những thông tin quan trọng về công phu tu hành, đạo cao đức
trọng của một cư sĩ thực sự có tầm ảnh hưởng lớn đối với phong khí sinh hoạt Phật
giáo xứ Huế lúc bấy giờ. HLSC cũng đã được nhắc đến trong luận văn nêu trên, luận
văn cũng cho biết thông tin ban đầu về quá trình truyền bản, hình thành nên tác phẩm
này [22, tr. 31].
19
* Tiểu kết chương 1
HLSC là tác phẩm có giá trị về văn học, sử học và tư tưởng Phật học. Tác phẩm
này bao gồm những trước tác của các chúa Nguyễn, của vua quan triều Nguyễn, của
các vị trong hoàng tộc, các đại sư, hoà thượng, cư sĩ đương thời do hai cư sĩ là Phó
bảng Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh sưu tập và sáng tác. Liên quan đến tác
phẩm, tác giả HLSC, những đóng góp của các học giả đi trước đã thể hiện rõ ở mức độ
sau:
- Về tác giả Trần Viết Thọ: các khảo cứu đã bước đầu cung cấp thông tin về
các thời điểm năm sinh, năm mất, năm thi đỗ. Việc ông làm quan, từ quan xuất gia,
trước tác như thế nào thì các khảo cứu trước đây không ghi chép đầy đủ, cũng như
không cho biết thời gian cụ thể.

- Về Nguyễn Phúc Hồng Vịnh: các khảo cứu cũng không đem lại điều khả
quan hơn, mới chỉ nhắc đến thân thế và khả năng thi ca của ông. Không thấy ghi
năm sinh năm mất và các mốc thời gian quan trọng trong cuộc đời của vị thi sĩ xuất
thân hoàng tộc này.
- Về tác phẩm HLSC, trong các khảo cứu trước đây đã nhắc đến, nhưng chỉ
dừng lại ở việc giới thiệu tên đề mục tác phẩm mà không giới thiệu rõ về nội dung.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của những học giả đi trước mới chỉ
giới thiệu sơ lược tiểu sử, chưa phát hiện thêm điều gì mới mẻ và mang tính
chuyên sâu về thân thế và hành trạng của hai tác giả Điềm Tịnh cư sĩ và Như
Như đạo nhân. Vì vậy, các vấn đề lớn như nhận định về giá trị về Sử liệu, Văn
học, tư tưởng Triết học của HLSC vẫn để lại một khoảng trống lớn, cần có sự khảo
cứu cẩn trọng. Đó chính là lí do để chúng tôi thực hiện đề tài luận án tiến sĩ này.

20
Chương 2. THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP CỦA TRẦN VIẾT THỌ
VÀ NGUYỄN PHÚC HỒNG VỊNH
2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội và khuynh hướng văn học từ nửa
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
2.1.1. Bối cảnh lịch sử- xã hội nửa cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX
2.1.1.1. Thực dân Pháp hoàn thành việc xâm chiếm Việt Nam
Ở nửa cuối thế kỷ XIX, đất nước Việt Nam lâm nguy trước sự xâm lăng của
kẻ thù mới: chủ nghĩa tư bản phương Tây “xưng tân trào gây nợ oán cừu” và những
người dân ấp dân lân, những người mang tơi đội nón (soa lạp nhân) đã nhất tề vùng
dậy dưới sự dẫn dắt của các nhà nho, các lãnh binh, đề đốc và của cả những người
bình thường, như ngư dân Nguyễn Trung Trực (1839-1868), anh dũng đánh giặc,
bảo vệ quê hương, sơn hà xã tắc. Trong Kính ký Hoàng Cao Khải (1850-1933) thư,
Phan Đình Phùng (1847-1895) ngợi ca những người ứng nghĩa ấy - những người
“đem thân vào việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém chết, vậy mà trước
sau chẳng hề lấy thế làm chán nản, ngã lòng bao giờ”. Trong khi đó triều đình Tự
Đức, “với chủ trương chống giặc cầm chừng bằng chiến lược thủ để hòa, với thái độ

vừa sợ cả giặc vừa sợ cả dân, rồi sau đó đi tới chỗ sợ dân hơn sợ giặc” [54, tr. 219].
Triều đình “úy tử, tham sinh”
1
ấy là trở ngại lớn đối với cuộc chiến đấu của nhân
dân Việt Nam chống xâm lược; quan quân đông đúc của triều đình nhà Nguyễn
không giữ được đất đai, thành lũy trước “súng giặc gầm như sấm vang”
2
, trái lại, có
kẻ lại bỏ chạy hoặc theo giặc. Trước chiến lược “tằm ăn lá dâu” của thực dân Pháp,
triều đình nhà Nguyễn lần lượt nhượng đất, thành lũy cho quân xâm lược: năm
1862, mất ba tỉnh miền đông Nam kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường); năm
1867, mất ba tỉnh miền tây Nam kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Thế là Nam
kỳ lục tỉnh đã rơi vào tay Pháp. Rồi từ 1873 đến năm 1882, quân xâm lược hai lần
tiến đánh miền bắc. Năm 1883, sau khi vua Tự Đức băng, Thuận An bị Pháp chiếm,
kinh đô Huế bị giặc uy hiếp nghiêm trọng. Ngày 6 tháng 6 năm 1884, Nguyễn Văn
Tường thay mặt triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Patenôtre thừa nhận Pháp “bảo
hộ” toàn cõi Việt Nam.
1
Hịch Lãnh Cồ
2
Hoàng Diệu, Trần tình biểu.
21

×