Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

nghiên cứu hàm long sơn chí- tác giả và tác phẩm(tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.93 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HÀ
(THÍCH HOẰNG TRÍ)
NGHIÊN CỨU HÀM LONG SƠN CHÍ-
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Chuyên ngành : HÁN NÔM
Mã số : 62.22.40.01
TÓM TẮT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2014
Công trình được hoàn thành tại: Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. NGUYỄN TÁ NHÍ
2. PGS. TS. LÃ MINH HẰNG
Phản biện 1:
PGS. TS. NGUYỄN CƠNG VIỆT

Phản biện 2:
PGS. TS. PH M V N KHỐIẠ Ă
Phản biện 3:
PGS. TS. VŨ THANH
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện tại

vào hồi…….giờ……phút, ngày………tháng……….năm……
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
1. Thư viện Quốc gia
2. Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
3. Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nơm
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn học triều Nguyễn chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử văn học trung


đại Việt Nam, nó đã tạo nên diện mạo của văn học giai đoạn này: đa dạng về
thể loại, phong phú về nội dung. Những tác gia xuất thân từ hoàng tộc chiếm đa
số, Nguyễn Phúc Hồng Vịnh nổi bật với tác phẩm Hàm Long sơn chí (HLSC)含
龍山志 được soạn chung với Trần Viết Thọ. Việc sưu tầm, dịch chú, giới thiệu
tác phẩm này sẽ góp phần tạo dựng nên diện mạo chung cho văn học Hán Nôm
trên đất cố đô thời Nguyễn.
HLSC đã ghi lại những biến cố xã hội của vùng đất Thuận Quảng - vùng
đất của một nước quân chủ dưới thời nhà Nguyễn; là vùng đất của một nước
thuộc địa - nửa phong kiến. Đặt tác phẩm này trong những không gian Nam- Bắc
phân chia suốt bốn thế kỷ (từ tk.XVI → tk.XIX) để nhận ra rằng, nó nằm trong
thiết chế văn hoá - tư tưởng “Nho Thích song hành” hay “cư Nho mộ Thích” của
Đàng Trong, của triều Nguyễn. HLSC đã thể hiện được một khuynh hướng văn
học của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
HLSC là một tác phẩm mang những đặc trưng thể loại của văn học trung
đại. Vì vậy, nghiên cứu HLSC sẽ góp phần làm sáng tỏ giá trị đa chức năng về
văn học, sử học và tư tưởng - triết học của nó.
Với những lí do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu cho luận án
tiến sĩ của mình: Nghiên cứu Hàm Long sơn chí - tác giả và tác phẩm.
2. Phương pháp nghiên cứu. Luận án sẽ sử dụng các phương pháp sau:
1. Phương pháp văn bản học dùng để tìm ra văn bản gần với bản gốc nhất.
2. Phương pháp luận sử học được vận dụng để khái quát hoá những hoàn
cảnh chính trị, lịch sử - xã hội, văn hoá - tư tưởng làm nảy sinh các khuynh
hướng văn học nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, và trong việc xây dựng
một cách chi tiết tiểu sử của Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh.
3. Vận dụng phương pháp nghiên cứu so sánh - loại hình để phân loại và
nhận ra những khác biệt về các khuynh hướng văn học được thể hiện trong tác
phẩm, giúp nhận diện một cách cụ thể tính chất phong phú, đa dạng của văn học
Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
4. Vận dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành theo quan điểm mở rộng
hệ thống: nhận ra đặc điểm, tính chất của yếu tố mình đang được tập trung phân

tích, đánh giá.
1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Văn bản Hán Nôm HLSC do Hòa thượng Thích Hải Ấn - trụ trì chùa Từ
Đàm, thành phố Huế, cung cấp bản photocopy năm 2009.
- Các văn bản Hán Nôm khác có ghi chép về hai tác giả Trần Viết Thọ và
Nguyễn Phúc Hồng Vịnh, và các tài liệu bổ trợ cho việc nghiên cứu HLSC.
3.2. Phạm vi nghiên cứu. Luận án tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Phân tích các văn bản Hán Nôm liên quan, tiến tới phục dựng một cách
đầy đủ cuộc đời cùng những đóng góp của Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc
Hồng Vịnh.
- Xây dựng văn bản HLSC dưới ánh sáng của văn bản học; phân tích,
đánh giá những giá trị nhiều mặt của HLSC.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Luận án đặt nhiệm vụ:
- Xây dựng tiểu sử của Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh;
- Tái lập một văn bản gần nhất với nguyên bản HLSC;
- Lý giải những điều kiện chính trị, lịch sử - xã hội, văn hoá làm xuất hiện HLSC;
- Nêu bật những giá trị văn học, sử học, tư tưởng gắn liền với những giá
trị về hình thức, nghệ thuật của HLSC.
5. Đóng góp mới của luận án. Luận án được thực hiện sẽ có những đóng góp:
- Góp phần làm sáng tỏ về con người, hành trạng của Trần Viết Thọ và Nguyễn
Phúc Hồng Vịnh, bổ sung những khiếm khuyết trong các nghiên cứu trước đây;
- Cung cấp một văn bản HLSC gần nhất với nguyên tác;
- Đưa ra những nhận xét về giá trị nội dung và nghệ thuật của HLSC.
6. Kết cấu luận án. Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Phần phụ lục, nội
dung luận án chia thành bốn chương
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Tổng quan về Hàm Long sơn chí và tình hình nghiên cứu

liên quan đến đề tài luận án
Chương 2. Thân thế, sự nghiệp của Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc
Hồng Vịnh
Chương 3. Nghiên cứu tác phẩm Hàm Long sơn chí
Chương 4. Giá trị nội dung và nghệ thuật của Hàm Long sơn chí
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC
2
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ HÀM LONG SƠN CHÍ VÀ TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Giới thuyết về Hàm Long sơn chí
1.1.1. Tên chùa, tên núi và tên gọi “Hàm Long”
“Tự” (chùa) hay “tự viện” (chùa viện) là nơi an trí tượng Phật và dành
cho tăng, ni cư trú tu hành Phật đạo. Còn có các tên gọi khác, như tự sái, tăng
tự, đạo tràng, Phật sái, Phạm sái … Theo Pháp uyển châu lâm, quyển 39, tên
gọi khác của “tự”, có: Tịnh trụ xá, pháp đồng xá, xuất thế gian xá, kim cương
tịnh sái, tịch diệt đạo tràng Trong tiếng Phạn “tự” hoặc “viện” được gọi là
vihara, samgharama. Đại Tống tăng sử lược, quyển thượng ghi: “Tại Trung
quốc, Hồng Lô tự là nơi do triều đình thiết lập để tiếp đãi tân khách bốn
phương Về sau, người Trung Quốc gọi các nơi Tăng ni cư trú là tự”.
Ngoài ra, người ta còn lấy tên núi (sơn) để phụ đặt tên chùa, do ngày xưa
đa số các ngôi chùa được xây dựng trên núi như: chùa Bổ Đà trên núi Bổ Đà
tỉnh Bắc Giang, chùa Hàm Long trên núi Hàm Long tỉnh Thừa Thiên Huế
Theo thành phần xã hội của người đứng ra xây dựng chùa viện, phân biệt
có: quan tự (chùa do vua quan tạo lập); tư tự (chùa do tư nhân xây) và sơn tự
(chùa do các vị Tăng trác tích ẩn cư ở rừng sâu núi cao xây).
Xoay quanh tên gọi Hàm long (hàm rồng) có các địa danh: Núi Hàm
Rồng (tên khác: núi Long Hàm) ở tỉnh Thanh Hóa; Chùa Hàm Long (còn gọi

chùa Long Hàm) trên núi Lãm Sơn tỉnh Bắc Ninh; chùa Hàm Long nằm trên
phố Hàm Long, Hà Nội; chùa tên Hàm Long ở huyện Đông Triều, trấn Hải
Dương (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh); núi Hàm Rồng (trong dãy Hoàng Liên
sơn, ở thị trấn Sapa, tỉnh Lào Cai). Ở tỉnh Thừa Thiên Huế có núi Hàm Long.
Đến đời Nguyễn, khu vực này xây dựng ngôi chùa nổi tiếng- chùa Báo Quốc.
Hai tác giả Nguyễn Phúc Hồng Vịnh và Trần Viết Thọ đã sưu tầm thơ văn,
bia ký ở đây, soạn ra sách HLSC.
3
1.1.2. Hàm Long sơn chí mang loại hình văn học chức năng trong nền văn học
trung đại Việt Nam
Tác phẩm HLSC ra đời trong giai đoạn hình thái xã hội Việt Nam đã dần
chuyển sang hình thái xã hội thực dân nửa phong kiến. Chí là một trong ba lối
viết sử của thể kỉ truyện của sử gia, nhưng HLSC không thuộc loại hình lịch sử
mà nghiêng về loại hình văn chương. Căn cứ vào nội dung bài tựa Hàm Long
sơn chí tự, chúng ta sẽ thấy được chức năng lễ nghi trong tác phẩm này mà tác
giả nhắm đến.
Thứ nhất, HLSC gắn với chức năng thực hành mà tác giả đã tự nguyện “tập
thành” nên một tác phẩm chí với hệ thống thể loại văn học và ngôn từ đa dạng.
Thứ hai, HLSC mang tính quy tắc mà tác giả đã tuân theo một cách
nghiêm nhặt trong cách thức ghi chép về không gian, thời gian, tác giả…
Thứ ba, khi HLSC là một tác phẩm mang chức năng lễ nghi [tôn giáo], tác
giả đã đặt cho mình một mục đích mang tính chủ quan khi ghi chép về những
sự kiện có liên quan đến tư liệu Phật giáo thời chúa Nguyễn, vua Nguyễn.
1.2. Các nghiên cứu về tác giả- nhà sưu tầm và biên soạn tác phẩm Hàm
Long sơn chí
1.2.1. Về Trần Viết Thọ (1836-1899):
Xung quanh cuộc đời của Trần Viết Thọ, các khảo cứu trước nay đã ghi
lại những mốc thời gian đáng nhớ trong quãng đời của ông.
- Quốc triều khoa bảng lục đã cung cấp các thông tin ngắn gọn về tên tuổi,
quê quán, năm sinh, năm đỗ cử nhân, năm đỗ Phó bảng của ông; Quốc triều

Hương khoa lục chỉ ghi quê hương, năm thi đậu Phó bảng của ông [12, tr. 373].
- Khoa cử và các nhà khoa bảng của triều Nguyễn đã ghi lại khá đầy đủ
về các mốc thời gian quan trọng trong cuộc đời của Trần Viết Thọ [15, tr. 595].
Các nhà khoa bảng Việt Nam đã ghi lại chi tiết về năm sinh, năm mất, năm thi
đỗ, ra làm quan và quê quán của ông [61, tr. 754]. Đại Nam thực lục ghi chép
khá đầy đủ các thông tin về việc Trần Viết Thọ thi đậu Phó bảng [80, tr.103].
4
Laborde trong Bulletin des Amis du Vieux Hué đã cung cấp những thông
tin về tổ đình Báo Quốc, về quãng đời của ông sau khi treo ấn từ quan: ông
từng làm Đốc học trường tỉnh ở Quảng Trị trước khi hồi hưu; năm 59 tuổi ông
cáo quan về tu ở chùa Báo Quốc; ông soạn cuốn Báo Quốc tự sự lục.
- Lịch sử Phật giáo xứ Huế, có ghi tên thật, quê quán, năm sinh, chức
quan và trước tác của ông [4, tr. 377]. Phó bảng Trần Viết Thọ - con người
khẳng khái, ung dung, đã khảo cứu kỹ về ngày tháng năm sinh, quê hương, tên
húy, tên tự và tên tu hành của ông [82, tr.81]. Tuy nhiên, các cứ liệu mà bài báo
sử dụng chỉ là dã sử hoặc truyền thuyết, nên kém sức thuyết phục.
1.2.2. Về Nguyễn Phúc Hồng Vịnh (1851-?)
Các ghi chép, khảo cứu về tác giả Nguyễn Phúc Hồng Vịnh trước đây khá
sơ sài. Đến nay, mới chỉ tìm thấy trong Đại Nam chính biên liệt truyện. Thông
tin cho biết ông là con thứ 3 của Trấn Biên quạn công Miên Thanh: “Hồng
Vịnh … lúc trẻ thông minh nhanh nhẹn, thích ngâm vịnh, phong cách giống
như cha, có tập thơ Đào Trang in khắc.” [89, tr. 41-42].
- Lịch sử Phật giáo xứ Huế ghi rõ ngày tháng năm sinh, thế danh, pháp danh
và tên tự của ông, đồng thời cũng cho biết ông là đệ tử của Hòa thượng Tâm Truyền
ở chùa Báo Quốc. Về trước tác, có Lưỡng Xuân sơn chí và HLSC [4, tr.379].
- Trần Trọng Dương trong Khảo sát tình hình văn bản tác phẩm một số tác
gia hoàng tộc triều Nguyễn đã giới thiệu một cách khái quát về tác giả Nguyễn
Phúc Hồng Vịnh [17, tr. 302-321]. Theo khảo sát này, văn bản Đào Trang tập
VHv.15 gồm hai bản in ở hai lần in đóng gộp lại. Bản in lần một: in Quân Đình
thi thảo trích lục của Miên Thanh và 6 tập thơ của Hường Vịnh. Bản in lần hai:

bổ sung một bài thơ cho tập Quân Đình thi thảo trích lục, có thêm 4 tâp thơ nữa
của Hồng Vịnh; phụ thêm tập Lại An thi thảo trích lục do Hồng Vịnh phụng hiệu.
Mười tập trong Đào Trang tập (có khoảng trên 704 bài thơ), nhưng theo thống kê
chỉ còn 250 bài.
1.2.3. Về tác phẩm Hàm Long sơn chí
- Chư tôn Thiền đức Phật giáo Thuận Hoá mới chỉ nhắc đến tác phẩm
HLSC. Tuy nhiên, sử liệu nêu ra còn mơ hồ, nên tính thuyết phục chưa cao. Lê
5
Mạnh Thát trong Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, đã giới thiệu các tác
phẩm của Điềm Tịnh cư sĩ và Như Như đạo nhân, có: “HLSC; Dương xuân sơn
chí; Đào trang thi tập; Thiền môn tòng thuyết [56, tr.21-22].
- Việt Nam Phật giáo sử luận [35, tr.192] và Lịch sử Phật giáo xứ Huế đã
mô tả hiện trạng và hình thức của tác phẩm. Phó bảng Trần Viết Thọ - con
người khẳng khái, ung dung đã ghi lại hoàn cảnh sáng tác HLSC [82, tr.85].
- Nguyễn Hà- Nghiên cứu tác phẩm Thiền môn tùng thuyết tập của Phó
bảng Trần Viết Thọ, đã khảo cứu khá chi tiết về tên tuổi, thành phần xuất thân,
con đường làm quan và thi cử, quá trình tu hành và trước tác của Trần Viết Thọ.
Luận văn cho biết thông tin ban đầu về quá trình truyền bản của HLSC [22, tr. 31].
* Tiểu kết chương 1
HLSC là tác phẩm có giá trị về văn học, sử học và Phật học. Tác phẩm gồm
những trước tác của các chúa Nguyễn, vua quan triều Nguyễn, các vị trong hoàng
tộc, các đại sư, hoà thượng, cư sĩ đương thời do Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc
Hồng Vịnh sưu tập và sáng tác. Liên quan đến tác phẩm, tác giả HLSC, các học
giả đi trước đã đi đến nhận định:
- Về Trần Viết Thọ: các khảo cứu đã bước đầu cung cấp thông tin về năm
sinh, năm mất, năm thi đỗ; nhưng lại chưa cho biết việc ông làm quan, từ quan,
xuất gia và các trước tác của ông.
- Về Nguyễn Phúc Hồng Vịnh: các khảo cứu mới chỉ nhắc đến thân thế và
khả năng thi ca của ông; không ghi rõ năm sinh, năm mất và các mốc thời gian
quan trọng trong cuộc đời của vị thi sĩ xuất thân hoàng tộc này.

- Về tác phẩm HLSC, trong các khảo cứu trước đây đã nhắc đến, nhưng
chỉ dừng lại ở việc giới thiệu tên đề mục tác phẩm mà không giới thiệu kỹ về
nội dung.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của những học giả đi trước mới
chỉ giới thiệu sơ lược tiểu sử. Các nhận định về giá trị về Sử liệu, Văn học, tư
tưởng Triết học của HLSC vẫn để lại một khoảng trống lớn, cần có sự khảo cứu
cẩn trọng. Đó chính là lí do để chúng tôi thực hiện đề tài luận án tiến sĩ này.

6
Chương 2. THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP CỦA TRẦN VIẾT THỌ VÀ
NGUYỄN PHÚC HỒNG VỊNH
2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội và khuynh hướng văn học nửa cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX
2.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội nửa cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX
2.1.1.1. Thực dân Pháp hoàn thành việc xâm chiếm Việt Nam
Ở nửa cuối tk.XIX, đất nước Việt Nam lâm nguy trước sự xâm lăng của
kẻ thù mới-chủ nghĩa tư bản phương Tây; những người dân ấp dân lân dưới sự
dẫn dắt của các nhà nho, các lãnh binh anh dũng đánh giặc, bảo vệ quê hương,
sơn hà xã tắc. Trong khi đó triều đình giữ thái độ thủ hòa; có kẻ lại bỏ chạy
hoặc theo giặc.
Thực dân Pháp mở rộng khai thác nguyên liệu ở Việt Nam, chia Việt
Nam thành ba kỳ với ba chế độ chính trị và pháp luật khác nhau: để chia rẽ
nhân dân ta, nhằm dễ bề cai trị, bóc lột thu lợi nhuận cao.
Chủ nghĩa thực dân Pháp đã áp đặt lên Việt Nam một hệ thống chính sách
về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật… đã bóc lột
kinh tế, thu lợi nhuận cao từ các sản phẩm khai thác được; trong lúc ấy nhân
dân bị nô dịch, bị bần cùng hóa tột độ.
2.1.1.2. Người Việt Nam luôn có ý thức đấu tranh chống lại ách đô hộ
Ở Việt Nam, trong nửa sau tk.XIX, một số người đã tiếp xúc với thực tế ở
châu Âu và đọc sách nước ngoài. Họ đã đề nghị triều đình nhà Nguyễn cải cách

đất nước theo hình ảnh của các nước công nghiệp Âu-Mỹ.
Các nhà khoa bảng trẻ, những yếu nhân của phong trào Duy tân là các
nhân vật tích cực trong việc phổ biến tân thư. Tân thư làm thay đổi tư tưởng
nho sĩ, đem lại cho họ một tầm mắt “doanh hoàn” nhìn rộng toàn cầu, gợi ý cho
họ một đường lối cứu nước mới, lấy dân làm động lực.
7
Phong trào yêu nước và duy tân bùng lên khắp cả nước khiến thực dân
Pháp hoảng sợ. Những chí sĩ yêu nước đã thẳng thắn vạch trần thói lừa mị của
thực dân Pháp. Song, các phong trào đều bị đàn áp, các chí sĩ bị tử hình, bị bắt,
bị đày ra Côn đảo. Vì vậy, họ phải tìm đường ra nước ngoài hoạt động.
2.1.2. Các khuynh hướng văn học trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ
XIX- đầu thế kỷ XX
Hoàn cảnh lịch sử - xã hội nửa cuối tk.XIX- đầu tk.XX nêu trên đã xuất
hiện và tồn tại nhiều khuynh hướng văn học.
- Khuynh hướng văn học yêu nước, chống Pháp, phê phán triều đình thỏa
hiệp, đầu hàng, ca ngợi các nhà nho sát cánh cùng dân đánh giặc, bảo vệ quê
hương;
- Khuynh hướng văn học biện minh cho việc làm tay sai cho giặc Pháp;
- Khuynh hướng văn học phục vụ cho văn hóa chính trị nhằm làm cho
người ta thừa nhận sự kiện thuộc địa;
- Khuynh hướng văn học tố cáo sự tàn tạ của Nho học, cuộc sống - xã hội
xô bồ, kệch cỡm của chế độ thực dân - phong kiến, kín đáo nhớ đến nước cũ đã
rơi vào tay kẻ xâm lược;
- Khuynh hướng văn học yêu nước và duy tân;
- Khuynh hướng văn học ái ân, phong tình.
Vậy, HLSC mà luận án hướng tới sẽ gắn với khuynh hướng văn học nào
nêu trên hay là một khuynh hướng văn học độc lập? Đây là vấn đề quan trọng
cần giải quyết trong Luận án.
2.2. Tác giả Hàm Long sơn chí: Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh
Các khảo cứu về Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh của các

nhà nghiên cứu đi trước còn quá sơ sài. Luận án tập trung vào những ghi chép
trong HLSC và một số trích lục trong các tờ sức, tờ biểu của bộ Lễ, bộ Hộ,
bộ Lại để cung cấp những thông tin tương đối đáng tin cậy về cuộc đời và tính
cách của hai ông.
8
2.2.1. Trần Viết Thọ, hiệu Điềm Tịnh cư sĩ
Điềm Tịnh cư sĩ 恬靜居士 tên thật là Trần Viết Thọ 陳曰壽, tự Sơn Phủ
山甫, sinh năm Minh Mệnh thứ 17 (1836); người xã Thâm Triều, tổng Bích La,
huyện Thuận Xương, phủ Triệu Phong (nay là thôn Thâm Triều, xã Triệu Tài,
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị); thân phụ là Trần Viết Chỉ; thân mẫu là Lê
Thị Định.
Được đào tạo chính thức nơi “cửa Khổng sân Trình”, nhờ sự thông minh,
bác lãm, lại thêm tinh thần cương trực, nên ông được mọi người nể trọng. Năm
1864: đỗ Tú tài; năm 1867: đỗ Cử nhân; năm 1871: đỗ Phó bảng; làm quan từ
11/1873 đến 8/1893; hồi hưu: 1893; mất năm 1899.
2.2.2. Nguyễn Phúc Hồng Vịnh, hiệu Như Như đạo nhân
Như Như đạo nhân là con trai thứ ba của Trấn Biên quận công Nguyễn
Miên Thanh, sinh năm Tự Đức thứ 4 (1851); được bổ các chức quan: học quan,
quan coi sóc việc tế tự và đường quan.
Năm 1898, Hồng Vịnh thôi chức Trợ giáo ở trường Quốc học, chuyên
tâm vào việc tầm cầu Phật pháp. Khi làm Tri tạng chùa Báo Quốc, ông đã biên
soạn tác phẩm HLSC.
Các tài liệu không ghi rõ năm mất, tuy nhiên căn cứ vào ghi chép trong
Tổng mục, chỉ có thể đoán: ông mất sau năm Nhâm Tuất (1924) sau khi viết
xong phần Tổng mục của Dương Xuân sơn chí, hoặc có thể mất trong những
năm tiếp theo.
2.3. Những tình tiết mở rộng khi nghiên cứu cuộc đời Như Như đạo nhân
và Điềm Tịnh cư sĩ
2.3.1.Mấy câu hỏi đáng suy nghĩ về tư tưởng của hai tác giả.
Điềm Tịnh cư sĩ và Như Như đạo nhân sống trong hoàn cảnh lịch sử xã

hội có nhiều biến cố về chính trị, nên khi viết về cuộc đời của hai ông, nhà
nghiên cứu đã đưa ra những vấn đề rất đáng suy nghĩ.
Thứ nhất: Nguyễn Thượng Hiền là bạn thân của Như Như đạo nhân, tại
sao ông không trao tân thư cho Như Như, mà lại trao nó cho ông hương cống
9
xứ Nghệ? Tại sao Nguyễn Thượng Hiền không giới thiệu Phan Bội Châu với
Như Như?
Thứ hai: tình hình chính trị- xã hội của nước Đại Việt cuối tk.XIX,
đường lối giáo dục của tầng lớp khoa bảng, tư duy của tầng lớp trí thức lúc bấy
giờ liệu có ảnh hưởng vào thơ văn của Điềm Tịnh và Như Như?
Thứ ba: Tại sao thơ của Tùng Thiện vương Miên Thẩm và Tuy Lý vương
Miên Trinh (hai ông bác ruột của Như Như), thơ tỏ lòng thương dân, yêu nước
của vua Tự Đức lại không có dấu ấn gì trong HLSC?
Thứ tư: Tại sao những điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch lại không có tiếng vang trong Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh?
Thứ năm: Nguyễn Thượng Hiền là bạn thân của Nguyễn Phúc Hồng Vịnh
lại không trao Thiên hạ đại thế luận cho ông, mà lại trao cho Phan Bội Châu?
2.3.2. Con đường đưa Điềm Tịnh cư sĩ và Như Như đạo nhân đến với đạo Phật
Học vấn theo Nho giáo Trung Hoa gắn chặt với chế độ khoa cử. Ở nước
ta, đi học, đi thi, làm quan vào thế kỷ XIX đã bộc lộ rõ những hạn chế nhất định
về thân phận và phẩm vị của nhà nho.
Trong cách lý giải cuộc đời, thuyết minh cách sống của mình, Trần Viết
Thọ đã lui về quê nhà hưởng lạc thú bởi tư tưởng Tam giáo; còn Nguyễn Phúc
Hồng Vịnh đã vận dụng nhiều tư tưởng Trang tử trong thơ ông để quên đi
những mâu thuẫn về thân phận và thời cuộc. Hai ông chủ trương cắt đứt mọi
quan hệ xã hội để chỉ sống với mình, cho đến quên cả bản thân mình, hoà làm
một với thiên nhiên, với đạo.
Chứng kiến bao cảnh tranh giành ruộng đất, sự ngông nghênh của bọn
thực dân nên Trần Viết Thọ cũng muốn tìm về cuộc sống đời thường nơi thôn
quê vắng vẻ.

Hai ông vẫn đi học, ứng thí, làm quan với cái ảo tưởng “trí quân, trạch
dân”. Những trải nghiệm sống và hành động theo Nho giáo của hai ông cho
thấy việc trở thành con người hiếu hạnh, hiền lương, phương chính, minh kinh
10
và năng văn không phải là quá khó, nhưng thực hiện việc “trí quân, trạch dân”
là không thể.
Lịch sử dân tộc, lịch sử Đàng Trong và triều Nguyễn đã định hình rõ cho
hai ông con đường tu Phật, chỉ có tu Phật mới giải quyết được những khổ đau
con người, nhất là những mâu thuẫn trong tư tưởng nhà trí thức.
* Tiểu kết chương 2
Thứ nhất, Trần Viết Thọ xuất thân từ truyền thống nho học. Ông đỗ Phó
bảng năm Tự Đức thứ 25 (1871). Sau đó, ông tham gia chính triều, giữ nhiều
chức vụ như Đốc phòng, Tri huyện, Giáo thụ, Huấn đạo, Chủ sự ở Lại bộ ty
Năm Thành Thái 7 (1895), ông được phê chuẩn hồi hưu. Sau khi về hưu, ông
làm đệ tử Phật môn, trú ngụ tại chùa Diệu Đế. Tác phẩm có: Báo Quốc tự sự
lục, Thiền môn tùng thuyết tập, Cổ Tiên am nghi chú.
Thứ hai, Nguyễn Phúc Hồng Vịnh là công tử của Trấn biên quận công
Nguyễn Phúc Miên Thanh. Ông được bổ làm quan: học quan (Hàn lâm viện Thị
giảng học sĩ), quan coi sóc việc tế tự (Miếu thừa, Miếu lang, Tự tế ty), và
Đường quan (Tri huyện Phú Vang). Cuối đời, ông thế phát xuất gia tu hành và
giữ chức Tri tạng tại chùa Báo Quốc. Ông sưu tầm, biên soạn tác phẩm HLSC
và nhiều tập thơ văn.
Thứ ba, con đường đưa hai ông đến với đạo Phật có thể là: Một là, do ảnh
hưởng bởi phong khí tu tập nghiêm túc của các vị đại sư, hòa thượng tại kinh đô
Phú Xuân đương thời. Hai là, ảnh hưởng của truyền thống tin Phật và vận dụng
giáo lý đạo Phật vào con đường trị quốc an dân của các đời vua, chúa Nguyễn.
Ba là, do mất niềm tin vào con đường “trí quân trạch dân” của chế độ phong
kiến, nên hai ông muốn tìm về với thế giới an lạc nội tại, bằng lý tưởng sống của
Đạo gia và Phật gia. Thứ tư, sức hút của đạo Phật đã khiến hai ông trở thành
những cư sĩ ngoại hộ đắc lực cho chốn thiền môn lúc bấy giờ.

Đó là những ngả đường đưa ông đến với đạo Phật để cuối đời hai ông tìm
được con thuyền bát-nhã đưa về với giá trị chân- thiện- mỹ ở thực tại.

11
Chương 3. NGHIÊN CỨU TÁC PHẨM HÀM LONG SƠN CHÍ
3.1. Tiền đề cho việc viết Hàm Long sơn chí
3.1.1. Núi Hàm Long và chùa Báo Quốc
Núi Hàm Long thuộc xã Phú Xuân huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên,
trên núi có chùa Báo Quốc. Chùa có địa thế giống như chiếc đầu rồng quay mặt
về sông Hương tựa như con vật thiêng đang triều bái hoàng thành. Hiện không
có tài liệu nào cho biết chính xác niên đại dựng chùa, mà tương truyền ban đầu,
sư tổ Giác Phong chỉ lập am tranh trên núi, đến năm Lê Cảnh Hưng thứ 8
(1747) mới đặt tên Báo Quốc tự.
Chùa Báo Quốc đã nhiều lần thay tên (Báo Quốc tự, Thiên Thọ tự) nhưng
những hoạt động Phật sự đã lưu lại nhiều dấu ấn đáng nhớ trong lịch sử Phật
giáo Thuận Hoá một thời.
3.1.2. Nhân duyên và niên đại ra đời của tác phẩm
Năm 1895, Trần Viết Thọ lên kinh đô phát nguyện quy y tại chùa Từ
Hiếu. Thời gian này, ông có soạn tập Báo Quốc tự sự lục. Đây là cơ sở để sau
này hình thành nên bộ HLSC.
Năm 1896, Nguyễn Phúc Hồng Vịnh thôi chức Trợ giáo ở Quốc tử giám
và đến đầu sư đại sư Tâm Truyền chùa Diệu Đế. Cũng trong năm này, khi làm
Tri tạng chùa Báo Quốc, ông đã đọc toàn bộ những bộ kinh luận tại chùa, trong
đó có tài liệu về chùa Báo Quốc, và bắt đầu soạn HLSC (từ 12/1898 đến
3/1899).
Về cơ cấu và niên đại hoàn thành sách, các khảo cứu không thống nhất
nhau. Luận án đã dựa vào ghi chép trong các phần mục, các bài trong HLSC,
đặc biệt lưu ý đến những ghi chép trong bài tựa Lưỡng Xuân sơn chí, các bài
biện luận trong HLSC để đưa ra nhận định: phần chính biên của HLSC có 6
quyển, soạn trong khoảng từ tháng 12/1898 đến tháng 3/1899.

3.1.3. Ý nghĩa của việc biên soạn tác phẩm Hàm Long sơn chí
Sau khi có được cuốn Báo Quốc tự sự lục do đại sư Tâm Truyền trao cho,
Như Như đạo nhân cảm phục trước cây bút viết sử của người cùng thời là Điềm
12
Tịnh cư sĩ nên phát nguyện kế thừa sự nghiệp sưu tầm và lưu giữ những mảng
tư liệu quý hiếm có liên quan đến Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo
Thuận Hóa nói riêng.
Mục đích biên soạn là muốn thu cất các sử liệu quý để người đời sau dựa vào
đó mà hoằng truyền tư tưởng đạo đức, hoằng dương nét đẹp văn hóa truyền thống.
Như Như đạo nhân biết rõ lẽ thay đổi của tạo hóa, vô thường hủy diệt của
vạn vật qua thời gian nên mới lần lượt đến các chùa viện thu thập tư liệu để tạo
nên tác phẩm HLSC.
Tác giả nhìn nhận sự vật trong chiều kích “tương tức tương nhập” của tư
tưởng kinh Hoa nghiêm. Tất cả hoàn cảnh, môi trường, xã hội và nhân sinh hiện
hữu bởi sự dung nhiếp bao la lẫn nhau, cái này nằm trong cái kia, mỗi hiện hữu
của sự vật là một cho riêng nó và là tất cả đều chứa đựng trong nó.
3.2. Đôi nét về văn bản và nội dung tác phẩm Hàm Long sơn chí
HLSC đã trình bày khá chi tiết: quá trình hình thành, xây dựng và diễn
biến của các ngôi danh lam cổ tự; lược truyện của các vua chúa, hoàng hậu triều
Nguyễn có công với Phật giáo; thư trạng, chúc từ hoặc những tranh biện trong
cộng đồng sinh hoạt chốn Thiền môn…; các bài ngữ lục, bài thơ, tập thơ của
các vị Tăng nhân nổi tiếng, những bài ngự chế vịnh cảnh chùa chiền, ca ngợi
đức hạnh tu hành của các Tăng nhân chốn sơn môn, của các vua Minh Mệnh,
Thiệu Trị; ghi chép đạo hiệu, thế hệ, ngày tháng viên tịch trên tháp và mộ chí
của các vị Tổ sư.
Những ghi chép đó đã cho chúng ta thấy được giá trị đặc sắc trong bức
tranh sinh hoạt Phật giáo lúc bấy giờ, như thiết chế tư tưởng - văn hoá “cư
Nho mộ Thích” của các chúa Nguyễn và các vua quan triều Nguyễn; sự dung
hội giữa tư tưởng Nho gia và Phật gia; mối quan hệ sư thừa trong tông phái
Phật giáo, thanh quy vận dụng cho từng chức vụ trong thiền môn; pháp môn tu

tập từ Thiền tông chuyển sang Thiền Tịnh song tu, Thiền Tịnh hợp lưu rồi đề
cao pháp môn Tịnh độ.
HLSC là tác phẩm mang giá trị về sử liệu, văn học, tư tưởng, tôn giáo nhưng
rất tiếc có một số hạng mục hiện nay chưa sưu tầm được đầy đủ như những gì
13
được ghi chép trong phần tổng mục. Khảo sát văn bản, thấy: vài tập được khắc in,
nhiều tập ở dạng chép tay; tồn tại rất nhiều dị bản chép tay đan xen, không theo
một mục nào nhất định; lại có sự chép lẫn, nhầm đề mục giữa ba tác phẩm Hàm
Long sơn chí, Dương Xuân sơn chí và Lưỡng Xuân sơn chí: có đề mục vừa nằm
trong Hàm Long sơn chí lại vừa có mặt trong Dương Xuân sơn chí.
Về cách hành văn, HLSC tồn tại nhiều lối văn cổ- kim khác nhau, lệ kiêng
húy thường gặp nhưng không phải lúc nào cũng tuân thủ nghiêm mật. Sau đây,
chúng tôi lần lượt khảo sát từng tập cuả văn bản HLSC.
3.3. Khảo cứu văn bản Hàm Long sơn chí
Dựa vào phần Tổng mục, số lượng thơ văn trong HLSC được hệ thống lại như sau:
Thể loại Thơ Từ Phú Đối liên Truyện Ký Ngữ lục Biện luận Tựa bạt
Số lượng Hơn 2500 05 29 150 26 23 04 04 09
Thể loại Tế văn Chiếu Chỉ Biểu Dụ Sớ Bản đồ
Trướng
Số lượng 04 02 02 02 08 02 05 11
3.3.1. Tập Hàm Long sơn chí tổng mục 含龍山志總目
Tập này gồm 86 tờ, mỗi tờ hai trang a và b, chụp trên khổ giấy 18cm x
11cm. Mỗi trang có 6 dòng, mỗi dòng khoảng 20 chữ, được viết trên khung bản
gỗ in sẵn, trừ phần tổng mục có dòng chỉ viết 2 chữ, như Quyển nhất và những
trang có viết chữ nhỏ nhằm chú thích cho đề mục hoặc địa danh thì số chữ
nhiều hơn 20. Chữ viết đẹp và dễ đọc.
3.3.2. Lãm sơn tự 覽山寺:
Tập này gồm 88 tờ, mỗi tờ hai trang a và b; mỗi trang có 7 dòng, mỗi
dòng khoảng 20 chữ; chữ viết đẹp, có nhiều nét bút chép khác nhau. Lệ kiêng
húy không được tuân thủ nghiêm ngặt.

3.3.3. Hàm Long sơn chí quyển tam chi nhất 含龍山志卷三之一 :
Chữ chân phương, rõ đẹp; mỗi tờ có 7 dòng, mỗi dòng với số lượng 20
chữ, có khung in sẵn, phần rìa sách phía trên có in 4 chữ Hàm Long sơn chí 含
龍山志, phần dưới có in 5 chữ Báo Quốc tự tàng bản 報國寺藏版. Kết quả
khảo sát văn bản thể hiện khái quát ở Bảng 6 (Khảo sát nội dung) và Bảng 7
(Các đề mục) của Luận án.
14
3.3.4. Tường Vân tự sự lục 祥雲寺事錄
Có 66 tờ, mỗi tờ hai trang a và b, mỗi trang có 7 dòng, mỗi dòng hơn 20
chữ, chữ viết rõ, đẹp; có nhiều nét bút, kiểu chữ khác nhau. Nội dung tập này
phần lớn ghi chép những nhân vật, sự kiện liên quan đến chùa Tường Vân. Kết
quả thể hiện khái quát ở Bảng 8 (Khảo sát nội dung) và Bảng 9 (Các đề mục)
của Luận án.
3.3.5. Thiên hoa cửu biện đồ 千華九瓣圖 :
Có 80 tờ, mỗi tờ hai trang a và b. Mỗi trang có 7 dòng, mỗi dòng hơn 20
chữ được khắc trên khung bản gỗ in sẵn. Chữ khắc rõ, đẹp, chỉ một nét chữ.
Điểm đặc biệt ở tập này là ngoài văn, thơ, dụ, sớ, biểu còn có hai biểu đồ ghi về
đế hệ và thiền hệ Kết quả khảo sát văn bản thể hiện khái quát ở Bảng 10
(Khảo sát nội dung) và Bảng 11 (Các đề mục) của Luận án.
3.3.6. Giới kỳ khánh liên 戒期慶聯
Tập này có 108 tờ, mỗi tờ hai trang a và b. Mỗi trang có 06 dòng, mỗi
dòng 20 chữ. Chữ viết tay rõ, đẹp, chỉ một nét chữ. Nội dung phong phú, gồm
những câu đối, thơ, thi kệ Kết quả khảo sát văn bản thể hiện khái quát ở Bảng
12 (Khảo sát nội dung) và Bảng 13 (Các đề mục) của Luận án.
* Tiểu kết chương 3
Chương 3 thực hiện việc tìm hiểu nhân duyên, niên đại ra đời, ý nghĩa và
mục đích hình thành tác phẩm; khảo sát những vấn đề cụ thể trong từng tập của
tác phẩm. Kết quả khảo sát cho thấy HLSC rất phức tạp về mặt văn bản, có
nhiều đoạn, câu, chữ bị gạch xóa, thêm bớt, đảo vị trí, viết đài, kiêng húy
- Về thể loại tương đối phong phú bao gồm: thơ, từ, phú, truyện, bi ký, tháp

ký, ký, ngữ lục, biện, luận, đối liên, tự, tế văn, chiếu, chỉ, dụ, biểu, sớ. HLSC được
Như Như đạo nhân biên soạn từ tháng 12 năm 1898 đến tháng 3 năm 1899 dựa trên
tác phẩm Báo Quốc tự sự lục của Trần Viết Thọ biên soạn trước năm 1896.
Việc khảo sát hình thức và nội dung của văn bản như vậy giúp chúng tôi
xác lập nên một hệ thống văn bản HLSC tiệm cận với văn bản gốc, làm cơ sở
cho việc dịch thuật và nghiên cứu ở chương tiếp theo.

15
Chương 4. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA
HÀM LONG SƠN CHÍ
HLSC phản ánh mọi mặt của sinh hoạt Phật giáo thời Nguyễn, tác phẩm
được viết bằng nhiều thể loại thơ văn khác nhau: thơ, từ, phú, chiếu, sớ, biểu,
truyện, kí Chương này, sẽ lần lượt khảo cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm.
4.1. Giá trị nội dung của Hàm Long sơn chí
4.1.1. Giá trị lịch sử của Hàm Long sơn chí
4.1.1.1. Phật giáo đối với các chúa Nguyễn, vua Nguyễn và các quan lại đời Nguyễn
Trong thời gian lịch sử từ 1600 đến 1925 đã tồn tại thiết chế tư tưởng
-văn hóa “Nho-Thích song hành“- một cách ứng xử chính trị - tâm linh hợp
tình, hợp lý, khôn ngoan của những người có quyền lực tối thượng. Đây là giá
trị về lịch sử mà tác phẩm này mang lại. Nó thể hiện rõ nhất trong Thiên Mụ tự
bi kí của Nguyễn Phúc Chu, Từ Hiếu tự bi ký của Nguyễn Đăng Giai (?-1854),
Diệu Đế tự tự của vua Thiệu Trị, các bài dụ của vua Minh Mệnh.
4.1.1.2. Mạng lưới những chùa Phật được ghi trong Hàm Long sơn chí
HLSC ghi lại nhiều tên gọi của những chùa Phật vùng phía Bắc và kinh
đô Phú Xuân. Có ngôi chùa chỉ giới thiệu vắn lược tên gọi, hoặc ghi lại những
sự kiện nổi bật của các ngôi chùa gắn liền với từng triều đại lịch sử.
Các đời chúa Nguyễn, vua Nguyễn đều cho trùng tu các chùa cũ và xây
dựng các chùa mới với kinh phí hoặc là triều đình ban cấp, hoặc là do các quan
đại thần cúng dường, hoặc là do các tín đồ Phật giáo dâng cúng. Trong HLSC

ghi lại một hệ thống chùa viện ở Thuận Hóa từ tư tự (chùa do dân chúng xây
dựng), sơn tự (chùa do tông môn lập ra) đến quan tự (chùa do triều đình thiết lập).
Những ngôi chùa cổ có mặt từ thời Lý, Trần, Lê ở miền Bắc cũng được
lược thuật một vài tình tiết gắn liền với sự kiện lịch sử quan trọng. Các ngôi đền
đài, đạo quán cũng được đưa vào HLSC. Mục đích vua chúa cho xây dựng mới
và trùng tu các ngôi chùa từ khắp các vùng trên đất Việt là nhằm xiển dương
điều thiện, an định lòng dân, trợ giúp hữu hiệu cho việc trị lý của triều đình.
16
4.1.1.3. Hàm Long sơn chí: nơi lưu danh các bậc cao Tăng
Trong thời đại các chúa Nguyễn, vua Nguyễn, các nhà sư đã trở thành
biểu tượng đáng kính không chỉ đối với tầng lớp bình dân mà ngay cả hàng vua
chúa, quan lại cấp cao của triều đình cũng đã sùng mộ, quy y. Từ thế kỷ thứ
XVII, các chúa Nguyễn đã mời những Thiền sư Trung Hoa như Thạch Liêm,
Tử Dung, Huyền Khê… sang khai sơn các chùa Phật, hoằng hoá Phật đạo và
mở các đại giới đàn tại kinh đô Thuận Hoá.
Qua HLSC, có thể hiểu đầy đủ thêm về hành trạng và sức ảnh hưởng của
các đại sư, hoà thượng, đạo sĩ, cư sĩ nổi tiếng từ thời Lý- Trần cho đến đời
Nguyễn. Có nhà sư được viết đầy đủ hành trạng thành truyện, có nhà sư chỉ
được lược thuật một vài tình tiết mang tính huyền thoại, hoang đường, bí áo.
Trong HLSC, không ít đại sư, hoà thượng tu theo Chân ngôn thừa, tức Mật
tông, thể hiện diệu dụng thần thông rất lớn, có thể sai thần khiển quỷ, chữa
bệnh giúp đời [Sơn nhân hoà thượng truyện].
4.1.2. Những giá trị tư tưởng hàm chứa trong Hàm Long sơn chí
Chính sự hoà quyện bởi tinh thần Nho giáo và Phật giáo trong việc trị đạo
của các chúa Nguyễn, vua Nguyễn mà thiết chế xã hội “Nho Thích song hành”
đã tồn tại.
Những triết lý phổ thông về Nhân quả, Luân hồi, Nghiệp báo đã ăn sâu
trong tâm thức của người dân Việt, nên đạo Phật không những có chỗ đứng
trong hệ thống chính trị mà còn góp phần vào việc định hình và phát triển đối
với đời sống văn hoá của người dân xứ Đàng Trong thời chúa Nguyễn.

Phật giáo ở giai đoạn các chúa Nguyễn vẫn giữ được sắc thái “dĩ tâm
truyền tâm” của Thiền tông [Thiền Tông sự lục]. Dần dần, phương pháp tu tập
từ Thiền công án có xu hướng chuyển dần qua Tịnh độ tông. Tịnh độ tông phát
huy một cách rõ nét, trở thành một phong trào Phật giáo có tổ chức quy củ. Đó
là nét mới của Phật giáo thời các chúa Nguyễn, đặc biệt là thời các vua Nguyễn
[Liên Trì xã thuyết pháp nghi ký].
Các nhà tu hành tại các sơn tự và các cư sĩ tu Phật xuất thân từ nhà nho,
thì “tam giáo đồng nguyên” là giá trị tư tưởng được thể hiện rất tường minh:
vừa sùng thượng, thực thi chính tâm, tận tính; vừa thực thi minh tâm, kiến tính;
17
lại vừa luyện tâm, dưỡng tính. Đó là những nét đặc trưng trong tâm tính của các
nhà tu hành mà ở họ không có ranh giới giữa Nho, Phật, Đạo.
4.2. Giá trị nghệ thuật của Hàm Long sơn chí
Thể loại văn học là dạng thức cụ thể của tác phẩm văn học, nó là một
trong những nhân tố của hình thức văn học. Văn học trung đại Việt Nam nhìn
chung có hai loại lớn: văn học chức năng và văn học nghệ thuật.
HLSC được các tác giả sử dụng nhiều thể loại văn học trong văn học
trung đại Việt Nam.
4.2.1. Văn học nghệ thuật
4.2.1.1. Về Thơ
Thơ trong HLSC hầu hết là thơ chữ Hán (chỉ có hai bài thơ Nôm), được
làm theo thể Đường luật, hoặc bát cú hoặc tứ tuyệt (các bài thi kệ). Lời thơ xuất
hiện trong HLSC của tác giả Như Như đạo nhân cùng các bài ngự chế của vua
Nguyễn, các vị đại sư, hòa thượng chốn kinh đô Thuận Hóa, ngôn từ điêu
luyện, ý thơ thâm viễn, cho thấy giá trị cả nội dung lẫn nghệ thuật của thơ ca
trong tác phẩm này, xứng đáng được trân trọng trong mảng thơ chữ Hán thời
trung đại.
4.2.1.2. Về Từ
Trong HLSC có năm bài Từ. Những bài này được coi là các bài từ đích
thực vì chúng đều được căn cứ vào các Từ điệu (Bồ-tát man, Hựu hồi văn,

Nguyễn lang quy, Mãn đình phương, Lãng đào sa) để viết lời. Với cái tôi trữ
tình và tâm thế như vậy, cư sĩ- tu thiền- thi nhân tại Thuận Hóa trước tác, trong
những trước tác đó những tư tưởng Nho, Phật, Đạo tồn tại bên cạnh nhau, dung
hợp, hòa kết với nhau trong một số bài Từ xuất hiện trong HLSC.
4.2.1.3. Về Phú
Theo thống kê của chúng tôi, HLSC quyển 6, phần Mục lục có 12 bài phú;
trong Dương Xuân sơn chí, quyển 44 có 17 bài của Như Như (với bút hiệu Vĩnh
Trọng). Phú trong HLSC là Luật phú, là phú Bát vận, dưới dạng thức của phú
trong văn chương khoa cử. Mười hai bài phú trong HLSC đích thực là “thể vật
tả chí”, “phô trương kỳ văn”- bản chất của thể loại văn học này. Điều đó đòi hỏi
tác giả phải am tường kinh điển Nho gia và nhiều điển cố điển tích trong những
sáng tác kinh viện.
18
4.2.1.4. Về Đối liên
Kết quả khảo sát, HLSC tổng mục, có 129 câu đối; câu đối trong tác
phẩm bao gồm nhiều nội dung: chúc tụng công đức tu hành của Tăng nhân, ca
ngợi cảnh trí chùa viện, văn nhân thi sĩ ứng đối, tán dương pháp hội giới đàn
4.2.1.5. Về Truyện
Trong HLSC, hầu hết những truyện đều ghi cuộc đời và hành trạng của
những vị Tăng, ni ở Việt Nam và các hòa thượng từ Trung Hoa sang Đại Nam
hoằng hóa. Có truyện ghi chép rất đầy đủ về hành trạng của các nhà sư tu Phật
nhưng cũng có truyện chỉ ghi vắn lược một vài thông tin quan trọng của các
Tăng nhân.
4.2.1.6. Về Ký
Thể loại ký trong HLSC cũng khá nhiều. Những bi ký, tháp ký, ký, chí,
minh, lục trong HLSC đều thể hiện được đặc trưng của thể loại này. Trong chúng
hàm chứa những giá trị lịch sử về Phật giáo Huế và những giá trị tư tưởng về
Thiền tông Thuận Quảng nửa cuối tk.XIX- đầu tk.XX.
4.2.2. Văn học chức năng
4.2.2.1. Về Ngữ lục

Ngữ lục là một thể loại văn học mang chức năng lễ nghi tôn giáo, cụ thể ở
đây là Phật giáo. Thể ngữ lục dùng để ghi lời chỉ dạy của các vị đại sư, hòa
thượng. HLSC có ghi chép về một số Ngữ lục của đại sư Tâm Truyền, sư Viên
Giác, sư Tâm Khoan biện luận về con trâu đất trước hiên chùa Báo Quốc.
4.2.2.2. Về Biện, luận
Biện, biện luận được tác giả của HLSC quan tâm sử dụng. Đó là các biện,
luận về sự vật, hiện tượng trong cuộc sống- xã hội và trong thiên nhiên, gồm các
trước tác: Nguyên đạo, Hóa luận, Tứ chướng biện minh, Tước nhập đại thủy vi
cáp biện.
4.2.2.3. Về Tựa bạt
Trong HLSC, có những bài tựa do các văn nhân, thi nhân và Như Như đạo
nhân viết cho Đào trang tập (tập thơ của Như Như). Mở đầu những bài tựa này là
đề mục Đào Trang lão nhân tiểu ảnh tán, do chính tác giả viết, nói về thân phận
của chính mình khi tuổi đã ngoài ngũ tuần.
19
Đặc biệt, trong HLSC là bài tựa do chính Như Như đạo nhân viết ngày Phật
đản năm Kỷ Hợi (1899) với tựa đề Hàm Long sơn chí tự. Nội dung bài tựa cung cấp
tư liệu cho những nghiên cứu của luận án về duyên khởi, ý nghĩa và mục đích của
việc viết chí.
4.2.2.4. Về Tế văn
Trong HLSC hiện diện hai bài Tế văn: Tế Văn Nhã tiên sinh của Tuy Lý
vương và Tế Tế Đạt Hồ tiên sinh của Như Như viết ai thán người cậu ruột họ
Hồ. Văn tế trong HLSC dùng để tế khóc người đã khuất, bày tỏ lòng thương tiếc
của tác giả và người thân đối với người đã khuất. Vấn đề chính trong hai bài văn
tế là kể về cuộc đời, công trạng của người chết và bộc lộ tình cảm, thái độ tiếc
thương của người ở lại trước giờ phút tử biệt sinh ly.
4.2.2.5. Về Chiếu, chỉ, biểu, dụ, sớ
Chiếu, chỉ, dụ, biểu và sớ trong HLSC là mảng tư liệu mang nội dung khá
quan trọng để tác giả luận án nghiên cứu về mối quan hệ giữa triều đình nhà
Nguyễn với Phật giáo. Mối quan tâm đến sự phát triển đạo Phật nhằm an định

lòng dân của các vua Nguyễn đã thể hiện rõ trong các bài chỉ, dụ. Đến lượt
mình, các Tăng nhân Phật giáo khi tán dương công đức xây chùa hay mừng thọ
vua chúa, hoàng thái hậu cũng bày tỏ sự trân trọng đối với ân đức của vua.
* Tiểu kết chương 4
HLSC là tác phẩm bao gồm nhiều thể loại văn học khác nhau, như: thơ,
từ, phú, truyện, bi ký, tháp ký, ký, ngữ lục, biện, luận, đối liên (câu đối), tự
(tựa), tế văn (văn tế), chiếu, chỉ, dụ, biểu, sớ… một cách cụ thể và sinh động.
HLSC đã phản ánh sinh động hình ảnh của các vị đại sư, hòa thượng trong
đời sống tu hành “phước tuệ song tu” tại kinh đô Thuận Hóa và các vùng lân
cận từ Bắc vào Nam.
HLSC còn cung cấp cho chúng ta thấy được hệ thống chùa viện qua các
quan tự và sơn tự ở kinh đô Huế mang giá trị lịch sử ở thời gian- không gian tồn
tại của chúng. Những sự kiện lịch sử từ thời đại Lý, Trần, Lê đã gắn liền với các
ngôi cổ tự tại miền Bắc nước ta cũng được tác giả lược ghi vào tác phẩm này.
Từ những nội dung được ghi lại trong tác phẩm, chúng tôi đã thu thái
được những kết quả tích cực từ giá trị sử liệu, văn học và tư tưởng Phật học
trong tác phẩm HLSC.
20
PHẦN KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu tác phẩm Hàm Long sơn chí, áp dụng các phương pháp
văn bản học, phương pháp luận sử học, phương pháp nghiên cứu liên ngành ,
luận án này đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề sau.
1. Hai ông Trần Viết Thọ và Nguyễn Phúc Hồng Vịnh có công lớn trong
việc sưu tầm tư liệu lịch sử Phật giáo, sưu tầm trước tác thơ văn của những
người khác, đồng thời tự mình trước tác thơ văn để có được bộ tác phẩm này
cho hậu thế.
- Trần Viết Thọ, tự Sơn Phủ, hiệu Điềm Tịnh cư sĩ, sinh năm 1836, người
làng Thâm Triều, tổng Bích La, huyện Thuận Xương, phủ Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị. Đỗ Phó bảng năm Tự Đức thứ 25 (1872). Ông làm quan cho triều
đình nhà Nguyễn hơn hai mươi năm (từ năm1873 đến năm 1893) thì về hưu.

Sau khi hồi hưu, ông quy y cửa Phật, chọn am tranh hằng ngày tụng kinh niệm
Phật để thanh lọc thân tâm, trở thành đệ tử thuần thành chốn Phật môn. Trần
Viết Thọ mất năm Thành Thái thứ 11 (1899), thọ 64 tuổi.
- Nguyễn Phúc Hồng Vịnh, tự Vĩnh Trọng, hiệu Như Như đạo nhân, con
thứ ba của Trấn Biên quận công Nguyễn Miên Thanh, là cháu nội của vua Minh
Mệnh, sinh năm 1851 tại kinh thành Huế. Do xuất thân từ hoàng tộc nên từ nhỏ
Hồng Vịnh được học hành tử tế, chữ tốt văn hay. Nửa cuộc đời về sau, Hồng
Vịnh chịu nhiều nỗi vất vả, phải bôn ba nhiều nơi và con đường làm quan cũng
không có gì đặc sắc. Năm 1896, ông quy y với đại sư Pháp Lâm chùa Viên
Thông, dốc hết tâm sức vào việc nghiên tầm Phật pháp. Ông được đại sư Tâm
Truyền chùa Báo Quốc thụ ký với pháp danh Trừng Khế, tự Như Như. Trong thời
gian này, Hồng Vịnh đã soạn tác phẩm HLSC. Không rõ ông mất vào năm nào.
2. Hàm Long sơn chí là tác phẩm chữ Hán được Như Như đạo nhân biên
soạn năm 1898 dựa trên nền tảng của cuốn Báo Quốc tự sự lục do Trần Viết
Thọ soạn vào cuối năm 1896. Tác phẩm được Như Như biên soạn phỏng theo
quy thức của Đỉnh Hồ sơn chí và Phổ Đà sơn chí - xuất hiện vào đời nhà Thanh
ở Trung quốc. Theo Hàm Long sơn chí tổng mục thì phần Chính biên của
HLSC gồm 06 quyển, được bắt đầu soạn từ tháng 12 năm 1898 và hoàn tất vào
21
tháng 3 năm 1899; nhưng có những đề mục trong HLSC thì cho chúng ta biết
được tác phẩm này gồm12 quyển hoặc 22 quyển.
Đây là văn bản chữ Hán rất phức tạp về câu chữ, tập nào cũng có những
thay đổi về văn bản như xóa chữ, thêm chữ, đảo trật tự chữ, viết kiêng húy, viết
đài. Sau khi chỉnh sửa những sai sót về từ ngữ do lỗi khắc in hoặc chép tay,
chúng tôi đã tiến hành hệ thống hoá bộ HLSC, sắp xếp tác phẩm này thành sáu
tập: Hàm Long sơn chí tổng mục; Lãm sơn tự; Hàm Long sơn chí quyển tam chi
nhất; Tường Vân tự sự lục; Thiên hoa cửu biện đồ; Giới kỳ khánh liên để khảo
sát văn bản.
Trong tương lai, chúng tôi sẽ dịch và chú thích tác phẩm Hàm Long sơn
chí bằng chữ Hán đã được rọi chiếu bởi ánh sáng của văn bản học ra tiếng Việt,

để có thể phục vụ những người đọc không tiếp cận được với văn bản chữ Hán.
3. Ở những quan tự, có chùa dành cho hoạn quan, có chùa dành cho
đường quan và học quan tại kinh đô, có chùa dành cho những người trong
hoàng tộc đến sinh hoạt tín ngưỡng. Các quan tự xây mới hoặc trùng tu đều
được những mạnh thường quân trong triều đình nhà Nguyễn trợ giúp tiền, vàng
bạc, gạch ngói, hoặc cúng ruộng để các quan tự, sơn tự làm ruộng hương hoả
của chùa.
+ Khảo sát các bài chiếu, chỉ, dụ trong HLSC cho thấy sự quan tâm của
triều đình đối với Tăng nhân bằng việc thăng chức Tăng cương, Trụ trì tại các
chùa nổi tiếng ở kinh đô và giao bộ Lễ phụ trách việc lương bổng cho Tăng
nhân. Ngoài việc chăm lo đời sống tinh thần cho Tăng nhân, nhà Nguyễn còn
thiết lập trai đàn để cứu vớt những oan hồn của các tướng lĩnh, binh sĩ tử trận và
bị bệnh dịch chết trong loạn lạc. Việc quan tâm ấy nhằm mục đích giúp cho mọi
người hưởng được phước ấm, biểu thị tấm lòng trắc ẩn thương xót của nhà vua
đối với những người tham gia chiến trận.
Đây là mảng tư liệu đầu tiên và khá quan trọng giúp cho các nhà nghiên
cứu không thể hình dung thiết chế tư tưởng- văn hoá “Nho Thích song hành”,
“Nho Thích hoà đồng”, “Nho Thích hợp lưu” một cách cụ thể- lịch sử, đúng
đắn, tồn tại ở nước ta từ 1600 đến đầu thế kỷ XX.
+ Mảng tư liệu thứ hai được HLSC ghi nhận- ấy là mạng lưới các Phật tự,
mạng lưới mà nhà Nguyễn lấy các chùa Phật ở Thuận Quảng làm hạt nhân để
22
thống suất một mạng lưới Phật tự rộng lớn từ Bắc chí Nam sau khi đất nước tái
thống nhất. Không có mảng tư liệu ấy, không thể hiểu được “cơ sở hạ tầng” của
Phật giáo Đàng Trong hoà đồng với Phật giáo Đàng Ngoài sau khi Việt Nam
không còn bị các cuộc nội chiến chia cắt.
+ Mảng tư liệu thứ ba- đó là danh tính và hành trạng của những hoà
thượng, đại sư được ghi trong HLSC mang đầy đủ những đức tính tu hành cao
thượng về đạo nghiệp. Những người làm chuẩn phạm cho người đời nương tựa
để hoàn thiện nhân cách và dần dần hướng đến thánh cách ở nhân gian. Nếu lìa

khỏi từ bi và tính không thì đạo Phật sẽ không còn là đạo Phật; nếu không có
những người tu trì Phật pháp, lưu truyền ngọn đèn chính pháp cho chúng sinh
thì đạo Phật sẽ không được truyền thừa. Hành trạng những nhân vật trung tâm
cuả sự nghiệp hồi sinh Phật giáo nước nhà từ năm 1600 đến năm 1925 đã được
Điềm Tịnh cư sĩ và Như Như đạo nhân miêu thuật khá đầy đủ trong HLSC.
Ba mảng tư liệu trên là cần nhưng chưa đủ để nhà biên soạn lịch sử Phật
giáo có thể dựa vào mà dựng lại lịch sử Phật giáo ở thời điểm Phật giáo hồi
sinh- giai đoạn lịch sử Phật giáo từ 1600 đến 1925.
4. Thiết chế tư tưởng- văn hoá “Nho Thích song hành” thời các chúa
Nguyễn và thời các vua Nguyễn là sự nối tiếp thiết chế tư tưởng- văn hoá và sự
phân công trách nhiệm giữa Nho giáo và Phật giáo thời Lý - Trần. Phật giáo
Đàng Trong dưới triều Nguyễn đã kế thừa truyền thống “tùy duyên bất biến”
của Phật giáo thời Trần., biết dung hội tư tưởng giữa Nho giáo và Phật giáo,
mối quan hệ sư thừa trong các tông phái Phật giáo, thanh quy vận dụng trong
chốn tùng lâm, pháp môn tu tập từ Thiền tông chuyển sang Thiền- Tịnh song tu,
Thiền- Tịnh hợp lưu, rồi đề cao pháp môn Tịnh độ. Thế nhưng, chúng ta khó
phân định rạch ròi giữa các tông phái Thiền, Tịnh, Mật ở pháp môn tu tập tại xứ
Đàng Trong lúc bấy giờ. Đây là mảng tư liệu thứ tư mà chúng tôi đã nghiên cứu
trong HLSC.
5. HLSC là một bộ trước tác của văn học trung đại Việt Nam, được viết
bằng chữ Hán, và một vài bài thơ chữ Nôm, trong đó, văn, sử, triết bất phân.
Đây là tác phẩm mang giá trị văn học, sử học và tư tưởng Phật học, ghi lại quá
trình hình thành, những sự kiện xây dựng, trùng tu chùa viện; lịch đại các vị hoà
thượng, đại sư, kế tục nhau trụ trì ở các sơn môn các vùng từ Nam chí Bắc.
23

×