Tải bản đầy đủ (.doc) (184 trang)

Đạo đức công chức và vấn đề xây dựng đạo đức công chức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.73 KB, 184 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận án
có trích dẫn, tham khảo nội dung của một số tài liệu tham khảo và kết quả
nghiên cứu là trung thực.
Tác giả luận án
Lê Thị Hằng
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
6
1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức, đạo đức công vụ, công chức ở nước ta
6
1.2. Những công trình nghiên cứu về đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công
chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
13
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức
công chức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
22
Kết luận chương1 29
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC VÀ XÂY
DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
30
2.1. Khái niệm công chức, đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công chức
30
2.2. Tính tất yếu của việc xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị
trường ở nước ta
49
2.3. Những chuẩn mực và nguyên tắc xây dựng đạo đức công chức Việt Nam


58
Kết luận chương2 76
Chương 3. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC VÀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC
CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA
78
3.1. Những thành tựu đạt được và hạn chế tồn tại của đạo đức công chức từ Đại hội VI
đến nay
77
3.2. Những thành tựu đạt được và hạn chế tồn tại trong xây dựng đạo đức công chức từ
Đại hội VI đến nay
95
2
Kết luận chương 3 128
Chương 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG
CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
129
4.1. Phương hướng xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
130
4.2. Một số giải pháp chủ yếu xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
135
Kết luận chương4 149
KẾT LUẬN
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
153

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch,
vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, một
trong những nhiệm vụ trước mắt được Đại hội lần thứ XI của Đảng đề ra là
“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, có phẩm chất đạo đức tốt,
có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục
vụ nhân dân” [20, tr.143]. Đây được coi là vấn đề mấu chốt nhất, quan trọng
nhất, cốt lõi nhất của công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia hiện nay.
Bởi lẽ trong cấu trúc nhân cách con người nói chung, nhân cách của cán bộ,
công chức, viên chức nói riêng, đạo đức giữ vai trò hết sức quan trọng. Nó
được coi là nhân tố cốt lõi của nhân cách.
3
Thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa
nền hành chính, trong thời gian qua đạo đức công chức và vấn đề xây dựng
đạo đức công chức ở nước ta đã đạt được những thành quả nhất định, góp
phần quan trọng vào việc xây dựng nền hành chính nhà nước ngày càng
trong sạch, vững mạnh.
Công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng và nhân dân ta thực hiện trong
những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn. Với việc vận hành nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang tạo ra sự biến đổi
căn bản về mọi mặt trong đời sống kinh tế – xã hội. Sự biến đổi đời sống vật
chất tất nhiên sẽ dẫn đến sự biến đổi đời sống tinh thần của xã hội, trong đó
có đạo đức và đạo đức công chức của cán bộ trong các cơ quan Nhà nước.
Nếu đạo đức là thành tố cơ bản nhất của nhân cách thì đạo đức công
chức là thành tố cơ bản nhất của nhân cách cán bộ trong các cơ quan Nhà
nước, là đặc trưng cơ bản của đạo đức cách mạng. Đạo đức góp phần nâng
cao hiệu quả công tác, sự tín nhiệm của nhân dân đối với từng người, cũng
như đối với cả đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước, còn đạo đức công chức
góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào chế độ chính trị.

Vì vậy, việc nghiên cứu về đạo đức công chức không chỉ xuất phát từ nhu
cầu xây dựng nền hành chính quốc gia vững mạnh mà còn là sự mong muốn
và đòi hỏi của nhân dân ở “công bộc” của mình.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những
thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, giáo
dục và đời sống xã hội đã tạo ra những bước khởi sắc mới. Tuy nhiên, những
tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường đang làm nảy sinh những vấn đề
xã hội nhức nhối, như: tham nhũng, buôn lậu, tệ nạn xã hội gia tăng, lối sống
thực dụng, kiếm tiền bằng mọi giá, dẫn đến xuống cấp nghiêm trọng về
4
đạo đức, nhiều giá trị xã hội biến động, đảo lộn, mất phương hướng, phai
nhạt lý tưởng, niềm tin,… trong đó có một số khá lớn cán bộ công chức, làm
ảnh hưởng không tốt đến niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế
độ xã hội hiện nay.
Trong thời gian qua, mặc dù đã có một số đề tài đề cập đến đạo đức
công chức, nhưng chưa thực sự được quan tâm đúng mức nên nhiều vấn đề
vẫn còn bỏ ngỏ, chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo, cặn kẽ. Hơn
nữa, cán bộ công chức là lực lượng xã hội có vị trí, vai trò quyết định trong
việc thể hiện và giữ vững bản chất chính trị của nhà nước, của xã hội.
Muốn thể hiện được vị trí và vai trò quyết định đó, người cán bộ công chức
phải hội đủ hai yếu tố: đạo đức và tài năng, trong đó đạo đức là gốc, là
nguồn của mọi vấn đề liên quan đến con người.
Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, chúng ta
ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn ý nghĩa và vai trò quan trọng của
đạo đức công chức. Cán bộ công chức là một lực lượng có vị trí và vai trò
quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Đòi hỏi mỗi cán bộ công chức phải thấm nhuần quan điểm tư
tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
cội nguồn tư tưởng và sự định hướng giá trị đạo đức của cán bộ công chức,
và ngay cả điều này, cũng cần phải được làm sáng tỏ để xây dựng đạo đức

công chức ở nước ta hiện nay.
Thêm vào đó, qua một số vụ án tham nhũng lớn gần đây, khiến chúng
tôi càng trăn trở về vấn đề đạo đức của cán bộ công chức. Để thực hiện có
hiệu quả phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay là phải khắc phục tình
trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, xây dựng đạo đức, lối sống lành
mạnh trong Đảng viên, cán bộ và nhân dân, không thể để tình trạng vì lợi cá
5
nhân mà bất chấp cả danh dự và lương tâm nghề nghiệp. Cùng với việc xây
dựng một cơ chế thực thi pháp luật nghiêm minh, cũng cần phải ra sức khích
lệ tinh thần yêu mến nghề nghiệp và cương vị công tác của cán bộ công
chức, lấy lương tâm, trách nhiệm, danh dự nghề nghiệp mà làm việc hợp với
lẽ công bằng, phục vụ nhân dân và cống hiến cho xã hội.
Qua thực tiễn của công cuộc cải cách và đổi mới đất nước trong
những năm vừa qua, sự chuyển đổi của cơ chế kinh tế và sự hội nhập kinh tế
quốc tế cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đạo
đức công chức. Vì thế, chúng tôi chọn đề tài “Đạo đức công chức và vấn đề
xây dựng đạo đức công chức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay” để nghiên cứu, với mong muốn góp thêm ý kiến xây dựng cơ sở
lý luận nhằm hoàn thiện nền đạo đức công chức Việt Nam nói riêng và đạo
đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ nước nhà nước nói chung đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở giai đoạn mới.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về đạo đức công chức và
xây dựng đạo đức công chức, luận án phân tích thực trạng của đạo đức công
chức và xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam qua đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp xây dựng đạo
đức công chức trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án: Để thực hiện được mục đích trên, luận án

có nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày một số vấn đề lý luận về đạo đức công chức và
xây dựng đạo đức công chức ở nước ta.
Thứ hai, phân tích, đánh giá, thực trạng đạo đức công chức và xây
dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam.
6
Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao hiệu quả của việc xây dựng đạo đức công chức trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Xuất phát từ những nhiệm vụ được nêu trên đây, trong phạm vi của
luận án tiến sỹ triết học, tác giả tập trung nghiên cứu những tác động của
kinh tế thị trường đối với đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công
chức, nhấn mạnh đến những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân chủ yếu trên
các lĩnh vực: thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức và chỉ giới hạn
trong hoạt động công vụ của công chức hành chính Nhà nước từ khi đổi mới
đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án được nghiên cứu dựa trên những quan điểm triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức công chức.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng phương pháp biện chứng duy vật; kết hợp nghiên
cứu lý luận với tổng kết thực tiễn; kết hợp phương pháp logíc và phương
pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh,
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án đã hệ thống hóa những chuẩn mực cơ bản của đạo đức công
chức và những nguyên tắc xây dựng đạo đức công chức nhằm điều chỉnh
hành vi của cán bộ công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay.

Luận án đã đánh giá được thực trạng đạo đức công chức và xây dựng
đạo đức công chức qua đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
7
hơn nữa hiệu quả xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng
dạy chuyên đề về đạo đức công vụ, công chức trong điều kiện kinh tế thị
trường.
Luận án cũng có ý nghĩa khuyến nghị cho việc xây dựng đạo đức
công chức ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận án được chia làm 4 chương 10 tiết
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Những công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài sẽ
được tác giả luận án nghiên cứu, đề cập theo nhóm các vấn đề dưới đây.
1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức và đạo đức công vụ,
công chức ở nước ta
Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới phát triển kinh tế
– xã hội của đất nước, vấn đề văn hoá, tư tưởng, đạo đức, đạo đức công chức
cũng được quan tâm cả trên lĩnh vực lý luận lẫn thực tiễn.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức,
Triết học, số 9, cho rằng: “Sự thiếu pháp luật, pháp luật không đồng bộ và
những kẽ hở của pháp luật trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
8
chủ nghĩa vừa mới bước đầu được hình thành là một trong những nguyên

nhân gây ra các tệ nạn xã hội, suy thoái về đạo đức, và lối sống. Ngoài ra
còn có những nguyên nhân khác như việc giáo dục đạo đức có phần bị coi
nhẹ, thiếu định hướng rõ rệt”.
Phạm Văn Đức (2002), Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức
xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí triết học, số
1, tác giả nhấn mạnh lợi ích cá nhân trong nền kinh tế thị trường đã tác động
đến đạo đức theo hai hướng trái ngược nhau. Theo hướng tích cực, lợi ích cá
nhân góp phần tạo nên các giá trị và các chuẩn mực đạo đức mới. Theo
hướng tiêu cực, vì lợi ích cá nhân con người có thể làm băng hoại các giá trị
đạo đức truyền thống của mình. Cả hai xu hướng đó đều song song tồn tại
trong nền kinh tế thị trường.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên), Mấy vấn
đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội năm 2003, các tác giả đã phân tích những tác động của kinh tế
thị trường đến đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay và khẳng định kinh tế thị
trường đang có những tác động tích cực và tiêu cực tới đời sống đạo đức xã
hội Việt Nam. Tác động tích cực của kinh tế thị trường là làm cho con người
chủ động, tích cực, ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân không ngừng được
nâng lên. Những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến đời sống
đạo đức xã hội Việt Nam như: lối sống chạy theo đồng tiền, thực dụng, tệ
nạn xã hội có xu hướng gia tăng.
Lê Thị Tuyết Ba (2003), Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Triết học, số 10, trong bối cảnh hiện
nay, bên cạnh việc tiếp thu những tinh hoa của các dân tộc trên thế giới,
chúng ta cần phải kế thừa, phát huy những truyền thống đạo đức, tập quán
tốt đẹp của dân tộc để tiến tới xây dựng một hệ chuẩn đạo đức mới, giàu tính
9
dân tộc, mang đậm tính nhân văn và phù hợp với những đòi hỏi mới của xã
hội hiện đại.
Cuốn sách “Chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam hiện nay”

của Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, xuất bản năm 2006 đã nêu lên những chuẩn mực đạo đức truyền thống
và những chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam hiện nay. Các tác giả
cho rằng chuẩn mực đạo đức hiện nay là sự kế thừa những giá trị của những
chuẩn mực đạo đức truyền thống, phát triển chúng lên cho phù hợp với điều
kiện kinh tế thị trường; thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Cuốn sách: ”Đạo đức trong nền công vụ” của Nhà xuất bản Lao động
– Xã hội, do Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo,… là những
người hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tổ chức và cán bộ của Việt Nam
biên soạn, trên cơ sở các bài viết và tham luận của các đại biểu từ các nước
ASEAN tham dự Hội thảo quốc tế: “Đạo đức trong nền công vụ” tại Hà Nội
vào ngày 30 và 31 tháng 5 năm 2001. Cuốn sách gồm hai phần, trong đó,
phần thứ nhất nói về đạo đức trong nền công vụ. Trong các bài viết, các tác
giả đã nêu một số thực trạng và biện pháp sáng kiến để nâng cao đạo đức
công chức ở đất nước của mình. Bài viết của đại biểu Việt Nam, nhấn mạnh
những nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức công chức, qua đó nhằm khẳng
định rõ đặc điểm dân tộc và tính giai cấp của vấn đề đạo đức. Đặc biệt trong
tài liệu này các tác giả đã cố gắng đưa ra được quy định về chuẩn mực đạo
đức người công chức trong nền công vụ với năm nguyên tắc cơ bản: về
phẩm chất chính trị; về năng lực quản lý trình độ và khả năng chuyên môn;
về hiệu quả công tác.
Hoàng Quang Đạt (2008), Nghiên cứu khảo sát xây dựng nội dung,
chương trình môn học đạo đức công vụ, công chức, Đề tài khoa học cấp Bộ,
10
Học viện Hành chính. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của môn
học đạo đức công vụ, công chức. Từ đó phân tích thực tiễn đạo đức trong
nền công vụ ở nước ta hiện nay; đề xuất và xây dựng đề cương chi tiết môn
học đạo đức công vụ.
Đỗ Thị Ngọc Lan (2012) “Nghiên cứu so sánh quy định về đạo đức

công vụ của một số quốc gia và Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, cuốn sách gồm ba chương, chương 1, Một số vấn đề chung về đạo đức
công vụ, tác giả đã đưa ra những nội dung chủ yếu như phương pháp nghiên
cứu so sánh; những khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đạo đức công vụ:
“đạo đức là một bộ các nguyên tắc hành động đúng”; “công vụ” là một hoạt
động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp
luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã
hội”; “ quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên
chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm
những việc phải làm hoặc không được làm, phù hợp với đặc thù của từng
nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ,
nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên
chức”; “hệ thống quản lý đạo đức công vụ bao gồm khung pháp lý và khung
tổ chức”. Chương 2, Nghiên cứu so sánh các quy định hiện hành về đạo đức
công vụ của một số quốc gia, ở chương này, tác giả đã so sánh mục đích của
các quy định về đạo đức công vụ các nước trên thế giới và Việt Nam, “có
thể nhận thấy rằng, trong khi nhiều nước nhấn mạnh đến sự tín nhiệm, tin
tưởng, ủy quyền, và tính liêm chính thì quy định của Việt Nam lại ít nói tới
những điều này”. Đồng thời, tác giả cũng so sánh những giá trị cốt lõi của
đạo đức công vụ của các nước như Việt Nam, Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản,
Phillipin, nổi lên hai giá trị cốt lõi quan trọng mà các nền công vụ đều nhấn
mạnh là “tính chuyên nghiệp và giá trị đạo đức”; so sánh những nguyên tắc
11
chung và những nội dung cụ thể của bộ quy tắc ứng xử: “Về mâu thuẫn lợi
ích; vấn đề nhận quà biếu và các lợi ích khác; vấn đề tiết lộ thông tin của cơ
quan; công khai tài sản; hoạt động chính trị; hạn chế các hoạt động bên
ngoài; quan hệ với công chúng, công dân; quan hệ với đồng nghiệp; sử
dụng tài sản công”; so sánh những nội dung cụ thể trên là cơ sở để tác giả đề
xuất một số khuyến nghị cho việc xây dựng hệ thống quản lý đạo đức công
vụ của Việt Nam trong tương lai. Chương 3, Một số khuyến nghị cho hệ

thống quản lý đạo đức công vụ của Việt Nam, tác giả đã đề cập đến chín vấn
đề cơ bản là: “Xác định giá trị cốt lõi; Làm rõ các nguyên tắc; Cụ thể hóa
các quy tắc ứng xử; Tuyên truyền người dân về quyền của họ và nghĩa vụ
của công chức; Giáo dục đạo đức công vụ cho công chức; Nêu gương của
lãnh đạo; Công khai, minh bạch các thủ tục hành chính có liên quan đến
các cam kết WTO; Gắn kết đạo đức công vụ với phòng, chống tham nhũng;
Kiểm soát hay cam kết?”. Tuy nhiên, như đã xác định trong phần mở đầu,
các tác giả xem đây là một nghiên cứu bước đầu, một bản gợi ý cho các
nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực đạo đức công vụ.
Giáo trình:“Đạo đức công vụ” do PGS.TS. Nguyễn Đăng Thành,
PGS.TS. Võ Kim Sơn chủ biên gồm 7 chương: Chương 1, Một số vấn đề
chung về đạo đức, tác giả đã đưa ra những cách tiếp cận về đạo đức “Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội; đạo đức là một phương thức điều chỉnh
hành vi con người; đạo đức là một hệ thống các giá trị của cá nhân, xã hội
và tổ chức. Đạo đức liên quan đến cách ứng xử, quan hệ con người - con
người; con người - xã hội và cách ứng xử của từng con người cụ thể trong
một xã hội nhất định. Hay đạo đức là những hành động của cá nhân, tổ
chức đối với xã hội, môi trường được chấp nhận chung” và vai trò của đạo
đức trong cuộc sống con người, xã hội có ba yếu tố đó là: “Vai trò điều
chỉnh hành vi cá nhân, con người, giai cấp, xã hội; vai trò giáo dục; vai trò
12
tạo sự nhận thức”. Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến mối quan hệ giữa đạo
đức và các hình thái ý thức xã hội khác; Đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội;
đạo đức tổ chức. Chương 2, Đạo đức người làm việc cho nhà nước và tư
tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức. Tác giả cho rằng, đạo đức người
làm việc cho nhà nước phải trở thành tấm gương; chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật nhà nước; Chấp hành một cách tự giác những nét biểu hiện văn
hóa đạo đức xã hội được xã hội tôn trọng; khi thực thi công việc đòi hỏi phải
tận tâm phục vụ; Chịu sự điều chỉnh riêng bằng những luật công cho chính
họ và cũng do chính họ ban hành ra cả những chuẩn mực về đạo đức. Bên

cạnh đó, tác giả cũng nêu lên những tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng. Chương 3, Đạo đức nghề nghiệp, tác giả đã đề cập đến nghề nghiệp
và đạo đức nghề nghiệp; đạo đức nghề nghiệp của một số nhóm nghề có tính
chất phổ biến cả khu vực công và khu vực tư. “Đạo đức nghề nghiệp chính
là tập hợp tất cả những hành vi được coi là phù hợp với các nhân viên,
người lao động trong một công ty, doanh nghiệp. Tất cả những hành vi ứng
xử, các mối quan hệ của người thực thi một nghề nghiệp nào đó cần phải
tuân theo dựa trên những quy định chung; quy định của hiệp hội và quy
định của ngay chính tổ chức sử dụng người đó”. Chương 4, Đạo đức thực thi
công vụ của công chức, có những nội dung chính đó là: công việc do công
chức đảm nhận mang tính nghề nghiệp; đạo đức thực thi công vụ của công
chức; tác giả đặc biệt nhấn mạnh các yếu tố đạo đức công vụ là công việc và
con người thực thi công việc đó. “Đạo đức công vụ trước hết được hình
thành từ đạo đức cá nhân của công chức; đạo đức công vụ được hình thành
từ khía cạnh đạo đức xã hội của công chức; đạo đức công vụ là đạo đức
nghề nghiệp đặc biệt - công vụ của công chức; đạo đức công vụ là sự tổng
hòa của hai nhóm đạo đức khi thực thi công việc của công chức và tuân thủ
pháp luật; đạo đức thực thi công vụ là sự hài hòa của các giá trị”. Chương
13
5, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong thực thi công vụ: “Đạo đức công vụ
trước hết là đạo đức cách mạng: trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm,
liêm, chính; Chí công vô tư, nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đạo đức thực thi
công vụ của chủ tịch Hồ Chí Minh là phải tránh những căn bệnh do thiếu
đạo đức sinh ra; tuyệt đối chấp hành kỷ luật của tổ chức đề ra; đạo đức
công vụ cũng phải được thể hiện thông qua việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, đảng viên, công chức một cách tốt nhất, hiệu quả nhất; đạo đức
công vụ gắn liền với các hoạt động về bố trí sử dụng cán bộ; đạo đức công
vụ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những nguyên tắc xây dựng đạo đức
mới”. Chương 6, Pháp luật về đạo đức công vụ. Tác giả đưa ra nguyên tắc
chung để xây dựng pháp luật về đạo đức công vụ: “Về nguyên tắc, công

chức khi tiến hành thực thi công vụ phải tuân thủ những chuẩn mực vừa
mang tính đạo đức xã hội; đạo đức nghề nghiệp với những chuẩn mực quy
định mang tính pháp luật của nhà nước trong các quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người với xã hội; giữa con người với các tổ chức
trên cơ sở hướng đến lợi ích chung”. Sau đó tác giả nêu lên pháp luật về đạo
đức công vụ ở Việt Nam. Chương 7, Pháp luật về đạo đức của một số nước
lựa chọn. Đó là: Trung Quốc, Liên Bang Nga, Thái Lan, và đạo đức công vụ
của các nước thuộc khối OECD.
Luận án tiến sỹ “Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước
ta hiện nay”(2012) của tác giả Cao Minh Công. Từ góc độ triết học, luận án
phân tích vấn đề trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức cũng như mối quan
hệ biện chứng giữa chúng. Tác giả đưa ra khái niệm “đạo đức công chức là khái
niệm liên quan đến mức độ hài lòng của nhân dân về hành vi của công chức
trong thực thi công vụ, trên cơ sở các định chế pháp lý ở mỗi giai đoạn nhất
định của lịch sử. Đạo đức công chức là một bộ phận đạo đức của người công
chức bao gồm một hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc hành vi, xử sự trong
14
công vụ, nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách xử sự của công chức trong thực
thi công vụ”. Đồng thời làm rõ thực trạng trách nhiệm công vụ và đạo đức công
chức ở Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó, luận giải một số giải pháp nhằm
nâng cao trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
Trần Văn Phòng (2003), Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh
đạo chính trị hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5. Tác giả cho rằng, cán
bộ lãnh đạo chính trị phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, gương mẫu về
đạo đức, có kiến thức về khoa học lãnh đạo quản lý, có lối sống lành mạnh,
phong cách công tác dân chủ: “Đạo đức cách mạng - về bản chất - luôn hàm
chứa nội dung chính trị, là đạo đức chính trị. Có đạo đức cách mạng, người
cán bộ, đảng viên nói chung, người cán bộ lãnh đạo chính trị nói riêng mới
phát huy được vai trò tiên phong của mình; giương cao được ngọn cờ lãnh
đạo của Đảng; có cơ sở để thuyết phục, giáo dục, tập hợp quần chúng thực

hiện đường lối chính trị của Đảng. Mặt khác, sự sa sút về đạo đức của cán
bộ lãnh đạo chính trị, quan hệ tới sinh mệnh của Đảng”.
Nguyễn Hữu Khiển (2003), Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo
đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay, Triết học, số
10, tác giả cho rằng: Rèn luyện nhân cách người công chức theo những tiêu
chí đạo đức mới là cần thiết, thậm chí là cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
“Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế
những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa” theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội IX của Đảng, có thể khẳng định, là một trong những việc làm hết
sức cần thiết để nâng cao đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay”.
Thang Văn Phúc (2000), Nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo
đức cộng sản trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước”, Tạp chí Cộng
sản, số11, tác giả đã nhấn mạnh: “Giáo dục đạo đức là quá trình kết hợp
giữa giáo dục và tự giáo dục, là sự thức tỉnh tự phán xử và làm cho lương
15
tâm trong sạch. Mục tiêu của việc giáo dục đạo đức là quá trình biến nhận
thức cái tất yếu thành cái tự do,biến ý thức nghĩa vụ thành tình cảm, thành
niềm tin vững chắc, thành sự thôi thúc bên trong, hình thành ý thức cái cần
phải làm để khỏi xấu hổ trước người khác và trước bản thân. Thông qua
hoạt động công vụ, phục vụ nhân dân, người công chức không chỉ thực hiện
nghĩa vụ của mình là cống hiến cho xã hội mà còn phát triển làm phong phú
bản thân, tạo ra điều kiện cơ bản để đạt được hạnh phúc”.
Như vậy, các công trình trên đã nghiên cứu đạo đức công vụ, công
chức ở những khía cạnh khác nhau nhằm góp phần giải quyết những vấn đề
cấp thiết của thực tiễn đạo đức công chức trong nền công vụ Việt Nam; đã
góp phần làm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của đạo đức
công chức ở nước ta hiện nay. Những công trình này đã gợi mở cho chúng
tôi nhiều ý tưởng quan trọng, đồng thời là nguồn tư liệu quý báu trong quá
trình chúng tôi thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, những công trình trên
do những khuôn khổ và mục đích riêng, chưa làm sáng tỏ được những ảnh

hưởng của kinh tế thị trường đối với đạo đức công chức, chưa hệ thống hóa
được những chuẩn mực và những nguyên tắc đạo đức công chức được xây
dựng trong điều kiện hiện nay.
Thêm vào đó, qua kinh nghiệm và sáng kiến của một số nước trong
khu vực và trên thế giới đã giải quyết vấn đề đạo đức công vụ như Thái Lan,
Singapor, Malaysia, Trung Quốc, Nhật Bản v.v là những nguồn tài liệu
thực tế quý báu để chúng tôi tham khảo.
1.2. Những công trình nghiên cứu về đạo đức công chức và xây
dựng đạo đức công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
Trong cuốn sách“Xây dựng đạo đức cán bộ, công chức Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế”,
do Bùi Thế Vĩnh chủ biên, Nxb Thống kê ấn hành năm 2003. Đề tài đã hệ
16
thống hoá những vấn đề cơ bản của đạo đức cán bộ công chức từ những chỉ
dẫn của C.Mác - Ph.Ănghen đến V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng
thời, bước đầu cũng đã đưa ra một số giải pháp xây dựng đạo đức cán bộ
công chức trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên công trình
nghiên cứu đó, phần lớn tập trung làm rõ về mặt phương pháp luận và mô tả
mang tính chất liệt kê thực trạng đạo đức cán bộ công chức vào những năm
2002 về trước, khi đó mức độ đầu tư nước ngoài và giao lưu kinh tế quốc tế
chưa mạnh mẽ như hiện nay, nhất là sau khi nước ta ra nhập WTO. Hoàn
cảnh mới làm nảy sinh nhiều vấn đề về đạo đức trong đội ngũ cán bộ công
chức gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, chẳng hạn, những cán bộ
công chức làm công tác đền bù giải phóng mặt bằng, thực hiện nghĩa vụ
không vô tư, không bảo đảm sự công bằng, bình đẳng nên để cho dân khiếu
kiện với quy mô ngày càng lớn. Hay, cán bộ công chức tiếp nhận đầu tư, giải
quyết mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia và lợi ích của các chủ đầu tư nước
ngoài, có người làm thiệt hại cho đất nước để nhân dân ca thán.
Luận văn thạc sỹ “Đạo đức công vụ trong hoạt động quản lý nhà
nước ở Thành phố Hồ Chí Minh”(2010) của tác giả Phan Kiều Thanh

Hương. Tác giả đã đánh giá nhận thức của công chức về nội dung thực hiện
đạo đức của công chức được quy định trong điều 15 Luật cán bộ, công chức
năm 2008. Xác định tầm quan trọng thực hiện đạo đức công vụ trong quản
lý Nhà nước là nghĩa vụ của công chức; người công chức phải luôn xác định
vị trí chủ thể khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn bằng những hành động cụ thể
tạo hiệu quả tốt nhất cho hoạt động quản lý công vụ. Xác định những nội
dung cơ bản tạo thành đạo đức công vụ và vai trò đạo đức công vụ trong
hoạt động quản lý Nhà nước. Khẳng định công chức phải có đức có tài, lấy
đức là chính, khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, xa rời quần
chúng, quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm, chia rẽ, cục bộ địa phương.
17
Mức độ quan tâm của nhân dân trong việc thực hiện đạo đức công vụ trong
quản lý nhà nước của công chức. Từ đó tác giả đưa ra thực trạng về thực
hiện đạo đức công vụ và đề ra giải pháp nâng cao trách nhiệm, thực thi đạo
đức công vụ của công chức trong hoạt động quản lý Nhà nước ở Thành phố
Hồ Chí Minh.
Luận án tiến sỹ “Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước
ta hiện nay”(2012) của tác giả Cao Minh Công. Tác giả đã phân tích thực
trạng của đạo đức công chức. Sau gần 30 mươi năm đổi mới, Việt Nam thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng, chúng ta đã có những bước
tiến quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đó là: “Nền kinh tế vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được
tốc độ tăng trưởng khá, các ngành nghề đều có bước phát triển, tiềm lực và quy
mô nền kinh tế tăng lên; giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá và
các lĩnh vực xã hội có tiến bộ; bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng
hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định;
quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị
thế, uy tín của nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ”[20, tr.16 -
17]. Tất cả những điều đó phản ánh sự đúng đắn trong việc lựa chọn con đường,

mục tiêu phát triển đất nước trong công cuộc đổi mới. Việt Nam đã là thành viên
của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, đặc biệt khi trở thành thành viên của Tổ
chức thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, cải cách hành chính là một yêu
cầu bắt buộc, mà trong đó xây dựng đạo đức công chức như là sự cam kết của
Việt Nam nhằm xây dựng nền hành chính với những chuẩn mực thống nhất, dân
chủ, bảo đảm tính công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và bình đẳng đối với tất cả
các thành viên của các tổ chức này trong quá trình toàn cầu hoá. Đồng thời tác
giả cũng đưa ra những thành tựu của xây dựng đạo đức công chức trong thực thi
18
công vụ tập trung qua một số khía cạnh cơ bản như sau: Cơ chế pháp lý đảm bảo
quyền chính trị của công dân được nhà nước chú trọng xây dựng, hoàn thiện
theo hướng phục vụ nhân dân, có trách nhiệm với nhân dân ngày càng đầy đủ
hơn, hiệu quả hơn.
Thể chế hành chính nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân thời gian qua
đã góp phần khắc phục tính quan liêu, hách dịch của một bộ phận công chức,
từng bước hướng đến nền công vụ minh bạch, dân chủ, phục vụ nhân dân. Công
chức có đạo đức trong thực thi công vụ, thể hiện lương tâm, trách nhiệm của
mình vì lợi ích chung của xã hội, của nhân dân, ý thức rõ về cái cần phải làm và
mong muốn được làm vì nhân dân, phục vụ nhân dân một cách liêm chính nhất.
Đa số công chức dù làm việc ở những vị trí khác nhau đều có cống hiến nhất
định cho dân tộc, góp phần phục vụ nhân dân. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương được điều chỉnh, sắp xếp tinh
gọn, hợp lý hơn. Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính đã điều chỉnh một bước
quan trọng về chức năng, nhiệm vụ. Có sự chuyển biến theo hướng tích cực về
chất lượng và phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức có những bước chuyển biến rõ rệt. Thành tựu về cải cách tài
chính công và hiện đại hóa nền hành chính nhà nước. Qua đó tác giả cũng đề cập
đến nguyên nhân của những thành tựu trên: thứ nhất, có được những thành tựu
trên là do sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tiến trình đổi mới; thứ
hai, là do quyết tâm chính trị và trách nhiệm của người đứng đầu ngày càng có

nhiều quy định và đã được thực thi trên thực tế. Thứ ba, nâng cao tính minh
bạch, trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ góp phần nâng cao trách
nhiệm công vụ và đạo đức công chức. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đề cập đến
một số hạn chế trong xây dựng đạo đức công chức đó là: đạo đức công chức
chưa thể hiện rõ ràng ở việc cải cách thể chế; chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước trong cơ chế mới; đạo
19
đức và thái độ phục vụ nhân dân của một bộ phận công chức còn yếu kém; chế
độ tiền lương đối với công chức chưa có bước đột phá tích cực; tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí làm cản trở quá trình phát triển của Việt Nam, đi ngược lại
với mục tiêu nâng cao trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức. Những hạn
chế, yếu kém này còn do nhiều nguyên nhân: thứ nhất, sự nghiệp đổi mới kinh tế
ở nước ta diễn ra chưa lâu, các quy luật của nền kinh tế theo cơ chế thị trường
mới bước đầu bộc lộ và còn chưa được nhận thức đầy đủ; thứ hai, những nguyên
nhân về kinh tế và thể chế; thứ ba, công tác chỉ đạo điều hành việc cải cách hành
chính, xây dựng nền công vụ phục vụ nhân dân thời gian qua còn chưa sâu sát và
kịp thời; thứ tư, công tác giáo dục tinh thần trách nhiệm và đạo đức công chức
chưa được quan tâm đầy đủ, việc xử lý các vi phạm của công chức chưa đủ sức
răn đe; thứ năm, ảnh hưởng của cơ chế cũ – trách nhiệm tập thể và mệnh lệnh
hành chính. Như vậy, trong công trình nghiên cứu của mình tác giả đã đưa ra
những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan trong xây dựng đạo
đức công chức ở nước ta trong thời gian qua.
Nguyễn Văn Phúc (2001), Vấn đề đạo đức nghề nghiệp trong nền kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay, Triết học, số 7, trong bài viết này tác giả đã
nêu lên tính cấp thiết của yêu cầu xây dựng đạo đức nghề nghiệp: “Do tác
động của kinh tế thị trường và do đặc trưng nghề nghiệp quy định, ngày nay
trong hoạt động nghề nghiệp, con người luôn gặp phải những vấn đề mà
việc giải quyết chúng sẽ không có hiệu quả nếu chỉ áp dụng một cách máy
móc những nguyên tắc, những chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Bởi
vậy, những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp với tư cách là sự cụ thể hóa các

yêu cầu đạo đức xã hội sẽ tạo ra một hành lang an toàn giúp con người ứng
xử trong hoạt động nghề nghiệp, vừa đảm bảo hiệu quả hoạt động vừa hợp
đạo lý, vừa thực hiện được lợi ích cá nhân, vừa tăng cường lợi ích của xã
hội”. Đây cũng là những gợi mở để xây dựng đạo đức nghề nghiệp trong
20
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay: “Nó đòi hỏi sự quan tâm
không chỉ của các lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cụ thể, mà của cả xã hội.
Đạo đức xã hội phát triển được là phụ thuộc khá nhiều vào sự phát triển
đạo đức nghề nghiệp”.
Cuốn sách “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” của TS. Trịnh Duy Huy, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, 2009. Tác giả đã đưa ra các khái niệm kinh tế thị trường như sau:
“Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó các quá
trình kinh tế, quan hệ kinh tế được thực hiện thông qua thị trường, là nền
kinh tế vận động theo các quy luật của thị trường, trong đó quy luật giá trị
giữ vai trò chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung - cầu trên thị
trường”. Theo tác giả tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức theo
hướng tích cực: “Thứ nhất, khi đã có thói quen tuân thủ các nguyên tắc, các
chuẩn mực đạo đức trong hoạt động kinh tế, con người có xu hướng mở
rộng các nguyên tắc, các chuẩn mực đó sang lĩnh vực hoạt động sống ngoài
kinh tế. Thứ hai, kinh tế thị trường phát triển sẽ làm hình thành nhiều hình
thức hoạt động nghề nghiệp, làm cho nhiều hoạt động trở thành hoạt động
nghề nghiệp. Hoạt động nghề nghiệp là hoạt động chủ yếu, phương thức
sống chủ yếu của con người. Thứ ba, sự phát triển của kinh tế thị trường mà
gắn liền với nó là tăng trưởng kinh tế và tiến bộ của công nghệ tạo ra nhiều
điều kiện cho sự phát triển con người”. Bên cạnh đó tác giả cũng đề cập đến
những tác động tiêu cực đến đạo đức vì:“ thứ nhất, chủ thể kinh tế thị trường
là con người kinh tế, mà con người kinh tế thì cứ có lợi kinh tế là nó hoạt
động. Thứ hai, trong điều kiện kinh tế thị trường, giá trị của con người kinh
tế được đo bằng hiệu quả của hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh”. Tác

giả nêu lên đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay.Và một số giải pháp có tính định hướng đối với việc xây dựng đạo đức
21
mới trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là: “Đẩy mạnh việc xây
dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh dân chủ hóa xã hội gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương xã hội; kế thừa
và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống kết hợp với tiếp thu các giá trị
đạo đức nhân loại trong xây dựng đạo đức mới; đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả của giáo dục đạo đức mới hiện nay”.
Lương Đình Hải (2004), Mấy vấn đề về phẩm chất đạo đức của cán
bộ, đảng viên trong thời kỳ đổi mới, Triết học, số 5.Trong bài viết này tác
giả đã chỉ ra những biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức cách mạng của
người cán bộ, đảng viên do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan
lẫn nguyên nhân khách quan: “Xét đến cùng, đời sống đạo đức của cán bộ,
đảng viên ta hiện nay là sản phẩm của tình hình kinh tế nước ta. Nền kinh tế
cũng như đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam hiện không thuần nhất.
Tính chất đan xen hết sức phức tạp của các loại hình kinh tế đang tồn tại ở
nước ta tạo nên sự đan xen, hòa quyện, bài trừ nhau giữa các hệ giá trị,
chuẩn mực đạo đức khác nhau trong đời sống xã hội. Điều đó làm cho sự
suy thoái và xuống cấp đạo đức của cán bộ, đảng viên có thêm cơ hội phát
triển và biểu hiện dưới những biến thể khác nhau”. Và tác giả cũng cho
rằng: “Hiện nay, vấn đề rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức cách mạng đang là
vấn đề quan trọng và cấp bách hàng đầu, có quan hệ trực tiếp đến uy tín,
thanh danh, chất lượng và vai trò lãnh đạo của Đảng, đến sự thành bại của
công cuộc đổi mới trong tương lai”. Vì vậy, tác giả đã đưa ra các chuẩn mực
đạo đức cách mạng như: “Trung với nước, hiếu với dân;thực hiện cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân; lao
động sáng tạo, có hiệu quả cao”.
22
Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên - 2005), Đạo đức người cán bộ chính trị

hiện nay. Thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tác giả
cuốn sách đã phân tích vai trò, nội dung và yêu cầu về đạo đức của người
cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay, đồng thời tác giả khẳng định tầm quan trọng của đạo đức người cán bộ
lãnh đạo chính trị hiện nay: “Đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo
chính trị có tác dụng giáo dục, nêu gương cho quần chúng noi theo trong
quá trình xây dựng lối sống mới, xây dựng các quan hệ xã hội mới và là
nhân tố tác động tích cực quyết định trực tiếp trong cuộc đấu tranh chống
tham nhũng và tệ nạn xã hội hiện nay; cũng như vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển xã hội, hoàn thiện con người, mà trước hết nó là mục tiêu và động
lực xây dựng, phát triển hoàn thiện đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị”. Tác
giả nêu lên thực trạng đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay
dưới tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đối
với đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị và một số phẩm chất đạo đức
cách mạng của cán bộ nảy sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường: “Lòng trung thành với lý tưởng của Đảng, tính trung thực, tinh thần
dân chủ, lòng yêu nước, tính nguyên tắc, lòng dũng cảm, lòng nhân ái, tính
khiêm tốn”. Mặt khác, tác giả cũng đã xác định một số phương hướng, giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chính trị ở Việt Nam đó là: “Nâng cao phẩm chất người cán bộ lãnh
đạo chính trị gắn liền với việc phát triển kinh tế - xã hội; tạo môi trường
cho sự hình thành và phát triển đạo đức; đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa
trong đảng và trong toàn xã hội; gắn liền với quá trình nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục đạo đức và phát huy tính tự giác, tự rèn luyện đạo đức
của đội ngũ này; đồng thời gắn liền với công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng,
23
đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng”. Tuy nhiên tác giả chưa
nghiên cứu vấn đề đạo đức của cán bộ, công chức, chưa đưa ra những chuẩn
mực đạo đức cần thiết của người cán bộ lãnh đạo chính trị là gì.
Đỗ Lan Hiền (2002), Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát

triển kinh tế thị trường, Triết học, số 4, tác giả cho rằng chỉ có trên cơ sở kết
hợp một cách tổng thể giáo dục đạo đức với thi hành luật pháp, tăng cường
áp lực xã hội đối với những hành vi đạo đức cá nhân, chúng ta mới có thể
vượt qua những thách thức, những hậu quả tiêu cực của nền kinh tế thị
trường đối với đạo đức xã hội.
Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên)(1999), Sự biến đổi thang giá trị đạo đức
trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản
lý ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Cuốn sách gồm ba
phần: Phần 1, Đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường; tác giả đã chỉ ra
mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội do các quan hệ kinh tế - xã hội quy định” và tác động “hai mặt” của cơ
chế thị trường đối với đạo đức xã hội theo hai hướng tích cực và tiêu cực:
“Đứng về phương diện đạo đức xã hội, sự ảnh hưởng tích cực của nền kinh
tế thị trường là từng bước hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong con
người, rèn luyện con người ý thức lao động và sáng tạo, đó là những phẩm
chất về nghĩa vụ, ý chí, lòng dũng cảm, tính nguyên tắc và tính khiêm tốn ở
mỗi con người trong đời sống xã hội”. Kinh tế thị trường cùng với những tác
động tích cực còn có tác động tiêu cực tới sự phát triển nhân cách, cá tính
con người như: “chủ nghĩa cá nhân; chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức; tha
hóa về phong cách, lối sống; coi đồng tiền là giá trị chân thực duy nhất
dùng để đo giá trị của bản thân và của người khác”. Đồng thời tác giả đưa
ra một số phạm trù đạo đức đối với nền kinh tế thị trường hiện nay như:
“Phạm trù lương tâm; lẽ sống; hạnh phúc; nghĩa vụ”. Phần hai, Sự biến đổi
24
của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, ở phần này tác giả đã phân tích tìm ra những nguyên nhân
của sự biến đổi đạo đức đó là: “Đất nước ta đang trong giai đoạn hòa bình,
xây dựng, đổi mới và mở cửa là điều kiện cơ bản cho sự biến đổi thang giá
trị đạo đức cũ; quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế cũ sang cơ chế kinh tế
mới, tạo ra những yếu tố kích thích cho sự biến đổi những quan niệm, đạo

đức, lối sống; nền kinh tế thị trường tuân theo nguyên tắc trao đổi hàng hóa,
tôn trọng hiệu quả của sản xuất kinh doanh; do ảnh hưởng của tư tưởng coi
trọng lợi ích vật chất trực tiếp của cá nhân hơn nghĩa vụ và trách nhiệm đối
với tập thể, với quốc gia cho nên xuất hiện khuynh hướng coi nhẹ giáo dục
đạo đức truyền thống, coi nhẹ giáo dục và xây dựng đạo đức mới xã hội chủ
nghĩa; mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp nhận những yếu tố tích cực của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ, lối sống hiện đại cũng là một điều
kiện làm biến đổi thang giá trị đạo đức của chúng ta; vừa giữ gìn những giá
trị truyền thống của dân tộc, vừa tiếp thu những giá trị mới mẻ của nhân
loại”. Phần ba, Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền kinh tế
thị trường phương hướng và giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới,
tác giả đưa ra yêu cầu đối với cán bộ quản lý trong cơ chế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đó là: “Người cán bộ phải có tri thức; phải
kiên định lập trường tư tưởng chính trị, tin tưởng vào đường lối, tin vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho dù đường chúng ta đi còn lắm
chông gai, thách thức; người cán bộ quản lý không chỉ hiểu đúng nhiệm vụ
chính trị mà còn phải hiểu đúng người, nhất là người dưới quyền mình,
nhằm lôi cuốn, khuyến khích người lao động, khơi dậy tính tích cực và óc
sáng tạo của quần chúng, tất cả vì sự nghiệp chung”. Trên cơ sở đó tác giả
đề cấp đến phương hướng và giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới:
“ Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải lấy con người làm
25

×